Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Bài sáng kiến kinh nghiệm lớp 5 môn tập làm văn rèn kỹ năng viết văn tả cảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.85 KB, 13 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tất cả chúng ta đều hiểu rằng, học sinh Tiểu học chỉ có thể học tập được
các mơn học khác khi có kiến thức Tiếng Việt vì đây là phương tiện giao tiếp, là
công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Trong mơn Tiếng Việt có nhiều
phân mơn, mỗi phân môn mang một kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau.
Bắt đầu khởi động bằng môn Học vần, tiếp theo là Tập viết, Chính tả, Luyện từ
và câu,… cuối cùng làTập làm văn.
Tập làm văn là một phân mơn rất quan trọng trong chương trình dạy học
tiểu học. Nó khơng chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc,
viết mà cịn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và
cịn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới. Đặc
biệt, kiến thức Tập làm văn ở Tiểu học tập trung nhiều trong chương trình Tập
làm văn lớp 4 – 5 với các kiểu bài như: trao đổi ý kiến; kể chuyện; miêu tả.., tôi
nhận thấy học
sinh có thể làm tốt các kiểu bài ở thể loại văn miêu tả như: tả đồ vật, tả con vật,
tả người; nhưng trong chương trình Tập làm văn lớp 5, khi làm văn tả cảnh thì
học sinh cịn nhiều lúng túng; câu văn thường ngắn ngủn, thiếu bộ phận, thiếu
hình ảnh; diễn đạt rườm rà, thiếu cảm xúc... Các bài viết thường rơi vào tình
trạng liệt kê, kể mà không tả. Do vậy, khi dạy kiểu bài này địi hỏi giáo viên
phải có nhiều sáng tạo, linh hoạt trong q trình lên lớp, chuẩn bị thật cơng phu
các tình huống có thể gặp ở học sinh.
Là một giáo viên đã trải qua nhiều năm giảng dạy chương trình lớp 4, 5 ,tôi
nhận thấy văn tả cảnh là một kiểu bài khó vì học sinh chưa có khả năng quan sát
tinh tế, chưa cảm nhận được vẻ đẹp hay những thay đổi của cảnh, không biết
dựa vào cảm xúc của mình để làm cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn và
viết thành những bài văn thì lại càng khó khăn hơn nhiều. Đây lại chính là cái
đích cuối cùng mà phân mơn Tập làm văn địi hỏi người học cần đạt tới.
Chính vì vậy, tơi ln trăn trở suy nghĩ để làm thế nào cho học sinh thích
làm văn,lời văn chân thật, có cảm xúc. Trong 3 năm học: ……., …….; …….,
1/30




tơi đã dạy và tìm hiểu khá kĩ về mảng Tập làm văn, đặc biệt là văn tả cảnh lớp 5.
Tôi đã áp dụng một số phương pháp và thấy có những kết quả đáng mừng. Kinh
nghiệm này được áp dụng và đã mang lại hiệu quả nhất định trong dạy Tập làm
văn. Năm học ……., tôi mạnh dạn đề xuất sáng kiến kinh nghiệm nhỏ “ Rèn kĩ
năng viết văn tả cảnh cho học sinh lớp 5”, để nghiên cứu với hi vọng góp phần
nâng cao trình độ của bản thân và nâng cao chất lượng bài viết văn tả cảnh cho
học sinh. Qua đây, tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của đồng
nghiệp để sáng kiến thực sự có giá trị trong q trình dạy học.
2.Mục đích nghiên cứu:
*Giúp học sinh lớp 5:
- Hiểu được đặc điểm của thể loại văn tả cảnh, trọng tâm miêu tả của từng bài.
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý, biết sử dụng sơ đồ tư duy để lập dàn ý
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết các đoạn văn, bài văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm u mến, gắn bó, biết trân trọng những cảnh vật xung
quanh các em.
- Có cách nhìn sự vật theo hướng tích cực, ham thích quan sát, tìm tịi khám phá.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả ở các lớp sau…
* Giúp giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 để vận dụng
phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tìm tịi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy TLV nói
chung và trong dạy học sinh viết văn tả cảnh nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học
3.Đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 5A trường Tiểu học Lê Văn Tám.
- Đối tượng nghiên cứu: Thể loại văn tả cảnh lớp 5, một số kinh nghiệm rèn viết
văn tả cảnh.

4.Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm đạt
hiệu quả, tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp
2/30


4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
4.2. Phương pháp quan sát sư phạm:
4.3. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
4.4. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
4.5. Phương pháp trực quan
4.6. Phương pháp thực hành
4.7.Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:

I.

NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận:
Trong chương trình Tiểu học, mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và
phát triển cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Thơng qua việc dạy học
Tiếng Việt, góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức
sơ giản về xã hội, về văn hóa của Việt Nam và nước ngồi. Bồi dưỡng tình u
Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng
Việt.
Môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau. Việc dạy và học mỗi
phân mơn có những thuận lợi và khó khăn riêng, song khó hơn cả đối với người
dạy cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học
Tiểu học. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung
quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng

dạy các em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản - còn gọi là đoạn văn,
bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng Việt.
Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính
của chương trình Tập làm văn lớp 5 là văn miêu tả. Tả cảnh là một kiểu bài khó
vì với học sinh lớp 5 kĩ năng quan sát, tư duy trừu tượng, vốn từ, vốn hiểu biết
vẫn cịn hạn chế. Trong khi đó, kiểu bài văn tả cảnh trong phân môn Tập làm
3/30


văn ở lớp 5 là thể loại văn dùng ngôn ngữ để “vẽ” ra các sự vật, con người, con
vật, cảnh vật, sự việc… một cách sinh động, cụ thể. Một bài văn miêu tả hay
không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động về đối tượng miêu tả mà
cịn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với
đối tượng được miêu tả. … Học sinh lại còn phải biết kết hợp hài hịa nhiều kĩ
năng như: phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn… Thế
nhưng trong thực tế giảng dạy tôi thấy số lượng học sinh viết được bài văn tả
cảnh hay còn rất hạn chế. Đa số các em khi làm bài văn tả cảnh cịn mang tính
kể lể, liệt kê các sự việc, sự vật. Kĩ năng sử dụng từ, viết câu, liên kết các đoạn
chưa tốt, các ý chưa gắn kết với nhau, câu văn thiếu hình ảnh và thiếu cảm xúc,
chưa gắn với thực tế dẫn đến chất lượng bài văn còn thấp so với yêu cầu.
Từ những hạn chế trên tôi luôn trăn trở suy nghĩ: Làm thế nào để tiết học Tập
làm văn nhẹ nhàng mà hiệu quả? Làm thế nào để các em hoạt động tích cực, chủ
động trong giờ học Tập làm văn? Làm thế nào để các em có kĩ năng viết được
một bài văn tả cảnh hoàn chỉnh đạt được yêu cầu như mong muốn?
Đó cũng chính là lí do tơi đưa ra nghiên cứu và đúc rút kinh nghiệm: “Rèn kĩ
năng viết văn tả cảnh cho học sinh lớp 5”.
2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a. Thực trạng học sinh:
Qua trực tiếp giảng dạy phân môn Tập làm văn, tôi thấy khi làm văn tả cảnh
trong bài viết của các em cịn có một số mặt hạn chế sau:

Tổng số

Bài viết xúc

Bài viết đúng

Bài viết đã

Bài viết chưa

HS

tích, lời văn

trọng tâm của

đúng yêu cầu

đúng yêu cầu

sinh động,

đề, lời văn chưa

của đề, nhưng

của đề, sắp xếp

sáng tạo, giàu giàu hình ảnh, ít
hình ảnh,


miêu tả cịn sơ ý lộn xộn bố

sử dụng các biện sài, chưa đúng cục bài chưa rõ

cảm xúc chân pháp nghệ thuật

trọng tâm ,sa

ràng, sai nhiều

thực.

vào liệt kê.

lỗi chính tả.

khi miêu tả.

4/30


43

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

8

18,6

18

41,9

13

30,2

4

9,3

Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn
trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với các em. Đôi khi các em ngại
viết, ngại và thậm chísợ phải làm bài văn miêu tả.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh

chưa đạt yêu cầu? Qua quá trình giảng dạy lớp 5 mà cụ thể là dạy dạng bài tập
làm văn tả cảnh, tôi nhận thấy chất lượng các bài văn tả cảnh của học sinh chưa
được cao do nhiều nguyên nhân.

b. Nguyên nhân của thực trạng:
* Về phía học sinh:
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định đúng yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Học sinh chưa tập trung quan sát đối tượng miêu tả hoặc là khi quan sát thì các
em thiếu kĩ năng và mục đích quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu? Làm
thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả?...
- Các em chưa biết hình dung các đối tượng miêu tả thơng qua hình ảnh, âm
thanh, cảm giác… về sự vật khi quan sát.
- Các em ít tìm hiểu và đọc sách, báo, tài liệu tham khảo liên quan đến mơn học
để tích lũy vốn từ nên vốn từ của các em đơn điệu, nghèo nàn. Các em lại không
biết sắp xếp câu văn, ý văn như thế nào để bài viết được mạch lạc. Bên cạnh đó
việc diễn đạt một cảnh bằng vốn từ ngữ của các em về một sự vật, cảnh vật, về
một con người cụ thể nào đó cũng gặp nhiều lúng túng.
* Về phía giáo viên:
- Giáo viên chưa linh hoạt, chủ động, sáng tạo khi tổ chức dạy trên lớp, hình
thức dạy học còn đơn điệu chưa gây được hứng thú cho học sinh.
- Giáo viên chưa quan tâm rèn luyện cho học sinh thói quen đọc sách, đọc các
bài văn mẫu để học tập các ý văn hay, từ ngữ đẹp, cách tả mới mẻ.
5/30


- Giáo viên thực hiện các yêu cầu khi trả bài viết của học sinh chưa thật sự tỉ mỉ,
chưa giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để có sự
chỉnh sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau. Đây không phải là vấn đề có thể giải
quyết được trong một tiết, một tuần… mà là cả một quá trình dạy Tập làm văn
bởi dạng văn tả cảnh là sự kết hợp của nhiều thể loại văn các em đã học và cịn

cần có cách nhìn, cách nghĩ, cách sáng tạo mới.
3. Các biện pháp đã sử dụng :
3.1. Những vấn đề cần giải quyết.
Đứng trước thực trạng dạy và học như trên, yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải đổi
mới phương pháp dạy học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn một cách
say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn. Để đạt được mục tiêu trên theo
tôi cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề chính sau:
- Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát và ghi chép.
- Làm giàu vốn từ cho học sinh bằng cách luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu,
sử dụng biện pháp nghệ thuật trong văn miêu tả thông qua tất cả các phân môn
của môn Tiếng Việt.
- Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh
nói riêng.
3.2. Một số biện pháp để giải quyết các vấn đề.
Từ kinh nghiệm dạy học của mình, tơi xin đưa ra một số biện pháp để giải
quyết các vấn đề được nêu ở trên giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh như sau:
a. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh.
- Đối tượng của văn miêu tả là những sự vật, sự việc, là thế giới thiên nhiên, là
con người và cuộc sống con người. Đó là một thế giới hết sức đa dạng, phức tạp
và sống động diễn ra quanh ta, thay đổi từng giờ, từng ngày. Vậy nên tôi yêu cầu
học sinh phải thường xuyên quan sát và ghi chép.
- Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả thì kĩ năng quan sát và ghi chép
những điều đã quan sát được là một trong những việc làm rất cần thiết. Ngay từ
đầu năm học, tôi đã hình thành và tạo cho các em có thói quen quan sát và ghi
6/30


chép những điều mình quan sát được về đối tượng mình cần miêu tả( Chẳng hạn
khi tả cây có bóng mát, tôi cho học sinh trực tiếp xuống sân trường quan sát các
cây cho bóng mát như bàng, xà cừ,.... Tôi yêu cầu các em quan sát bằng các

giác quan để cảm nhận các đặc điểm của cây như: dùng tay sờ vào thân cây để
cảm nhận lớp vỏ thô nhám, sần sùi; Vịng tay ơm thân cây để thấy độ to của
thân, dùng mắt để quan sát màu sắc của lá, dùng tai để lắng nghe tiếng lá
reo khi có gió thổi....). Chính nhờ tạo được cho các em thói quen quan sát đó
nên khi chuyển sang thể loại tả cảnh, các em biết quan sát đối tượng miêu tả qua
các tiết học ngoài trời, quan sát thực tế với những bài văn tả cảnh đẹp quê
hương, trường lớp,…
- Muốn quan sát có hiệu quả , tơi hướng dẫn các em quan sát phải có tính mục
đích, phải có cách nghĩ, cách cảm nhận của riêng mình. Qua việc quan sát chi
tiết tỉ mỉ, học sinh sẽ thấy được bản chất của sự việc. Khi quan sát, tôi yêu cầu
các em tránh những chi tiết rời rạc, tản mạn, mang tính chất liệt kê. Miêu tả một
cách chi tiết nhưng mà phải chọn lọc, lựa chọn những điểm riêng biệt, nổi bật,
gây ấn tượng,… Đó là những chi tiết lột tả được cái thần của cảnh. Tôi cũng yêu
cầu học sinh ghi chép lại những hình ảnh quan sát được một cách đầy đủ.
- Ban đầu tôi hướng dẫn học sinh quan sát để tìm ra màu sắc, âm thanh, hình
ảnh tiêu biểu của sự vật và cảm xúc của mình đối với sự vật.
Khi quan sát, tơi khuyến khích các em cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan
khác nhau:
+ Quan sát bằng mắt để nhìn ra hình khối sự vật.
+ Quan sát bằng tai để nhận ra âm thanh, nhịp điệu gợi cảm xúc.
+ Quan sát bằng mũi nhằm nhận ra những mùi vị tác động đến tình cảm.
+ Quan sát bằng vị giác, xúc giác để cảm nhận.
Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận được nhiều ý, hình ảnh phong phú
* Ví dụ: Đề bài “Em hãy lập dàn ý tả một cơn mưa.”
(Tập làm văn: Luyện tập tả cảnh – Tiết 5 tuần 3 – SGK trang 31)
7/30


- Tôi hướng dẫn học sinh quan sát bằng các giác quan như sau:
+Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy hạt mưa rơi, thấy

cây cối, con người (trước, trong và sau cơn mưa)...
+ Xúc giác: Gió thổi làm xua tan cái nóng mà nhường chỗ cho luồng khí mát lạnh.
+ Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng ếch
nhái... - Bên cạnh đó, các em học sinh được tơi lưu ý: khi quan sát cần quan sát
tỉ mỉ. Tôi nhấn mạnh cho các em các nội dung:
+ Cần xác định rõ vị trí, thời điểm, thời gian, trình tự quan sát.
+ Có thể quan sát từ cụ thể đến bao quát hoặc ngược lại.
+ Quan sát từ trong ra ngoài hoặc từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới…
+ Quan sát theo trình tự khơng gian (từ xa đến gần hay từ gần đến xa).
+ Quan sát theo trình tự thời gian (theo các thời điểm trong ngày, theo mùa ...)
Tôi minh họa cho học sinh các cách quan sát đó qua các bài tập đọc để các em
hiểu hơn và có thể vận dụng khi viết văn:
* Ví dụ 1: Quan sát từ ngoài vào trong để miêu tả cảnh Đền Hùng.
“Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những
khóm hải đường đâm bơng rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc bay dập
dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc Sơn Hà
uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”
* Ví dụ 2: Quan sát theo trình tự thời gian để miêu tả cây thảo quả.
( Bài : Mùa thảo quả trang 113 – SGK Tiếng Việt 5 tập 1)
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm
lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo
trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ một
thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.”
b. Làm giàu vốn từ cho học sinh:
Khi trực tiếp giảng dạy các tiết Tập làm văn tôi thấy các em học sinh ít tham
gia phát biểu. Lí do là các em không biết thể hiện ý của mình bằng câu văn nào,
8/30


hoặc khi viết câu văn còn diễn đạt lủng củng, chưa rõ nghĩa … bởi lẽ vốn từ của

các em cịn q ít. Chính vì thế tơi dùng biện pháp làm giàu vốn từ cho các em
trong các giờ sinh hoạt câu lạc bộ và qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và
câu và từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện,….
- Làm giàu vốn từ qua phân môn Tập đọc: Khi dạy Tập đọc tôi đã chỉ ra các
từ ngữ miêu tả, cách sử dụng biện pháp tu từ, cách đặt câu trong một vài trường
hợp đặc sắc để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng. Việc
phân tích này giúp các em tiếp cận đựơc với các văn bản nghệ thuật, tiếp cận
với kĩ năng viết văn một cách thường xuyên và có chất lượng mà lại nhẹ nhàng
khơng áp đặt.
- Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ qua phân mơn Luyện từ và câu: Ở lớp
5 phân môn Luyện từ và câu là phân mơn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ
nhiều nhất. Đặc biệt là các tiết: Mở rộng vốn từ; Từ đồng âm; Từ nhiều nghĩa;
Từ trái nghĩa. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ thể, thiết
thực như tìm từ, ghép từ, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm (nhóm
miêu tả đặc điểm của cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động)... Tơi khuyến khích các
em tìm được càng nhiều từ theo yêu cầu càng tốt bằng cách tổ chức thành các trị
chơi như : Nhìn hình đốn từ; đi tìm ẩn số, trị chơi truyền điiện ... để tạo hứng
thú và nhớ từ, hiểu nghĩa từ và sử dụng từ đúng với văn cảnh cụ thể cho các
em.
* Ví dụ: Tìm những từ ngữ miêu tả sóng nước. Đặt câu với một trong các từ ngữ
vừa tìm được

(Bài tập 4 - SGK Tiếng Việt 5 - trang 78 ).

a. Tả sóng nước. M: ì ầm, ì oạp.....
b. Tả làn sóng nhẹ. M: lăn tăn, ...
c. Tả đợt sóng mạnh. M: cuồn cuộn,....
Riêng với phần đặt câu tơi khuyến khích các em đặt câu thêm với các từ
khác. Việc làm này sẽ giúp các em biết sử dụng vốn từ để đặt câu.
- Làm giàu vốn từ từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện,…Tơi khuyến khích các

em xuống thư viện đọc sách, báo, truyện,... .để tích lũy thêm vốn từ.
9/30


- Làm giàu vốn từ cho học sinh trong các giờ sinh hoạt Sao; giờ hoạt động Ngoài
giờ lên lớp, phong trào “ Nói chuẩn, viết chuẩn Tiếng Việt”, .....
Để tích lũy vốn từ tơi khích lệ học sinh tham gia các hoạt động:

Học sinh hoạt động nhóm: Giúp các em mạnh Học sinh thi bày cỗ trung thu: Giúp các
dạn trong giao tiếp, nói mạch lạc, lưu lốt

em biết miêu tả lại sự vui vẻ, hào hứng, biết
dùng từ ngữ chỉ, màu sắc của các loại trái
cây, bánh kẹo...

Quang cảnh buổi lễ Chào cờ: Giúp các em

Niềm vui ngày Khai giảng: Qua buổi lễ,

biết quan sát trình tự của một buổi lễ Chào cờ,

học sinh thể hiện được tình cảm u trường

sắp xếp các ý hợp lí

lớp, thầy cơ, bạn bè...

10/30



Qua các cách trên học sinh nhận thấy tác dụng của việc sử dụng các từ ngữ
gợi tả, gợi cảm. Từ đó biết cách chọn từ và sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm,
những biện pháp nghệ thuật sao cho phù hợp với văn cảnh. Giúp các em mạnh
dạn và tự tin hơn trong giao tiếp.
c. Luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu, sử dụng biện pháp nghệ thuật
trong văn miêu tả.
* Về cách dùng từ: Sau khi học sinh đã có vốn từ nhất định, tôi giúp học sinh các
cách sử dụng vốn từ trong miêu tả.
- Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng, tình
cảm một cách rõ ràng.
- Dùng từ gợi cảm, gợi tả: Thường là các từ đơn, từ ghép, từ láy, động từ, tính từ.
- Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: Thường là từ láy, từ tượng hình, tượng thanh..
- Sử dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ.
+ Dùng từ chính xác: Mặt trăng trịn toả ánh sáng xuống vạn vật.
+ Dùng từ có hình ảnh: Mặt trăng tròn vành vạnh toả ánh sáng dịu dàng
xuống vạn vật.
+ Dùng âm thanh: Mưa rơi tí tách trên mái hiên, rơi lộp độp trên tàu lá chuối….
* Về cách đặt câu:
- Phải viết câu văn đúng ngữ pháp nghĩa là khi viết câu phải xác định được đâu
là chủ ngữ, đâu là vị ngữ, đâu là các vế trong câu ghép, ....
- Biết sử dụng các phép liên kết câu như: Phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên
tưởng... biết sử dụng các biện pháp tu từ về câu (câu hỏi tu từ, đảo ngữ, điệp
ngữ, so sánh, nhân hố...).
* Ví dụ: + Phép liên kết câu:
+ Phép lặp: Dịng sơng như dài lụa đào mềm mại. Nó cứ chảy mãi, chảy mãi
để mang phù sa màu mỡ cho đất đai.
+ Biện pháp tu từ (thường dùng):
11/30



. Câu hỏi tu từ: Bạn có biết cảnh đẹp mà người dân quê em rất đỗi tự hào
là cảnh gì khơng? Đó chính là dịng sơng Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa đấy!
. So sánh: Mặt trời như quả bóng trịn, đỏ hồng treo lơ lửng trên bầu trời.
. Nhân hoá: Nàng Xuân xinh đẹp mang những sắc màu lộng lẫy khốc lên
cỏ cây, hoa lá.
- Tơi giúp các em phân biệt được câu văn kể với câu văn tả để khi viết sẽ sử
dụng các câu văn miêu tả tránh dùng câu kể khiến người đọc có cảm giác như
người viết đang kể lể dài dòng về cảnh. Tôi luôn nhấn mạnh với học sinh:
+ Câu văn kể: Thông báo cho người đọc, người nghe biết về sự việc, sự vật.
+ Câu văn tả: là câu văn phối hợp nhiều yếu tố (Các kiểu câu, các loại câu, các
biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm) để người đọc, người nghe có thể
cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc ... của cảnh đó.
Câu văn kể
- Mặt trời chiếu ánh nắng xuống
mặt đất.

- Lúc nào sông cũng chảy để mang
phù sa cho đất.

Câu văn tả
- Ông mặt trời vén màn mây trắng, ban
phát hàng ngàn vạn tia nắng vàng óng
như tơ xuống mặt đất.
- Hết năm này đến năm khác, sông cứ
cần mẫn chảy mang phù sa bồi đắp cho
đất đai màu mỡ, cây cối xanh tốt.

3.3. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả
cảnh nói riêng.
Việc cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh

nói riêng giúp học sinh viết bài văn đúng hướng, không bị sai lệch về cả nội
dung và hình thức.
a. Hướng dẫn học sinh nắm được 4 yêu cầu khi làm văn miêu tả:
hóa sự vật (tả cái gì?)

- Cụ thể
Ví dụ: Tả cánh

12/30


đồng

thì

tập

trung

tả

cánh

đồng,

khơng

miên

man


tả

sâu

cảnh

THƠNG TIN HỎI ĐÁP:
-------------------------Bạn cịn nhiều thắc mắc hoặc muốn tìm kiếm thêm nhiều tài liệu sáng kiến kinh
nghiệm mới mẻ khác của Trung tâm Best4Team
Liên hệ dịch vụ viết thuê sáng kiến kinh nghiệm
Hoặc qua SĐT Zalo: 091.552.1220 hoặc email: để hỗ trợ
ngay nhé!

13/30



×