BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
VŨ HUY HOÀNG DƯƠNG
NGHIÊN CỨU NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN
PHẨM XI MĂNG HƯƠNG SƠN CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN XI MĂNG BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 60.34.05
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. NGUYỄN THỊ TÂM
HÀ NỘI - 2012
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng Tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, nghiêm túc, chưa
được công bố và sử dụng bảo vệ một học vị nào.
Mọi thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Bắc Giang, ngày tháng năm 2012
Tác giả
Vũ Huy Hoàng Dương
i
LỜI CÁM ƠN
Trong thời gian học tập tại trường, nghiên cứu viết luận văn bản thân
tôi đã nhận đựoc rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức và
các cá nhân.
Trước hết cho phép bản thân tôi đựoc cám ơn các thày cô giáo trong
khoa Kế toán & Quản trị kinh doanh của Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội
trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành đề tài của mình.
Cám ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Ngưyễn Thị Tâm đã giúp
em hoàn thành đề tài của mình.
Tôi xin cám ơn sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các cô chú, anh chị
trong Công ty cổ phần xi măng Bắc Giang trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Cám ơn sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã tạo điều
kiện, động viên giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn
TÁC GIẢ
Vũ Huy Hoàng Dương
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
Bắc Giang, ngày tháng năm 2012 i
TÁC GIẢ ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG iii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ iv
1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể: 2
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 2
2.1. Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh sản phẩm 4
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 4
3 83
Công ty XM Thăng Long 83
3 86
Công ty XM Thăng Long 86
DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
LỜI CAM ĐOAN i
Bắc Giang, ngày tháng năm 2012 i
TÁC GIẢ ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG iii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ iv
1. MỞ ĐẦU 1
iii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ
LỜI CAM ĐOAN i
Bắc Giang, ngày tháng năm 2012 i
TÁC GIẢ ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG iii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ iv
1. MỞ ĐẦU 1
iv
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Mở rộng thị phần, cạnh tranh sản phẩm luôn là mục tiêu hàng đầu,
quyết định sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường
doanh nghiệp muốn tồn tại phải làm ăn “có lãi”, nhất là những doanh nghiệp
đã tiến hành cổ phần hoá (CPH) bước vào hoạt động với tư cách là công ty cổ
phần, vận hành theo cơ chế thị trường tự chịu trách nhiệm với công việc sản
xuất kinh doanh của mình. Nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của công
ty trên thị trường là nhiệm vụ chủ đạo của mỗi doanh nghiệp.
Hoạt động của những doanh nghiệp sau CPH mà yếu tố được đặt lên
hàng đầu là hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh sản phẩm của những doanh nghiệp đó. Làm rõ được vấn đề hiệu quả sản
xuất kinh doanh (SXKD), khả năng cạnh tranh sản phẩm sẽ thấy được những
mặt chủ yếu đã đạt được và những tồn tại vướng mắc cần giải quyết, rút kinh
nghiệm để áp dụng vào giai đoạn sau.
Thị trường xi măng Việt Nam đang ngày càng đa dạng, phong phú và
cạnh tranh khốc liệt. Quy mô của thị trường rộng lớn, tốc độ tăng trưởng hàng
năm cao và làm tăng khả năng cạnh tranh SP xi măng trong nước với các sản
phẩm xi măng nhập khẩu. Đó là cơ hội cho các nhà sản xuất nhưng cũng tạo
ra không ít những thách thức lớn trong cuộc đua chiếm lĩnh thị trường.
Công ty cổ phần xi măng Bắc Giang là một công ty có bề dày kinh
nghiệm trong sản xuất, sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường của tỉnh và
một số tỉnh lân cận như hiện nay. Nhưng một vấn đề nổi bật là do sức ép của
cơ chế thị trường, có rất nhiều công ty xi măng mới thành lập với số vốn đầu
tư lớn, dây truyền công nghệ cao, sản phẩm mẫu mã đa dạng. Hơn nữa, sản
phẩm xi măng nhập khẩu cũng làm cho thị trường xi măng trong nước cạnh
tranh càng thêm khốc liệt. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp đã tiến hành
1
CPH từ năm 2002. Thực trạng hoạt động và kết quả kinh doanh trong thời
gian sau CPH đã có nhiều biến chuyển theo hướng tích cực khẳng định sự
đúng đắn trong quyết định đổi mới, song không vì vậy mà không có những
tồn tại thiếu sót cần phát hiện và sửa đổi kịp thời để Công ty ngày càng phát
triển mạnh mẽ hơn. Để có chỗ đứng vững trên thị trường, Công ty cần tăng
cường năng lực cạnh tranh sản phẩm của mình.
Xuất phát từ thực tiễn trên chúng tôi đã chọn Đề tài “Nghiên cứu năng
lực cạnh tranh sản phẩm xi măng Hương Sơn của Công ty cổ phần xi
măng Bắc Giang”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm xi măng tại
Công ty cổ phần xi măng Bắc Giang. Từ đó, đề xuất những giải pháp nâng
cao năng lực cạnh tranh SP xi măng của Công ty trong những năm tiếp theo.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Làm rõ một số vấn đề về lý luận về năng lực cạnh tranh sản phẩm, các
nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm của Công ty cổ
phần xi măng Bắc Giang trong thời gian qua, rút ra những hạn chế yếu kém
và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản
phẩm tại Công ty cổ phần xi măng Bắc Giang.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các chỉ tiêu, nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh sản phẩm xi
măng của công ty
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
2
- Phạm vi về nội dung:
+ Năng lực cạnh tranh và các vấn đề có liên quan đến năng lực cạnh
tranh sản phẩm.
+ Do hạn chế về thời gian và các nguồn lực cần thiết cho việc triển khai
nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu trên thị trường tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện tại Công ty cổ phần xi
măng Bắc Giang và thị trường tiêu thụ xi măng tại tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng 4/2011 đến
tháng 10/2012. Các thông tin, số liệu, dữ liệu cung cấp trong luận văn được
thu thập thực tế trong 3 năm.
3
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
SẢN PHẨM CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
2.1. Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh sản phẩm
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm cạnh tranh sản phẩm.
Đối với nền kinh tế thị trường, các khái niệm liên quan tới cạnh tranh
còn rất khác nhau.
Dưới thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển vượt bậc Mác đã quan niệm
rằng: “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong quá trình sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”, có các quan
niệm khác lại cho rằng “cạnh tranh là sự phấn đấu về chất lượng sản phẩm,
dịch vụ của doanh nghiệp mình sao cho tốt hơn các doanh nghiệp khác ”. [14]
Vào cuối thế kỷ XIX xuất hiện lý luận của trường phí cổ điển mới.
Tâm điểm của lý luận này nhấn mạnh về cạnh tranh hoàn hảo. Lý luận cho
rằng cạnh tranh hoàn hảo có nghĩa là thu nhập và của cải được phân phối đều
khắp. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, các nhà kinh tế Anh, Mỹ thể hiện sự
am hiểu về cạnh tranh không hoàn hảo.
Nhà kinh tế học người Mỹ - Maurise Clack đưa ra ba luận điểm trong
đó nổi bật:
- Cạnh tranh bằng sản phẩm mới, kỹ thuật mới, nguồn cung ứng mới và
hình thức tổ chức mới.
- Sự vận hành của cạnh tranh được đo bằng chi phí trên một đơn vị sản
phẩm của doanh nghiệp so với chi phí của đơn vị sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh, so với toàn ngành khi tăng chất lượng hàng hoá cũng như sự hợp lý
trong sản xuất.
4
Theo kinh tế chính trị học “Cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa
các đối thử nhằm giành giật thị trường khách hàng cho doanh nghiệp mình”.
Để hiểu nhất quán ta có khái niệm sau:
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa
các doanh nghiệp trên thị trường nhằm giành giật được ưu thế hơn về cùng
một loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ, về cùng một loại khách hàng so với đối
thủ cạnh tranh.
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
- Cạnh tranh là một đặc tính cơ bản của thị trường, sẽ không có kinh tế
thị trường nếu không có cạnh tranh. Theo kinh tế học thì cạnh tranh
(competion) là sự tranh giành thị trường (khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm
giữa các doanh nghiệp. “Như vậy đã là kinh tế thị trường thì đương nhiên có
cạnh tranh và cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành khách hàng (thị phần) thì
chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị trường”. [20]
Vì cạnh tranh là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường và để
đạt được mục tiêu lợi nhuận những doanh nghiệp tham gia thị trường phải
thông qua sự cạnh tranh lẫn nhau nên từ lâu vấn đề cạnh tranh đã là một trong
những nội dung quan trọng của các môn khoa học về kinh tế và là một đối
tượng điều chỉnh của luật pháp. Thế kỷ XIII Adam Smith, nhà kinh tế học cổ
điển vĩ đại Anh trong tác phẩm "Của cải của các dân tộc" (1776) đã thuyết
minh vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa (TBCN) đang ở giai đoạn hình thành, bị rất nhiều
ràng buộc bởi những thiết chế phi tự do của nhà nước phong kiến. Theo ông
"Mỗi cá nhân (doanh nghiệp) đều sử dụng vốn của mình sao cho có được sản
phẩm, có giá trị cao nhất. Thông thường cá nhân này không có chủ định củng
cố lợi ích công cộng, mà cũng chẳng biết mình đang củng cố lợi ích này ở
mức độ nào. Cá nhân (doanh nghiệp) này chỉ có mục đích bảo vệ sự an toàn
5
và thành quả của riêng mình. Trong quá trình này một bàn tay vô hình đã
buộc anh ta phải theo đuổi một mục đích không nằm trong dự định. Trong khi
theo đuổi lợi ích của mình anh ta đã thường bảo vệ luôn lợi ích của xã hội một
cách biểu hiện hơn cả khi anh ta có ý định làm việc này. Với Adam Smith,
trật tự thị trường theo nguyên lý "bàn tay vô hình" sẽ điều hoà các hoạt động
kinh tế một cách có hiệu quả. "Độc quyền là kẻ thù lớn đối với quản lý tốt, mà
việc quản lý tốt không thể có được trừ khi có sự cạnh tranh tự do và rộng
khắp nó buộc những nhà sản xuất phải biết đấu tranh để bảo vệ lợi ích của
chính họ". Kết luận ấy đương nhiên đưa ông đến chỗ là một trong những
người cổ vũ nhiệt thành nhất cho một cơ chế kinh tế tự do và phản đối lại tình
trạng độc quyền cũng như sự can thiệp quá mức của chính phủ.
- Tuy nhiên, cạnh tranh thị trường không phải bao giờ cũng trôi chảy.
Những mặt trái của nó được khái quát lại trong thuật ngữ "thất bại thị trường",
với một trong những biểu hiện rõ nhất là những cuộc khủng hoảng kinh tế
mang tính chu kỳ.
Ngoài ra, theo như sự phân tích của kinh tế chính trị học Mác xít, cuộc
cạnh tranh trong điều kiện của kinh tế thị trường TBCN còn mang tính mù
quáng và tàn bạo theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Với biết bao nhiêu những hậu
quả kinh tế và xã hội đè xuống đầu các giai cấp cần lao. Với những nhược
điểm trên nhiệm vụ tạo lập môi trường kinh tế có cạnh tranh, chống độc
quyền đương nhiên thuộc về chức năng của nhà nước.
Từ khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì vấn đề cạnh tranh
bắt đầu xuất hiện và len lỏi vào từng bước đi của doanh nghiệp. Môi trường
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lúc này đầy biến động và vấn đề cạnh
tranh đã trở nên cấp bách, có thể nói canh tranh đã hình thành và bao trùm lên
6
mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ tầm vi mô đến vĩ mô, từ một cá nhân đơn lẻ
đền tổng thể toàn xã hội. Cạnh tranh vốn là một quy luật tự nhiên và khách
quan của nền kinh tế thị trường, nó không phụ thuộc và ý muốn chủ quan của
mỗi người, bởi tự do là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh, cạnh tranh là động lực
thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển. Bởi vậy, để giành được các
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm buộc các doanh
nghiệp phải thường xuyên đổi mới, tích cực nhạy bén và năng động, phải
thường xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới,
bổ xung xây dựng các cơ sở hạ tầng, mua sắm thêm trang thiết bị máy móc,
loại bỏ những máy móc đã cũ kỹ và lạc hậu và điều quan trọng là phải có
phương pháp tổ chức quản lý có hiệu quả, đào tạo và đãi ngộ trình độ chuyên
môn, tay nghề cho người lao động. Cạnh tranh không chỉ kích thích tăng năng
suất lao động, giảm chi phí sản xuất mà còn cải tiến mẫu mã, chủng loại hàng
hóa, nâng cáo chất lường sản phẩm và chất lượng dịch vụ làm cho sản xuất
ngày càng gắn liền vố tiêu dùng, phục vụ nhu cầu xã hội được tốt hơn. Bên
cạnh những mặt tích cực cạnh tranh còn để lại nhiêu hạn chế và tiêu cực, đó là
sự phân hoá sản xuất hàng hoá, làm phá sản những doanh nghiệp kinh doanh
gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, cơ sở hạ tầng hạn hẹp, trình độ công nghệ
thấp và có thể làm cho doanh nghiệp phá sản khi doanh nghiệp gặp phải
những rủi ro khách quan mang lại như thiên tai, hoả hoạn hoặc bị rơi vào
những hoàn cảnh, điều kiện không thuận lợi. [2] [3]
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất
đó là cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường
với nhau, kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự
thay thế lẫn nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận.
2.1.1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh sản phẩm
7
Cạnh tranh ở đây là nói đến hành vi của chủ thể, vì vậy có hành vi của
doanh nghiệp kinh doanh, của cá nhân kinh doanh và của một nền kinh tế,
không có hành vi của hàng hóa. Trong quá trình các chủ thể cạnh tranh với
nhau, để giành lợi thế về phía minh, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều
biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của minh trên thị trường. Các biện
pháp này thể hiện một sức mạnh, một khả năng hoặc một năng lực nào đó của
chủ thể, được gọi là sức cạnh tranh của chủ thể đó hoặc khả năng cạnh tranh
của chủ thể đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí
của một sản phẩm hàng hoá nào đó trên thị trường (hàng hoá này là của một
doanh nghiệp nào đó, một quốc gia nào đó) thì ta cũng dùng thuật ngữ “khả
năng cạnh tranh của sản phẩm” hoặc sức cạnh tranh của sản phẩm cũng thể
hiện mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó đối với khách hàng. [1]
Sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội của sản phẩm
đó so với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các
sản phẩm tham gia cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng.
Có nghĩa là những sản phẩm mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên một đơn vị
giá cả là những sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Năng lực cạnh tranh có thể phân chia thành 4 cấp độ khác nhau: cạnh
tranh cấp độ quốc gia, cấp độ ngành, cấp độ doanh nghiệp và cấp độ sản phẩm
hàng hoá. Năng lực cạnh tranh của bốn cấp độ trên có mối liên hệ tương quan
mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm cần thiết phải đặt
nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh trên.
Một sản phẩm hàng hoá được coi là có khả năng cạnh tranh khi nó đáp
ứng được nhu cầu hàng hoá về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng độc
đáo hay khác biệt về thương hiệu, bao bì…hơn hẳn so với những sản phẩm
hàng hoá cùng loại. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và năng lực
8
cạnh tranh của doanh nghiệp có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Vì sức cạnh
tranh của hàng hoá có được thường là do sức cạnh tranh của chủ thể doanh
nghiệp. Điểu này cho thấy tầm quan trọng của chủ thể doanh nghiệp trong
việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế, cũng như
việc xây dựng một thương hiệu hàng hoá mạnh, có tác động tích cực đến sự
phát triển của doanh nghiệp trên thị trường đó.
Như vậy có thể nói năng lực cạnh tranh của sản phẩm là tổng hoà sức
cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành và quốc gia. Các yếu tố ảnh hưởng đến
sức cạnh tranh sản phẩm bao hàm các yếu tố từ phạm vi doanh nghiệp, ngành
công nghiệp đến phạm vi quốc gia.
2.1.1.3. Vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh [16] [4]
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây phạm trù cạnh tranh
hầu như không tồn tại giữa các doanh nghiệp, tại thời điểm này các doanh
nghiệp hầu như đã được Nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi
hoạt động, kể cả khi các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trách nhiệm này thuộc
về Nhà nước. Vì vậy, vô hình Nhà nước đã tạo ra một lối mòn trong kinh
doanh, một thói quen trì trệ và ỉ lại, doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm
khách hàng mà chỉ có khách hàng tự tìm tới đến doanh nghiệp. Chính điều đó
đã không tạo được động lực cho doanh nghiệp phát triển. Sau khi kết thúc đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) nước ta đã chuyển sang một giai đoạn
mới, một bước ngoặt lớn, nền kinh tế thị trường được hình thành thì vấn đề
cạnh tranh xuất hiện và có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với doanh
nghiệp mà còn đối với người tiêu dùng cũng như nền KTQD nói chung.
Đối với nền kinh tế quốc dân.
Đối với nền kinh tế, cạnh tranh không chỉ là môi trường và động lực
thúc đẩy sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng năng suất
lao động mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá quan hệ xã hội, cạnh
9
tranh còn là điều kiện giáo dục tính năng động của các doanh nghiệp. Bên
cạnh tranh góp phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự xuất
hiện của nhữnh sản phẩm mới. Điều đó chứng tỏ đời sống của con người ngày
càng được nâng cao về chính trị, kinh tế và văn hoá. Cạnh tranh bảo đảm thúc
đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày
càng phát triển sâu và rộng. Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có
quyền lựa chọn những sản phẩm mà họ đánh giá là tốt nhất. Nếu một sản
phẩm không đáp ứng được đòi hỏi của người tiêu dùng lập tức sẽ bị đào thải.
Vì vậy, cạnh tranh kích thích các nhà sản xuất phải ngày càng hoàn thiện sản
phẩm của mình hơn, thoả mãn những yêu cầu của thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn mà cạnh tranh đem lại thì nó
vẫn còn mang lại những mặt hạn chế như cạnh tranh không lành mạnh tạo sự
phân hoá giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh sẽ dấn tới có những mốt
làn ăm vi phạm pháp luật như trốn thuế, lậu thuế, làm hàng giả, buôn bán trái
phép những mặt hàng mà Nhà nước và pháp luật nghiêm cấm.
Đối với doanh nghiệp.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt
động kinh doanh trên trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại
và đứng vững. Để tồn tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những chiến
lược cạnh tranh cụ thể và lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ
mô. Họ cạnh tranh để giành những lợi thế về phía mình, cạnh trạnh để giành
giật khách hàng, làm cho khách hàng tự tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp
mình là tốt nhất, phù hợp với thì hiếu, như cầu người tiêu dùng nhất. Doanh
nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khác hàng kịp thời, nhanh chóng và đầy
đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kèm theo với mức giá phù hợp thì doanh
nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và phát triển. Do vậy cạnh tranh là rất quan
trọng và cấn thiết.
10
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt
đầu từ việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như
thế nào? sản xuất cho ai? Nghiên cứu thì trường để doanh nghiệp xác định
được nhu cầu thị trường và chỉ sản xuất ra những gì mà thị trường cần chứ
không sản xuất những gì mà doanh nghiệp có. Cạnh tranh buộc các doanh
nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn, tiện dụng với người
tiêu dùng hơn. Muốn vậy các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựư
khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác
quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, cử cán bộ đi học để nâng
cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh thắng lợi sé tạo cho doanh nghiệp một
vị trí xứng đáng trên thị trường tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Trên cơ sở
đó sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, tái sản xuất xã hội, tạo đà
phát triển mạnh cho nền kinh tế.
Đối với Ngành:
Hiện nay, đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành xi măng nói
riêng, cạnh tranh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nâng cao
chất lượng sản phẩm. Cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh sẽ tạo bước đà
vững chắc cho mọi ngành nghề phát triển. Nhất là đối với ngành xi măng là
một ngành vai trò lớn trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh
sẽ tạo bước đà và động lực cho ngành phát triển trên cơ sở khai thác lợi thế và
điểm mạnh của ngành đó là thu hút được một nguồn lao động, tài nguyên dồi
dào và có thể khai thác tối đa nguồn lực đó.
Như vậy, trong bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mô
hoạt động lớn hay quy mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đứng ở tầm vĩ
mô hay vi mô thì không thể thiếu vắng sự có mặt của hoạt động cạnh tranh.
Đối với sản phẩm.
11
Nhờ có cạnh tranh, mà sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng cao
về chất lượng, phong phú về chủng loại, mẫu mã và kích cỡ. Giúp cho lợi ích
của người tiêu dùng và của doanh nghiệp thu được ngày càng nhiều hơn.
Ngày nay, các sản phẩm được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu trong
nước mà còn cung cấp và xuất khẩu ra nước ngoài. Qua những ý nghĩa trên ta
thấy rằng cạnh tranh không thể thiếu sót ở bất cứ một lĩnh vực nào của nền
kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh sẽ thực sự tạo ra những doanh nghiệp lớn và
đồng thời là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển đảm bảo công bằng xã
hội. Bởi vậy, cạnh tranh là một yếu tố rất cần có sự hỗ trợ và quản lý của Nhà
nước để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực như cạnh
tranh không lành mạnh dẫn tới độc quyền và gây lũng loạn thị trường.
2.1.1.4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. ở đâu có
nền kinh tế thị trường thì ở đó có cạnh tranh. Bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị trường muốn doanh nghiệp
mình tồn tại và đứng vững thì phải cạnh tranh. Trong giai đoạn hiện nay do
tác động của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế nước ta đang ngày
càng phát triển, nhu cầu cuộc sống của con người được nâng lên ở mức cao
hơn rất nhiều. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó, doanh nghiệp phải không
ngừng điều tra nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, doanh
nghiệp nào bắt kịp và đáp ứng đầy đủ nhu cầu đó thì sẽ chiến thắng trong
cạnh tranh. Chính vì vậy năng lực cạnh tranh là rất cần thiết, nó giúp cho
doanh nghiệp: [19]
- Giúp cho DN tồn tại và đứng vững trên thị trường: Năng lực cạnh
tranh sẽ tạo ra môi trường kinh doanh và những điều kiện thuận lợi để đáp
ứng nhu cầu khách hàng, làm cho khách hàng tin rằng sản phẩm của doanh
nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu nhu cầu của người tiêu dùng.
12
Doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng thì doanh
nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Giúp doanh nghiệp phát triển hơn
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, năng lực cạnh tranh là một điều
kiện và là một yếu tố kích thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực
thúc đẩy hát triển sản xuất, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá
sản xuất ra nhiều, số lượng người cung ứng ngày càng đông thì cạnh tranh
ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh tranh là loại bỏ những công ty làm ăn kém
hiệu quả, năng suất chất lượng thấp và ngược lại nó thúc đẩy những công ty
làm ăn tốt, năng suất chất lượng cao. Do vậy, muốn tồn tại và phát triển thì
doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, tìm mọi cách nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Các doanh nghiệp cần
phải tìm mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng như
sản xuất ra nhiều loại hàng hoá có chất lượng cao, giá cả phù hợp với chất
lượng sản phẩm, phù hợp với mức thu nhập của từng đối tượng khách hàng.
Có như vậy hàng hoá của doanh nghiệp bán ra mới ngày một nhiều, tạo được
lòng tin đối với khách hàng. Muốn tồn tại và phát triển được thì doanh nghiệp
cần phải phát huy hết ưu thế của mình, tạo ra những điểm khác biệt so với các
đối thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp mới có khả năng tồn tại, phát triển và
thu được lợi nhuận cao.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì cạnh tranh
luôn là mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó khách hàng
là người tự do lựa chọn nhà cung ứng và cũng chính là những người quyết
định cho doanh nghiệp có tồn tại hay không. Họ không phải tìm đến doanh
nghiệp như trước đây nữa và họ cũng không phải mất thời gian chờ đợi để
mua hàng hoá dịch vụ, mà đối ngược lại trong nền kinh tế thị trường khách
hàng được coi là thượng đế, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì
13
phải tìm đến khách hàng và khai thác nhu cầu nơi họ. Điều này đòi hỏi doanh
nghiệp phải có những chương trình giới thiệu truyền bá và quảng cáo sản
phẩm của mình để người tiêu dùng biết đến, để họ có sự xem xét, đánh giá và
quyết định có nên tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp hay không? Ngày
nay việc chào mời để khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình đã là vấn đề
khó khăn nhưng việc giữ lại được khách hàng còn khó khăn hơn rất nhiều.
Bởi vậy mà doanh nghiệp nên có những dịch vụ trước khi bán, trong khi bán
và dịch vụ sau khi bán hàng hoá cho khách hàng, để những khách hàng đó là
những khách hàng truyền thống của doanh nghiệp, chính họ là những nhân tố
quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
2.1.2. Các hình thức cạnh tranh [13] [11]
Cạnh tranh được phân loại theo các hình thức sau:
2.1.2.1. Căn cứ vào các chủ thể tham gia cạnh tranh: Chia làm 3 loại
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn
ra theo quy luật mua rẻ bán đắt, cả hai bên đều muốn tối đa hoá lợi ích của
mình. Người bán muốn bán với giá cao nhất có thể, còn người mua muốn mua
với giá rẻ nhất những chất lượng vẫn không thay đổi. Tuy vậy, mức giá vẫn là
sự thoả thuận mang lại lợi ích của cả 2 bên.
- Cạnh tranh giữa người mua và người mua: là cuộc cạnh tranh trên cơ
sở quy luật cung cầu, khi trên thị trường mức cung nhỏ hơn mức cầu. Lúc này
hàng hoá trên thị trường sẽ khan hiếm, người mua có để đạt được nhu cầu
mong muốn của mình họ sẽ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn do vậy mức
độ cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn giữa những người mua, kết quả là giá cả
hàng hoá sẽ tăng lên, những người bán sẽ thu được lợi nhuận lớn trong khi
những người mua bị thiệt thòi cả về giá và chất lượng, nhưng trong trường
hợp này chủ yếu chỉ tồn tại ở nền kinh tế bao cấp và xảy ra khi diễn ra hoạt
động bán đấu giá một loại hàng hoá nào đó.
14
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: đây là cuộc cạnh tranh
gay go và quyết liệt nhất khi mà trong nền kinh tế thị trường sức cung lớn hơn
cầu rất nhiều, khách hàng được coi là thượng đế của người bán, là nhân tố có
vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do
vậy, các doanh nghiệp phải luôn ganh đua, loại trừ nhau để giành giật những
ưu thế và lợi thế cho mình.
2.1.2.2. Căn cứ theo tính chất và mức độ cạnh tranh: chia làm các
loại:
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh thuần tuý, là một hình thức đơn
giản của cấu trúc thị trường trong đó người mua và người bán đều không đủ
lớn để tác động đến giá cả thị trường. Nhóm người mua tham gia trên thị
trường này chỉ có cách thích ứng với mức giá đưa ra vì cung cầu trên thị
trường được tự do hình thnàh, giá cả do thị trường quyết định.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: đây là hình thức cạnh tranh phổ biến
trên thị trường mà ở đó doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh có thể chi phối
được giá cả của sản phẩm thông qua hình thức quảng cáo, khuyến mại các
dịch vụ trong và sau khi bán hàng. Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh
mà phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau, mỗi loại sản phẩm
mang nhãn hiệu và đặc tính khác nhau dù xem xét chất lượng thì sự khác biệt
giữa các sản phẩm là không đáng kể nhưng mức giá mặc định cao hơn rất
nhiều. Cạnh tranh không hoàn hảo có 2 loại:
- Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh mà ở đó một hoặc một số chủ
thể có ảnh hưởng lớn, có thể ép tất cả các đối tác của mình phải bán hoặc mua
sản phẩm của mình với giá cao và những người này có thể làm thay đổi giá
thị trường. Có hai loại cạnh tranh độc quyền đó là độc quyền bán và độc
quyền mua. Độc quyền bán là trên thị trường có ít người bán và nhiều người
mua. Còn độc quyền mua thì ngược lại có nhiều người mua và ít người bán.
15
+ Độc quyền tập đoàn: Hình thức cạnh tranh này tồn tại trong một số
ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất. Lúc này cạnh tranh sẽ
xẩy ra giữa một số lực lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy, mọi doanh
nghiệp phải nhận thức rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ
thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những đối thủ khác
trên thị trường.
2.1.2.3. Căn cứ vào phạm vi kinh tế.
- Cạnh tranh nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, sản xuất và tiêu dùng cùng một chủng loại sản phẩm.
Trong cuộc cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn nhau, các doanh nghiệp phải áp
dụng mọi biện pháp để thu được lợi nhuận như cải tiến kỹ thuật, nâng cao
năng suất lao động, giảm chi phí cá biệt của hàng hoá nhằm thu lợi nhuận,
siêu ngạch. Kết quả của cạnh tranh là kỹ thuật sản xuất phát triển, điều kiện
sản xuất trong một ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá được xác định
lại, tỷ xuất lợi nhuận giảm xuống. Đồng thời các doanh nghiệp chiến thắng sẽ
mở rộng phạm vi hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường,
những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh, thậm chí còn bị
phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các ngành kinh tế
khác nhau nhằm tạo ra lợi nhuận cao nhất, là ngành cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp hay đồng minh các doanh nghiệp cùng một ngành với ngành khác.
Trong quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi các ngành
có lợi nhuận cao, nên đã có sự chuyển dịch vốn từ các ngành có lợi nhuận
thấp sang các ngành có mức lợi nhuận cao hơn. Sự di chuyển này sau một
thời gian nhất định, vô hình chung đã hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý
giữa các ngành sản xuất để rồi kết quả cuối cùng là: Các chủ doanh nghiệp
16
đầu tư ở các ngành khác nhau với cùng một số vốn chỉ thu được lợi nhuận
như nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân cho tất cả các ngành.
2.1.3. Các công cụ cạnh tranh sản phẩm
Công cụ cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp có thể hiểu tập hợp
các yếu tố, các kế hoạch, các chiến lược, các chính sách, các hành động mà
doanh nghiệp sử dụng nhằm vượt lên các đối thủ cạnh tranh và tác động vào
khách hàng để thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu các công
cụ cạnh tranh sản phẩm cho phép các DN lựa chọn những công cụ cạnh tranh
phù hợp với tình hình thực tế, với quy mô kinh doanh và thị trường của doanh
nghiệp và đặc biệt là dựa vào đặc điểm của mỗi loại sản phẩm. Từ đó mỗi
doanh nghiệp phát huy được hiệu quả sử dụng công cụ, việc lựa chọn công cụ
cạnh tranh có tính chất linh hoạt và phù hợp không theo một khuân mẫu cứng
nhắc nào. Dưới đây là một số công cụ cạnh tranh tiêu biểu và quan trọng.
2.1.3.1 Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản
phẩm thể hiện mức độ thoả mãn như cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác
định, phù hợp với công dụng lợi ích của sản phẩm. Nếu như trước kia giá cả
được coi là quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó phải nhường chỗ
cho tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Khi có cùng một loại sản phẩm, chất
lượng sản phẩm nào tốt hơn, đáp ứng và thoả mãn được nhu cầu của người
tiêu dùng thì họ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn. Nhất là trong nền kinh tế
thị trường cùng với sự phát triển của sản xuất, thu nhập người lao động ngày
càng được nâng cao, họ có đủ điều kiện để thoả mãn như cầu của mình, cái
mà họ cần là chất lượng và lợi ích của sản phẩm mang lại.
Để sản phẩm của doanh nghiệp luôn là sự lựa chọn của khách hàng ở
hiện tại và tương lai thì nâng cao chất lượng sản phẩm là điều cần thiết. Nâng
cao chất lượng sản phẩm là sự thay đổi chất liệu sản phẩm hoặc thay đổi công
17
nghệ chế tạo đảm bảo lợi ích và tính an toàn trong quá trình tiêu dùng và sau
khi tiêu dùng. Hay nói cách khác nâng cao chất lượng sản phẩm là việc cải
tiến sản phẩm có nhiều chủng loại mẫu mã, bền hơn và tốt hơn. Điều này làm
cho khách hàng cảm nhận lợi ích mà họ thu dường ngày càng tăng lên khi duy
trì tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Làm tăng lòng tin cà sự trung thành
cẩu khách hàng đối với doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm được coi là một vấn đề sống còn đối với doanh
nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp Việt Nam khi họ phải đương đầu với các
đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Một khi chất lượng hàng hoá
dich vụ không được đảm bảo thì có nghĩa là khách hàng đến với doanh nghiệp
ngày càng giảm, doanh nghiệp sẽ mất khách hàng và thị trường dẫn tới sự suy
yếu trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác chất lượng thể hiện tính quyết định
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ nâng cao chất lượng sẽ làm tăng
tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ
sống của sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng uy tín của
doanh nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do
vậy, cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm là một yếu tố rất quan trọng và cần
thiết mà bất cứ một doanh nghiệp nào cũng đều phải sử dụng nó.
Thực tế cho thấy, tất cả các doanh nghiệp thành đạt trong kinh doanh,
đều là các doanh nghiệp có thái độ tích cực như nhau trong quản lý chất lượng
sản phẩm. Nguyên tắc chung của họ là đảm bảo chất lượng sản phẩm tuyệt
đối với độ tin cậy cao khi sử dụng và lòng trung thực trong quan hệ mua bán.
Đặc biệt là các doanh nghiệp phải luôn coi việc nâng cao chất lượng sản phẩm
là một chiến lược cạnh tranh trên thị trường có phạm vi rộng lớn, chất lượng
sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp.
2.1.3.2 Cạnh tranh bằng giá cả sản phẩm
18
Giá cả được hiểu là toàn bộ số tiền mà người mua trả cho người bán về
việc cung ứng một số hàng hoá dịch vụ nào đó. Thực chất giá cả là sự biểu
hiện bằng tiền của giá trị hao phí lao động sống và hao phí lao động vật hoá
để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu.
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, khách
hàng được tôn vinh là “ Thượng đế ” họ có quyền lựa chọn những gì học cho
là tốt nhất, khi có cùng hàng hoá dịch vụ với chất lượng tương đương nhau thì
chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá thấp hơn, để lợi ích học thu được từ sản
phẩm là tối ưu nhất. Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh và từ đó có
cách định giá cho mỗi loại thị trường. Do vậy, cạnh tranh bằng giá cả chính là
một công cụ hữu hiệu của doanh nghiệp và doanh nghiệp có thể có các cách
định giá sau đây:
Cạnh tranh với một mức giá ngang bằng với giá thị trường: Giúp
doanh nghiệp đánh giá được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được biện
pháp giảm giá mà chất lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo thì khi đó lượng
tiêu thụ sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh cao và lợi sẽ thu được nhiều.
Cạnh tranh với một mức giá thấp hơn giá thị trường: Chính sách này
được áp dụng khi cơ sở sản xuất muốn tập trung một lượng hàng hoá lớn, thu
hồi vốn và lời nhanh. Không ít DN đã thành công khi áp dụng chính sách
Chính sách định giá cao: Là chính sách mà giá bán sản phẩm của doanh
nghiệp cao hơn giá thống trị trên thị trường đối với sản phẩm cùng loại. Chính
sách này áp dụng cho doanh nghiệp có sản phẩm hay dịch vụ độc quyền,
không bị cạnh tranh.
Chính sách giá phân biệt: Nếu các đối thủ cạnh tranh chưa có chính sách
giá phân biệt thì đây cũng là một thứ vũ cạnh tranh không kém phần lợi hại
của doanh nghiệp. Chính sách giá phân biệt của doanh nghiệp được thể hiện
19