BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Khóa luận tốt nghiệp ngành : LUẬT HỌC
Người hướng dẫn
: THS. NHÂM THÚY LAN
Sinh viên thực hiện
: ĐỖ HỒNG THU HƯƠNG
Mã số sinh viên
: 1905LHOC028
Khóa
: 2019-2023
Lớp
: LUẬT 19C
HÀ NỘI - 2023
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan toàn bộ nội dung của khố luận tốt nghiệp là cơng trình
nghiên cứu của cá nhân em trong suốt thời gian nghiên cứu. Các số liệu và
nguồn tham khảo là trung thực, chính xác và được trích dẫn đầy đủ. Em xin
hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành bài khố luận tốt nghiệp của mình trước hết em xin gửi lời
cảm ơn tới q thầy cơ Học viện Hành chính quốc gia, đã tận tình truyền đạt
kiến thức, dìu dắt em trong quá trình học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu
trong q trình học tập khơng chỉ là nền tảng cho q trình nghiên cứu chun
đề mà cịn là hành trang quý báu để em bước vào đời một cách vững vàng.
Đặc biệt, em xin gửi đến Th.S Nhâm Thuý Lan, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em hồn thành chuyên đề khoá luận tốt nghiệp này lời cảm ơn sâu
sắc nhất.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm tịi, nghiên cứu tuy nhiên do
khn khổ về thời gian, phạm vi nghiên cứu và hạn chế về kiến thức cũng
như kinh nghiệm nên bài luận văn tốt nghiệp khơng tránh khỏi những thiếu sót.
Do vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô và những
người quan tâm tới đề tài này để bài khố luận tốt nghiệp của em hồn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Ý nghĩa
BLDS
Bộ luật dân sự
HN&GĐ
Luật Hơn nhân và gia đình
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
TAND
Tịa án nhân dân
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 5
6. Bố cục của luận văn .................................................................................... 6
NỘI DUNG ........................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG .............................................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng .............. 7
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng................................................. 7
1.1.2. Đặc điểm chế độ tài sản của vợ chồng .................................................. 8
1.1.3. Ý nghĩa chế độ tài sản của vợ chồng..................................................... 9
1.2. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật ....... 10
1.2.1. Chế độ tài sản dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng ........................... 11
1.2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo các quy định của pháp luật ............ 12
1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn
lịch sử ............................................................................................................ 16
1.4. Chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của một số nước trên thế
giới ................................................................................................................ 20
1.4.1. Chế định tài sản của vợ chồng theo pháp luật Cộng hòa Pháp Pháp
luật ................................................................................................................. 21
1.4.2. Chế định tài sản của vợ chồng theo pháp luật Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa ..................................................................................................... 23
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG .................................................................................... 26
2.1. Quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng .............................. 26
2.1.1. Tài sản chung của vợ chồng ................................................................ 26
2.1.1.1. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng ..................................... 26
2.1.1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung .................. 28
2.1.1.3.Chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình .. 32
2.1.2. Tài sản riêng của vợ, chồng ................................................................ 38
2.1.2.1. Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng ...................................... 38
2.1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng ................... 42
2.2. Đánh giá quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng ......... 45
2.2.1. Điểm tích cực của quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng .... 45
2.2.2. Một số hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về chế độ tài sản
của vợ chồng ................................................................................................. 46
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 50
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ
ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG ..................................................................... 51
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 52
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 54
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói tài sản của vợ chồng là một trong những nội dung quan trọng
của Luật hơn nhân và gia đình, được thể hiện thông qua các quy định về vấn đề
tài sản của vợ chồng như: Căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ
chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó,... Tại Việt
Nam, những quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong hệ thống pháp luật là
chế độ đã tồn tại từ lâu, được các nhà làm luật trong nước liên tục điều chỉnh
theo các thời kỳ phát triển của đất nước để phù hợp với sự phát triển của xã hội
trong từng giai đoạn phát triển.
Trải qua quá trình thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng
những năm vừa qua cho thấy pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng đã góp
phần vào sự ổn định các quan hệ hơn nhân và gia đình, tạo cơ sở pháp lý thực
hiện các quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng và các bên liên quan. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được của pháp luật, quá trình thực hiện và
áp dụng các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng cho thấy vẫn còn tồn tại
khá nhiều bất cập và vướng mắc. Mặc dù, đã có khá nhiều văn bản của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định, hướng dẫn áp dụng về chế độ tài sản
của vợ chồng, nhưng do tính chất phức tạp và rất "nhạy cảm” từ các quan hệ
hôn nhân và gia đình nói chung, trong đó đặc biệt là các tranh chấp về tài sản
giữa vợ và chồng. Thực tiễn áp dụng đã có nhiều quan điểm, nhận thức, đánh giá
khác nhau. Chưa có sự thống nhất từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và cá nhân thực thi pháp luật, liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Trong
Báo cáo tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử của ngành Tòa án hàng năm,
hầu như đều có các vấn đề về xác định và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và
chồng. Điều đó cho thấy các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng luôn là loại
việc phức tạp, thường gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng, hạn chế và
cịn tồn tại nhiều bất cập trong công tác thi hành án liên quan đến chế độ tài sản
của vợ chồng. Nguyên nhân có nhiều, trong đó phải kể đến một số quy định của
Luật HN&GĐ - luật điều chỉnh chủ yếu về chế độ tài sản của vợ chồng mới chỉ
1
dừng lại ở tính chất định khung, nguyên tắc chung; các văn bản quy định chi tiết
thi hành và hướng dẫn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng còn thiếu, chưa cụ
thể, chưa theo kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện nền kinh
tế thị trường có địnhhướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tác giả đã quyết định lựa chọn
đề tài "Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam" làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp với mong muốn có cái nhìn tồn diện hơn cũng như góp phần
hồn thiện các quy định quan trọng về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp
luật hơn nhân và gia đình tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, ở nước ta đã có một số cơng trình nghiên cứu về
chế độ tài sản của vợ chồng. Các cơng trình đó có thể được phân loại thành ba
nhóm sau:
Nhóm các luận văn, luận án: Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu trong
nhóm này có: Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hơn nhân và gia đình Việt
Nam (Lã Thị Tuyền, Luận văn Thạc sĩ, 2014); Chế độ tài sản vợ chồng pháp
định theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 (Trương Thị Lan,Luận
văn Thạc sĩ, 2016); Chế định tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hơn nhân và
gia đình năm 2014 (Đào Thị Tuyết, Luận văn Thạc sĩ, 2016); Chế độ tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận và việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ
ba (Lê Ngọc Anh, Luận văn Thạc sĩ, 2021).
Nhóm giáo trình, sách chun khảo: Trong nhóm này phải kể đến một
số cơng trình tiêu biểu như: Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam
(Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân); Chế độ hôn nhân và chế
độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân gia đình (Qch Văn Dương,
2018); Cẩm nang pháp luật về kết hôn, ly hôn, chế độ tài sản của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân (Trương Ngọc Liêu, 2022); Thủ tục kết hôn, ly hôn, chế
độ tài sản và chia tài sản chung của vợ chồng (Nguyễn Ngọc Diệp, 2022).
Nhóm các bài viết trên báo cáo, tạp chí: Có thể kể đến một số bài viết
như: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận ở một số quốc gia và Việt
2
Nam (Đồn Thị Ngọc Hải, Tạp chí Tồ án nhân dân điện tử); Định đoạt tài sản
chung của vợ, chồng theo quy định của pháp luật (Thanh Long, Trang thông tin
phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh Cà Mau); Nhập tài sản riêng vào tài sản chung
của vợ chồng (Chu Thanh Tùng, Tạp chí Tồ án nhân dân điện tử); Quy định về
tài sản chung của vợ chồng và ghi tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (Sở Tư pháp Thừa Thiên
Huế)...
Trong các cơng trình trên, có cơng trình có phạm vi nghiên cứu rộng,có
cơng trình chỉ giải quyết một khía cạnh trong vấn đề tài sản vợ chồng, có cơng
trình nghiên cứu riêng và chun sâu về chế độ tài sản của vợ chồng. Song, các
cơng trình này cho dù có những nội dung ưu việt, tiên tiến nhưng cũng cịn
nhiều vấn đề khơng bắt kịp nhịp sống xã hội vốn luôn chuyển biến ảnh hưởng
trực tiếp tới cuộc sống vợ chồng, đặc biệt là vấn đề tài sản.
Luận văn đi vào nghiên cứu một cách tồn diện, có tính hệ thống về
chế độ tài sản của vợ chồng qua từng thời kỳ phát triển.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Thứ nhất, các vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng; các quy định
của pháp luật Việt Nam về chế định tài sản của vợ chồng từ trước đến nay, đặc
biệt là pháp luật Việt Nam hiện hành về chế định tài sản của vợ chồng.
Thứ hai, một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ
tài sản của vợ chồng.
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả chủ yếu nghiên cứu:
Thứ nhất, bài khoá luận tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Hơn
nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2014 về chế độ tài sản của vợ chồng, có so
sánh đối chiếu với pháp luật một số quốc gia trên thế giới về chế định tài sản
của vợ chồng.
Thứ hai, đánh giá các quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng
theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
Việc nghiên cứu không bao hàm pháp luật điều chỉnh quan hệ về thừa kế
3
tài sản giữa vợ chồng, quan hệ cấp dưỡng giữa vợ chồng, các vấn đề liên quan
đến quan hệ có yếu tố nước ngồi.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy định
của luật thực định về chế độ tài sản của vợ chồng, nghiên cứu pháp luật của các
quốc gia trên thế giới về quy định chế độ tài sản của vợ chồng. Từ đó, chỉ ra
những ưu - khuyết điểm của các quy định chế độ tài sản của vợ chồng ở nước ta,
trên cơ sở đó tác giả có những nhận xét, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014.
Nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ
chồng. Trong nhiệm vụ này, tác giả xây dựng một số khái niệm khoa học
thuộc nội hàm chế độ tài sản của vợ chồng; các đặc điểm, ý nghĩa của chế độ tài
sản của vợ chồng đối với sự tồn tại và phát triển của gia đình và xã hội; tìm hiểu
một cách có hệ thống và đầy đủ về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp
luật Việt Nam và pháp luật của một số nước trên thế giới. Từ đó khẳng định tính
cần thiết của chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật.
Thứ hai, nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài
sản của vợ chồng. Với nhiệm vụ này, đề tài đi sâu và phân tích nội dung các quy
định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 và những
ngành luật có liên quan (Luật Dân sự; Luật Đất đai... ); tìm hiểu về mục đích, cơ
sở của việc quy định các điều luật điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng; phân
tích tính kế thừa và phát triển, cũng như những điểm mới quy định về chế độ tài
sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 để có cái nhìn đúng đắn, phù
hợp với khoa học pháp lý về chế độ tài sản của vợ chồng và thực tiễn đời sống
xã hội trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình. Bên cạnh đó, thơng qua việc phân
tích nội dung chế độ tài sản của vợ chồng trong luật thực định, luận án cũng như
đưa ra những điểm còn bất cập, chưa hợp lý, thiếu tính khoa học của các quy
định đó, để làm cơ sở cho các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ
4
chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích nội dung các quy định về chế độ tài sản của
vợ chồng, đề tài đưa ra một số kiến nghị về giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật trong Luật HN&GĐ năm 2014 về
chế độ tài sản của vợ chồng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xuất phát từ các nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa MácLênin: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối liên
hệ biện chứng, pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, được
hình thành từ một cơ sở hạ tầng phù hợp. Pháp luật được coi là tấm gương phản
chiếu xã hội, cịn về phần mình, xã hội được coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật.
Về lý thuyết và thực tiễn cho thấy, các quy định của pháp luật phù hợp với sự
phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thì mới có tính khả thi trong
quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật; từ đó tạo cơ sở cho xã hội ổn định
và phát triển.
Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như
sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích, tổng hợp. Phương pháp này được sử
dụng nhằm phân tích các vấn đề liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng và
khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong khóa
luận.
Thứ hai, phương pháp so sánh. Phương pháp này được sử dụng nhằm tìm
hiểu quy định của pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt
Nam cũng như pháp luật của một số những khác quy định về chế độ tài sản của
vợ chồng. Qua đó, nêu lên những nét tương đồng và đặc thù của pháp luật Việt
Nam quy định về chế độ tài sản của vợ chồng, phù hợp với từng thời kỳ kinh tế,
văn hóa, xã hội và tập qn của gia đình truyền thống Việt Nam.
Thứ ba, phương pháp thống kê. Phương pháp này được sử dụng nhằm
tổng hợp các dữ liệu trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động xét xử của
5
ngành Tòa án, với các số liệu cụ thể giải quyết các tranh chấp từ quan hệ hôn
nhân và gia đình liên quan đến tài sản giữa vợ và chồng. Tìm ra mối liên hệ giữa
các quy định của pháp luật với thực tiễn để nhìn nhận sự phù hợp và những
nguyên nhân dẫn đến sự chưa phù hợp. Từ đó xem xét nội dung quy định của
pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, với thực tiễn của đời sống xã hội nhằm
nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục (nếu
có), Đề tài khóa luận được kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về chế độ tài sản của vợ
chồng;
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật vê chế độ tài sản của vợ
chồng;
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ
chồng;
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Có thể nói quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là mối quan hệ tồn tại bên
trong song hành với sự tồn tài của quan hệ hôn nhân vợ chồng. Tài sản của vợ
chồng được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt,
mục tiêu phát triển kinh tế gia đình, đảm bảo nhu cầu thiết yếu cũng như các
điều kiện cần thiết để chăm sóc, giáo dục con cái. Bởi vậy, tài sản luôn là yếu tố
quan trọng, là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình. Hiểu
được tầm quan trọng của vấn đề này, chế độ tài sản của vợ chồng đã luôn được
các nhà nghiên cứu lập pháp dành sự đặc biệt quan tâm và ghi nhận từ xa xưa và
ngày càng được hồn thiện qua các giai đoạn lịch sử. Có thể nói, qua các thời kì
khác nhau, Nhà nước ln sử dụng pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ hơn
nhân và gia đình, xây dựng chế độ tài sản của vợ chồng trở thành một trong các
chế định cơ bản và quan trọng nhất của pháp luật về hơn nhân và gia đình.
Cho đến thời điểm hiện tại, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn chưa tồn tại
khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng ở bất cứ văn bản cụ thể nào. Trong đời
sống hôn nhân, không phải cặp vợ chồng nào khi xác lập quan hệ hôn nhân cũng
thỏa thuận về tài sản của vợ, chồng. Do vậy, trong nhiều trường hợp đã xảy ra
nhiều tranh chấp về tài sản của vợ, chồng mà buộc vợ, chồng phải yêu cầu Tòa án
giải quyết. Như vậy, việc xây dựng các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng là
một tất yếu khách quan, các quy định này sẽ không chỉ là căn cứ pháp lý để vợ
chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình mà cịn là cơ sở để giải
quyết các tranh chấp về tài sản phát sinh giữa vợ và chồng, giữa vợ chồng với
người thứ ba, góp phần ổn định các quan hệ xã hội.
Dựa trên sự kế thừa các cơng trình đi trước cũng như qua quá trình
nghiên cứu, tác giả xin đưa ra khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
“Chế độ tài sản của vợ chồng là sự tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều
7
chỉnh quan hệ phát sinh từ hoặc liên quan đến quyền sở hữu tài sản hoặc ghi
nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt đối với
tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài
sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng.”
Khái niệm này theo tác giả về cơ bản đã bao quát và thể hiện được những nội
dung cơ bản của chế độ tài sản vợ chồng.
1.1.2. Đặc điểm chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu của vợ chồng. Vợ,
chồng với tư cách là công dân, vừa là chủ thể của quan hệ hơn nhân và gia
đình, vừa là chủ thể của quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở hữu của mình
tham gia các giao dịch dân sự. Từ khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng, có thể
đưa ra một số đặc điểm của chế độ này như sau:
Thứ nhất, chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này phải có
quan hệ hơn nhân hợp pháp. Để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các
bên nam, nữ phải có đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự và phải
tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm
2014. Bên cạnh đó, chế độ tài sản của vợ chồng cũng không tồn tại giữa những
người chỉ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Như
vậy, chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản của vợ chồng phải là vợ,
chồng được pháp luật công nhận qua sự kiện kết hôn hợp pháp.
Thứ hai, chế độ tài sản của vợ chồng luôn hướng đến mục tiêu bảo đảm
quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ, chồng. Xuất phát từ
vai trị quan trọng của gia đình đối với xã hội, pháp luật quy định về chế độ tài
sản của vợ chồng luôn hướng đến mục tiêu bảo đảm quyền lợi của gia đình,
trong đó có lợi ích cá nhân của vợ, chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng dù theo
thỏa thuận hay theo luật định vẫn đảm bảo quyền lợi của gia đình đầu tiên, đặc
biệt là những nhu cầu thiết yếu để duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ tài sản
của vợ chồng cũng góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân vợ, chồng. Trong đó,
chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận giúp vợ, chồng có thể đảm bảo tối
ưu quyền tự định đoạt của riêng mình đối với tài sản cá nhân.
8
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hơn nhân.
Mặc dù có thể được thỏa thuận trước khi hôn nhân xác lập (đối với chế độ tài
sản của vợ chồng theo thỏa thuận) nhưng chế độ tài sản của vợ chồng chỉ có
hiệu lực trong thời kỳ hôn nhân. Trước khi nam và nữ trở thành vợ và chồng hợp
pháp của nhau thì giữa họ khơng có chế độ tài sản của vợ chồng. Trong trường
hợp hai bên đã lập văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, văn bản
này đã được công chứng hoặc chứng thực những việc kết hơn khơng diễn ra thì
thỏa thuận về chế độ tài sản này cũng vô hiệu. Sau khi quan hệ vợ chồng chấm
dứt, chế độ tài sản của vợ chồng cũng đồng thời chấm dứt. Bởi vậy, chế độ tài
sản của vợ chồng không bao gồm vấn đề thừa kế hay vấn đề cấp dưỡng, mặc
dù các vấn đề này cũng liên quan trực tiếp đến tài sản của vợ, chồng.
Thứ tư, chế độ tài sản của vợ chồng mang những đặc thù riêng trong
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Thơng thường những người
có tài sản riêng có quyền tự mình định đoạt mà khơng phụ thuộc ý chí của người
khác. Tuy nhiên trong chế độ tài sản của vợ chồng, dù là chế độ tài sản luật định
hay chế độ tài sản theo thỏa thuận thì quyền định đoạt của chủ sở hữu có thể bị
hạn chế trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ: Giao dịch liên quan đến nhà ở
là chỗ ở duy nhất của gia đình. Bởi đặc thù của quan hệ gia đình là dựa trên nền
tảng tình cảm và huyết thống nên dù cá nhân có quyền định đoạt tài sản riêng
mà khơng phụ thuộc ý chí của người khác thì trong quan hệ hơn nhân, quyền
tự định đoạt tài sản khơng mang tính chất tuyệt đối.
1.1.3. Ý nghĩa chế độ tài sản của vợ chồng
Thứ nhất, chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng trong
pháp luật về hơn nhân và gia đình. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng do
pháp luật quy định, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển kinh tế -xã
hội và ý chí của Nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó. Việt Nam là
một quốc gia Á Đơng với nhiều phong tục, tập quán trong hôn nhân và gia
đình. Trước đó, giai đoạn lịch sử kéo dài hàng thế kỉ là thời kỳ phong kiến. Theo
đó, các tư tưởng cổ hủ, lạc hậu như “trọng nam khinh nữ” hay người phụ nữ khi
lấy chồng phải “phục tùng” chồng và nhà chồng đã ăn sâu vào tư tưởng con
9
người thuộc giai đoạn lúc bấy giờ. Có thể thấy, ở các giai đoạn lịch sử trước,
trong quan hệ hôn nhân và gia đình, người vợ và chồng khơng có vị thế bình
đẳng nhau, vì vậy mà trong quan hệ tài sản càng khó để nói đến sự cơng bằng.
Do đó, việc Nhà nước hiện nay ghi nhận và quy định về chế độ tài sản giữa vợ
chồng nói riêng và các quy định khác trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói
chung đã thể hiện sự tiến bộ của xã hội, sự đề cao quan hệ bình đẳng nam nữ
trong lĩnh vực hơn nhân - gia đình, bảo vệ được quyền lợi của mỗi cá nhân trong
quan hệ đó, đặc biệt là quyền lợi của người phụ nữ.
Thứ hai, chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý
nghĩa nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình.
Đây chính là một biểu hiện cụ thể của việc bảo vệ các quyền con người, đặc biệt
là quyền sở hữu hợp pháp đối với các tài sản do chính cá nhân đó tạo ra, phần
nào thể hiện sự tơn trọng và bảo đảm sự tự do ý chí của các cá nhân trong quan
hệ hôn nhân và gia đình.
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng cịn nhằm bảo vệ các mối quan hệ
trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Bởi quan hệ này khơng chỉ có mối quan hệ
giữa vợ và chồng, mà cịn quan hệ giữa cha, mẹ đối với con cái của họ và quan
hệ tài sản giữa vợ và chồng. Đây là ba mối quan hệ ln gắn bó chặtchẽ, mật
thiết trong quan hệ hơn nhân và gia đình. Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng ra
đời sẽ góp phần vào xác định các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các
loại tài sản của vợ chồng, các quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng đối với nhau
và đối với con cái của họ. Từ đó, là cơ sở pháp lý để cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và với những
người khác có liên quan trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng về tài sản cho các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch
liên quan đến tài sản của vợ chồng.
1.2. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật
Tại bất kỳ quốc gia nào, hơn nhân và gia đình đều là khía cạnh quan trọng
mà pháp luật quan tâm và chú ý. Đặc biệt đối với vấn đề tài sản của vợ chồng, tự
thân các quốc gia đều lựa chọn cho mình chế độ tài sản phù hợp với điều kiện
10
kinh tế - xã hội, tập quán hay truyền thống của đất nước mình để áp dụng cho
các cặp vợ chồng tại nước đó. Hiện nay, có thể nhìn nhận và thấy rõ nhất hai chế
độ tài sản mà hầu hết các quốc gia đều sử dụng đó là chế độ tài sản dựa trên sự
thỏa thuận của vợ chồng và chế độ tài sản của vợ chồng theo các quy định của
pháp luật[16].
1.2.1. Chế độ tài sản dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng
Theo quan điểm của một số quốc gia, hôn nhân thực chất là một hợp đồng
do hai bên nam, nữ thỏa thuận, xác lập trên nguyên tắc tự do tự nguyện. Các
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được phát sinh và thực hiện trong thời kỳ hôn
nhân cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao kết
hợp đồng đó. Cần phải tơn trọng các quyền tự do cá nhân của công dân, của vợ
chồng khi thiết lập quan hệ hơn nhân, trong đó có quan hệ tài sản giữa người vợ
và người chồng. Chính vì thế, pháp luật cho phép trước khi kết hôn, hai bên
được quyền tự do ký kết hơn ước (hay là cịn gọi là khế ước). Thực chất đây là
một hợp đồng do hai bên thỏa thuận về tài sản, miễn sao khế ước này không trái
với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Trong chế độ tài sản dựa
trên sự thỏa thuận, vợ hoặc chồng có thể bàn bạc cùng thống nhất lựa chọn
một chế độ phân chia tài sản phù hợp để duy trì và bảo đảm thực hiện trong thời
kỳ hơn nhân. Có thể lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo chế độ tài sản
chung hoặc chế độ tài sản riêng. Tùy theo, sự phù hợp về khả năng kinh tế, khả
năng thực hiện quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng được thực hiện theo chế
độ đó.
Nếu lựa chọn chế độ tài sản chung, các vấn đề mà vợ, chồng cần xác định
được rõ ràng bao gồm: thành phần tài sản chung của vợ chồng, các quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung; tài sản riêng của mỗi bên vợ,
chồng (nếu có); các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng và quyền lợi
của mỗi bên vợ, chồng được hưởng từ việc chia tài sản chung để giải quyết các
món nợ phát sinh từ đời sống chung của gia đình; thỏa thuận để lại thừa kế cho
một bên vợ, chồng hưởng từ phần tài sản chung của bên còn lại.
Nếu lựa chọn chế độ tài sản riêng, giữa hai vợ chồng khơng có khối tài
11
sản chung, vợ, chồng phải thỏa thuận tùy theo sự lựa chọn, năng lực của mỗi bên
để đóng góp bảo đảm đời sống chung của gia đình, nghĩa vụ chu cấp lẫn nhau,
giáo dưỡng các con của mình,...
Đặc điểm của chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng là phải do
hai bên thỏa thuận và được ký kết từ trước khi kết hôn. Thỏa thuận của vợ và
chồng có tính chất “ổn định”, thường là khơng được thay đổi sau khi hôn nhân
đã được xác lập và được bảo đảm thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Khi
xảy ra những tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau và với bên thứ ba,
theo yêu cầu, Tòa án dựa trên thỏa thuận của hai bên để giải quyết. Ngày nay,
cùng với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu từ cuộc sống
giữa vợ chồng, pháp luật của một số nước đã quy định về việc hạn chế tính “ổn
định” của chế độ tài sản theo thỏa thuận. Sau một thời gian nhất định, vì lợi ích
chung của vợ chồng, của gia đình mà hai vợ chồng có thể thỏa thuận về việc
thay đổi chế độ tài sản theo thỏa thuận ban đầu được ký kết trước khi kết hơn.
Bên cạnh đó, luật cũng quy định các thủ tục và điều kiện pháp lý chặt chẽ cho
việc thay đổi thỏa thuận này, vì quyền lợi của những người thứ ba liên quan
đến tài sản của vợ chồng.
Như vậy, chế độ tài sản theo thỏa thuận của hai bên vợ chồng thì hai bên
vợ chồng tự nguyện thỏa thuận về vấn đề tài sản. Thỏa thuận của hai bên thực
chất là một hợp đồng về tài sản giữa vợ và chồng, được đảm bảo thực hiện trong
thời kỳ hôn nhân.
1.2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo các quy định của pháp luật
Đối với chế độ tài sản theo các quy định của pháp luật, pháp luật dự liệu
về: căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của
vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài sản
đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức
thanh toán liên quan tới các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ chồng...
Chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật được tất cả
các nước dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình, nhằm điều chỉnh quan hệ tài
sản giữa vợ chồng. Ở một số nước phương tây, chế độ tài sản của vợ chồng
12
theo các căn cứ luật định được coi như một giải pháp dành cho các cặp vợ chồng
khi xác lập quan hệ hôn nhân mà không lập thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.
Cũng có thể với mục đích tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng lựa chọn chế độ
tài sản áp dụng cho họ trong hôn ước, trước khi xác lập quan hệ vợ chồng cho
phù hợp với điều kiện nghề nghiệp, hoàn cảnh cuộc sống chung của vợ chồng.
Như vậy, có thể hiểu đối với những cặp vợ chồng khi kết hôn mà không
lập hôn ước thỏa thuận về tài sản của họ, nhà làm luật sẽ cho rằng, những cặp vợ
chồng đó đã “mặc nhiên” lựa chọn chế độ tài sản của họ theo các căn cứ mà
pháp luật đã dự liệu từ trước. Và đương nhiên, chế độ tài sản này sẽ được áp
dụng nhằm điều chỉnh vấn đề tài sản giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, là
cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và
với những người khác có quyền lợi liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Trên thế giới, pháp luật của một số nước khi không dự liệu chế độ tài sản
theo thỏa thuận đã lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ luật
định như là “duy nhất” để áp dụng cho tất cả các cặp vợ chồng khi kết hôn. Luật
HN&GĐ của nườc ta ghi nhận chế độ tài sản theo luật định tại khoản 1 Điều 28
Luật HN&GĐ năm 2014 như sau: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59
đến Điều 64 của Luật này”. Để có thể thiết lập một chế độ tài sản của vợ chồng
theo pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, tập quán và
thực tế cuộc sống trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình, các nhà lập pháp thường
xem xét dựa trên những quan niệm sau:
Thứ nhất, đời sống chung của vợ chồng địi hỏi cần thiết phải có khối tài
sản cộng đồng (tài sản chung của vợ chồng). Theo quan điểm này, chế độ tài sản
của vợ chồng được thiết lập theo tiêu chuẩn cộng đồng[15] và bao gồm các loại
chế độ sau:
Chế độ cộng đồng toàn sản: Theo chế độ này, thì tất cả các tài sản mà vợ,
chồng có được đều thuộc khối tài sản chung, Luật khơng thừa nhận vợ, chồng có
quyền có tài sản riêng. Đối với những tài sản mà một bên vợ, chồng có được từ
trước khi kết hơn do cơng sức của vợ, chồng tạo dựng, hoặc được tặng cho
13
riêng, thừa kế riêng; những tài sản mà vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn
nhân, không kể nguồn gốc, cơng sức đóng góp của vợ, chồng; những tài sản mà
vợ chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân đều
được coi là tài sản chung của vợ chồng khơng có ngoại lệ. Chế độ tài sản này
thường được sử dụng đối với mơ hình gia đình truyền thống, đặt lợi ích chung
của cả gia đình, nghĩa vụ giáo dưỡng các con lên hàng đầu.
Nhìn chung đây là một chế độ tài sản không được phổ thông, không
được các cặp vợ chồng hiện đại sử dụng, khi thực hiện chế độ tài sản này thường
khiến một bên vợ, chồng thiếu “tích cực” trong việc tạo ra tài sản chung, dễ dẫn
đến sự phụ thuộc hay “ỷ lại” vào người khác, bởi vì khơng làm việc nhưng vẫn
được sử dụng chung khối tài sản. Từ đó, dễ nảy sinh các quan hệ hôn nhân
được xác lập khơng phải vì tình cảm u thương, gắn bó với mục đích xác lập
quan hệ vợ chồng chung sống lâu dài hạnh phúc mà chỉ nhằm vào tiền bạc, tài
sản.
Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản: Theo chế độ tài sản này thì thành
phần tài sản chung của vợ chồng đã được “luật hóa” với phạm vi hẹp hơn so
với chế độ cộng đồng toàn sản, cùng với việc ghi nhận vợ, chồng có tài sản
riêng. Với tư duy cần phải dành cho mỗi bên vợ, chồng đượcquyền giữ lại một
số tài sản làm của riêng và dựa trên sự phân tách giữa hai loại tài sản là bất động
sản hay động sản. Vì thế, chế độ tài sản của vợ chồng theo tính chất cộng đồng
động sản và tạo sản với khối tài sản chung của vợ chồng bao gồm tất cả các
động sản của hai bên vợ chồng hiện có khi xác lập quan hệ hơn nhân, hoặc
những tài sản (kể cả động sản và bất động sản) mà vợ, chồng tạo ra được trong
thời kỳ hôn nhân.
Chế độ cộng đồng tạo sản: Theo quy định của chế độ tài sản này, thành
phần, phạm vi các loại tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng được thu
hẹp hơn nữa so với chế độ cộng đồng động sản và tạo sản. Dưới chế độ tài sản
này, tài sản chung của vợ chồng chỉ còn bao gồm những tài sản mà vợ, chồng
tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, cùng các hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản của
hai vợ chồng. Đối với những tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có được từ trước khi
14
kết hôn, hoặc được tặng cho riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân
(không kể là động sản hay bất động sản) sẽ thuộc quyền sở hữu của riêng của vợ
chồng. Chế độ cộng đồng tạo sản là chế độ mà các cặp vợ chồng khi lập hôn ước
lựa chọn nhiều nhất bởi những ưu điểm của nó, phù hợp với điều kiện kinh tế thị
trường, khoa học, kỹ thuật phát triển, cùng những tính chất linh hoạt cho vợ,
chồng định đoạt tài sản của mình khi thực hiện theo chế độ tài sản này.
Thứ hai, trong quan hệ vợ chồng không bắt buộc và không cần thiết phải
có khối tài sản chung. Quyền sở hữu riêng của vợ chồng cần phải được tôn
trọng và bảo vệ; tài sản của bên này phải được độc lập và biệt lập với bên kìa.
Hay nói cách khác, đó là chế độ tài sản của vợ chồng theo tiêu chuẩn không có
cộng đồng tài sản (chế độ phân sản hay cịn gọi là chế độ biệt sản).
Trong chế độ này, giữa vợ chồng khơng tồn tại (khơng có) khối tài sản
chung, tất cả các loại tài sản mà mỗi bên vợ, chồng đã có từ trước khi kết hơn
hoặc tạo ra được (hay có được do được tặng cho riêng, được thừa kế riêng) trong
thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Với tư cách là chủ sở
hữu, người vợ hay chồng có tồn quyền trong việc chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản của mình. Như vậy, khơng có sự thống nhất quyền quản lý và
cũng khơng có khối tài sản chung giữa vợ chồng. Tuy nhiên, do tính chất của
quan hệ hơn nhân, sau khi kết hôn trở thành vợ chồng, cùng chung sống với
nhau, địi hỏi vợ, chồng có những khoản chi tiêu chung nhằm bảo đảm lợi ích
chung của gia đình; pháp luật dự liệu mỗi bên vợ, chồng tùy theo khả năng mà
có nghĩa vụ phải đóng góp vào việc chi tiêu chung đó vì quyền lợi của gia đình.
Mặc dù chế độ phân sản với đặc điểm không tồn tại khối tài sản chung
của vợ chồng, nhưng không phải là khơng có tính tài sản cộng đồng. Theo chế
độ phân sản, do vợ chồng sống chung và phải chi tiêu chung một số tài sản vì lợi
ích của gia đình, sau nhiều năm tháng chung sống trong thời kỳ hôn nhân, khi có
lý do nào đó mà vợ chồng phải ly thân hoặc ly hôn, sẽ xuất hiện một số tài sản
không thể chứng minh được là của riêng vợ hay chồng; tài sản đó phải được coi
là tài sản chung của vợ chồng để chia cho mỗi bên.
15
1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các
giai đoạn lịch sử
Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam được thể hiện
thông qua các giai đoạn lịch sử cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật thời kỳ phong kiến
Trong giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam, nguồn luật chủ yếu là luật
không thành văn bao gồm các lệ làng, luật tục, tập quán chính trị và luật thành
văn bao gồm các văn bản đơn nhất, hội điển, pháp điển. Tiểu biểu cho pháp luật
thời kỳ này là 02 bộ luật: Quốc triều hình luật (Năm 1483) và Hồng Việt luật
lệ (Năm 1815). Trong đó, Quốc triều hình luật được xem là Bộ luật phát triển
của giai đoạn này, đặc biệt tiến bộ trong các quy định về hôn nhân gia đình.
Chế định tài sản giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - một chế định tiến
bộ được quy định một cách gián tiếp thông qua các điều 374, 375, 376 ở chương
Điền sản. Theo như các tại các Điều 374, 375, 376 tài sản vợ chồng bao gồm tài
sản riêng của mỗi người thừa kế từ gia đình và tài sản chung của vợ chồng làm
ra trong thời kỳ hôn nhân. Sự quy định rõ thành phần khối tài sản chung, riêng
rõ ràng của vợ chồng là điểm rất tiến bộ và độc đáo của pháp luật nhà Lê và nó
đã được tiếp thu trong việc xây dựng pháp luật hiện nay. Phản ánh cách trung
thực và điều chỉnh một cách hợp lí mối quan hệ giữa vợ và chồng phù hợp với
thực tế xã hội Việt Nam, địa vị pháp lí của người vợ cải thiện hơn hẳn so với các
quan niệm Nho giáo qua việc thừa nhận quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và
chồng.
(i) Cơng nhận cơng lao đóng góp vào việc tạo ra tài sản chung của vợ và
chồng và quyền sở hữu của người vợ trong tài sản vợ chồng làm ra trong thời kỳ
hôn nhân
Lần đầu tiên trong pháp luật của xã hội phong kiến, pháp luật cơng nhận
cơng lao đóng góp vào việc tạo ra tài sản chung của vợ và chồng. Hay nói cách
khác đó là tài sản vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân để từ đó cơng nhân
quyền sở hữu của người vợ đối với một phần hai tài sản mà vợ chồng làm ra.
Điều 374 Bộ Luật Hồng Đức quy định: "...Nếu điền sản là của chồng và
16
vợ trước làm ra thì chia làm hai phần, vợ trước và chồng mỗi ngừoi một phần,
phần của vợ trước thì để riêng cho con, cịn phần của chồng lại chia như trước.
Nếu điền sản là của chồng và vợ sau làm ra, thì cũng chia làm hai phần,
chồng và vợ sau mỗi người một phần, phần của chồng thì chia như trước, cịn
phần của vợ sau thì được nhận làm của riêng..."
Điều 375 quy định: "...còn điền sản của vợ chồng làm thì chia làm hai, vợ
chồng mỗi người được một phần, phần của vợ được nhận là của riêng..."
Việc chia đôi tài sản chung chúng tỏ rằng sự đóng góp của người vợ vào
khối tài sản chung là ngang bằng với người chồng. Sự bình đẳng đó cịn thể hiện
ở quyền định đoạt tài sản chung. Việc đứng tên đồng chủ thể trong khối tài sản
chung là cơ sở để tạo ra các năng lực pháp lý dân sự của người phụ nữ. Pháp
luật địi hỏi phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng trong việc chuyển nhượng tài
sản chung cho người khác. Điều đó được chứng minh qua các bằng chứng là các
văn tự bán tài sản có chữ ký của cả vợ chồng haowcj tờ mẫu văn tự về bán, cầm
cố, trao đổi các tài sản thực thụ và các điền nô ở thời nhà Lê bao giờ cũng đòi
hỏi sự thoả thuận của cả hai vợ chồng.
(ii) Quy định quyền sở hữu và định đoạt đối với tài sản riêng của vợ và
chồng
Điều 376 Bộ Luật Hồng Đức quy định: "vợ chồng đã có con, nếu một
người chết trước sau đó con cũng lại chế thì điển sản thuộc về chồng hay vợ...",
nếu vợ chết trước thì "điển sản chia làm ba, để cho chồng hai phần, người thừa
tự một phần. Cha mẹ cịn sống thì chia làm hai, thuộc về cha mẹ một phần,
thuộc về chồng một phần, phầnn của vợ chỉ để nuôi một đời, không được nhận
làm của riêng, chồng thì phần ấy thuộc về cha mẹ hay người thừa tự. Chồng
chết trước thì vợ cũng thế,..."
Tài sản riêng của vợ chồng là những tài sản của mỗi bên vợ, chồng có
trước khi kết hơn, do được thừa kế từ gia đình mỗi người. Đối với những tài sản
này, vợ, chồng đều có quyền sở hữu riêng rẽ, mặc dù những tài sản này được
quản lý chung mới vợ chồng và các lợi ích của nó là tài sản chung. Những tài
sản này chỉ gộp vào để quản lý chung trong thời kỳ hôn nhân. Người chồng
17
khơng có quyền chiếm dụng tài sản mà vợ thừa kế từ dịng họ mình và ngược
lại.
Thứ hai, pháp luật giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 2014
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại miền Bắc Việt
Nam, Nhà nước ta đã ban hành hai sắc lệnh đầu tiên quy định điều chỉnh một số
quan hệ hôn nhân và gia đình. Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950 quy định về
vấn đề ly hôn, sắc lệnh 97/SL ngày 22/05/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế
định trong Dân luật. Trong đó, Sắc lệnh số 97/SL là văn bản duy nhất điều
chỉnh về vấn đề tài sản vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân trước khi có Luật
HN&GĐ năm 1959 ra đời.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Luật HN&GĐ
năm 1959 được ban hành để điều chỉnh các quan hệ hơn nhân và gia đình. Trong
giai đoạn này, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng
theo pháp định, quy định về hơn ước hồn tồn khơng cịn tồn tại trong pháp
luật Việt Nam. Điều 15 Luật HN&GĐ năm 1959 quy định “Vợ và chồng
đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước
và sau khi cưới”, pháp luật Việt Nam khơng thừa nhận tài sản riêng của vợ
chồng. Vì là văn bản đầu tiên nên số điều khoản còn hạn chế và chỉ áp dụng cho
miền Bắc Việt Nam nên nhiều quy định chưa được đưa vào.
Đến khi Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời, chế độ tài sản vợ chồng ở Việt
Nam là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản thì tài sản riêng của vợ chồng mới
được thừa nhận, Luật cũng cho phép vợ chồng được chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân (việc chia tài sản này phải có bản án của Tịa án).
Chế độ tài sản của vợ và chồng trong các văn bản pháp luật sau năm 1975
tại Việt Nam, sau khi thống nhất hai miền Nam Bắc, kế thừa Hiến pháp năm
1980 thì Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000 lần lượt được ban
hành nhằm khắc phục những nhược điểm và hạn chế của các văn bản pháp luật
trước. Luật HN&GĐ năm 1986 là văn bản luật đầu tiên được ban hành áp dụng
toàn quốc sau khi thống nhất đất nước. Theo Luật HN&GĐ năm 1986, vợ chồng
cũng không được thỏa thuận bất kỳ vấn đề gì về sở hữu tài sản trừ vấn đề nhập
18
tài sản riêng có trước hoặc trong thời kỳ hơn nhân thành tài sản chung. Các nhà
lập pháp chỉ quy định một hình thức duy nhất là chế độ tài sản pháp định và
khơng có sự thừa nhận về hơn ước (hay hiểu cách khác là chế độ tài sản theo
thỏa thuận của vợ chồng trước hơn nhân). Do đó, mọi thỏa thuận của vợ chồng
về khối tài sản của họ đều bị coi là vô hiệu.
Tiếp tục kế thừa Luật HN&GĐ năm 1986, để phù hợp với tình hình phát
triển của xã hội, Luật HN&GĐ năm 2000 được ban hành. Tuy nhiên, Luật
HN&GĐ năm 2000 cũng chỉ quy định một chế độ tài sản của vợ chồng là chế
độ tài sản pháp định. Điểm mới được ghi nhận trong văn bản Luật HN&GĐ năm
2000 là cho phép vợ chồng được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và
được quyền thỏa thuận tài sản nào là chung, tài sản nào là riêng trong thời kỳ
hôn nhân. Nghị định 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật HN&GĐ năm 2000, đã tạo ra một sự thay đổi cơ bản gây nhiều tranh cãi
về chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo
những quy định này, vợ chồng có thể thỏa thuận về việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, thậm chí việc thỏa thuận chia tài sản này trong nhiều trường
hợp chỉ cần lập bằng văn bản khơng có sự công chứng, chứng thực. Cụ thể là
trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân có
quy định “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của
vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác” (khoản 2 Điều 8). Điều
9, Điều 10 tiếp tục quy định về khả năng khôi phục chế độ tài sản chung của vợ
chồng. Các quy định này tuy mâu thuẫn với một số quy định của Luật HN&GĐ
năm 2000 nhưng lại cho thấy ý tưởng của các nhà lập pháp trong việc thừa nhận
sự thỏa thuận của vợ chồng đối với khối tài sản của họ. Quy định chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân theo Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản
hướng dẫn quy định về các thỏa thuận trong vấn đề tài sản vợ chồng đã tạo nên
một sự khác biệt đáng kể so với chế độ tài sản pháp định thuần túy vẫn thường
thấy.
Như vậy, mặc dù chế định về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận
19