5. Quản lý dịch hại trong thời gian trước thu hoạch có lợi ích gì đến chất
lượng và thời gian tồn trữ sản phẩm rau-hoa-quả sau thu hoạch
2.2 Quản lý dịch hại đối với sản phẩm rau
2.2.1 Các yếu tố dịch hại trong thời gian trước thu hoạch có thể ảnh hưởng
đến chất lượng và thời gian tồn trũ
Rau lá một loại sản phẩm dễ bị hư hỏng và thời gian bảo quản tương đối
ngắn. Do đó vấn đề quản lý dịch hại trước thu hoạch ảnh hưởng lớn đến chất
lượng và thời gian ttoofn trữ sau thu hoạch
2.2.1.1 Chất lượng rau
Chất lượng rau là chỉ tiêu rất quan trọng , nó quyết định đến giá trị sử dụng
và giá trị hàng hóa. Chất lượng rau càng cao, càng thuận lợi cho quá trình
tiêu thụ sản phẩm (Trồn cây rau ở Việt Nam NXB dân tộc)
Các cấp độ rau: rau thường, rau an toàn, rau sạch, rau hữu cơ.
* Rau thường (normal vegetables)
* Rau an toàn (safe vegetables)
* Rau sạch (Clean vegetables)
* Rau hữu cơ (organic vegetables)
2.2.1.2 Các yêu cầu chất lượng của rau an toàn
* Chỉ tiêu nội chất:
- Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV)
- Hàm lượng Nitrate( NO
3
)
- Hàm lượng một số kim loại nặng chủ yếu: Cu, Pb, Hg, Cd, As,…
- Mức độ nhiễm các vi sinh vật gây bệnh (E. coli Samonella,…và ký sinh
trùng đường ruột (trứng giun đũa Ascaris)
Tất cả các chỉ tiêu trong sản phẩm của từng loại rau phải được dưới mức cho
phép theo tiêu chuẩn của Tổ chức Lương thực hoặc Y tế thế giới
(FAO/WHO) hoặc của một số nước tiên tiến: Nga, Mỹ… hay khối liên minh
Châu Âu EUREP GAP), Châu Á (ASEAN GAP), Việt Nam(VietGAP)
• Chỉ tiêu hình thái
Sản phẩm được thu hoạch đúng lúc, đúng yêu cầu từng loại rau (đúng độ
già kỹ thuật hay thương phẩm); không dập nát, hư thối, không lẫn tạp
chất, sâu hại và có bao gói thích hợp (GT Kỹ thuật sản suất rau sạch-
ĐHCT 2009)
WED: />dich-hai-trong-san-xuat-rau-huu-co_t77c646n30086tn.aspx
Các biện pháp quản lý sâu và dịch hại trong sản xuất rau hữu cơ
Cập nhật lúc: 14:55 31/10/2012
Yêu cầu quan trọng nhất trong sản xuất rau hữu cơ là không sử dụng thuốc trừ
sâu, phân bón hóa học. Vì vậy, việc phòng và ngăn ngừa sâu, các dịch hại bùng phát
quan trọng hơn là để cho chúng phát triển rồi mới diệt trừ. Chúng tôi xin chia sẻ
với bà con một số biện pháp phòng trừ hiệu quả:
1. Kiểm tra cây trồng thường xuyên
Thường xuyên kiểm tra vườn cây và xung quanh vườn, khi phát hiện sâu và ổ trứng của
sâu hại cần tiêu diệt ngay để tránh bùng phát mạnh.
2. Tạo môi trường cho côn trùng có ích (thiên địch) phát triển
Có hơn 100 họ côn trùng (sâu hại) như nhện, rầy mềm, rệp… Những loài côn trùng này
có thể làm thức ăn cho những loài côn trùng (thiên địch) có ích khác như các loài bọ rùa,
kiến ba khoang, chuồn chuồn
Tạo điều kiện cho các loài thiên địch này bằng cách trồng các loài hoa thiên nhiên như cỏ
ba lá, cỏ linh lăng, hoa soi nhái… xung quanh vườn hay chỗ trống gần vườn rau để kích
thích sự phát triển của côn trùng có ích đến tiêu diệt sâu hại.
3. Che chắn theo hàng rau, hoặc làm nhà lưới, nhà màng
Dùng băng vải, nilon dựng thành khung hoặc chắn xung quanh vườn hoặc theo các hàng
rau bảo vệ rau khỏi côn trùng tấn công. Kỹ thuật này có hiệu quả với một số bọ cánh
cứng, và bọ xít hại dưa leo, rau ăn lá…
Biện pháp này thường áp dụng đối với một số loại rau dưa leo, hoặc các loại rau không
cần cho thụ phấn. Kỹ thuật này cũng có tác dụng giảm sương giá và dịch hại khác tấn
công (chuột, bọ, ốc…). Ngoài ra, nhà lưới, nhà màng còn có tác dụng kéo dài mùa vụ
gieo trồng rau, bảo vệ rau khỏi các điều kiện môi trường bất lợi và ngăn chặn sâu bệnh và
dịch hại tấn công.
4. Bẫy cây trồng
Trồng một số cây rau không quan trọng gần vườn rau để nhử côn trùng tập trung vào
nhằm giảm áp lực gây hại cho rau. Sau đó tiêu diệt những cây nhử này khi côn trùng tập
trung mật độ cao, gây hại nhiều.
5. Dùng giống kháng
Nếu người trồng rau có điều kiện, có thể áp dụng một số giống kháng côn trùng theo
khuyến cáo.
6. Điều chỉnh thời vụ gieo trồng
- Theo dõi thông tin nghiên cứu về tập tính một số loài côn trùng có mật độ cao vào thời
điểm nhất định trong vụ trồng để bố trí thời vụ (ví dụ, bẫy đèn, thông tin trên truyền
hình).
- Theo dõi dự báo sâu bệnh trên các thông tin công cộng để bố trí trồng lệch pha với thời
điểm côn trùng bùng phát phá hại nặng.
7. Trồng xen nhiều loài rau, luân canh khi cần
Trồng xen là trồng từ 2 đến nhiều loại rau trong một khu vực trong cùng thời vụ; Luân
canh là trồng mỗi vụ một loại rau khác nhau trên cùng diện tích đất trồng nhằm ngăn côn
trùng bùng phát mật số cao gây hại trên một loại rau.
8. Vệ sinh đồng ruộng và giữ cho cây khỏe mạnh
- Cây khỏe không hấp dẫn côn trùng tấn công, nếu bị côn trùng tấn công thì khả năng
phục hồi nhanh và sản phẩm tiêu thụ được trên thị trường. - Vệ sinh đồng ruộng, dọn
sạch cỏ dại, nơi chứa chấp dịch hại (côn trùng, chuột, ốc…) thường xuyên và sau khi thu
hoạch không còn nơi trú ngụ của sâu hại, trứng và nhộng trong các tàn dư cây trồng.
- Cày xới đất sau thu hoạch ngay để phơi đất hoặc lợi dụng thiên địch (chim) diệt nhộng,
trứng, mầm bệnh, ổ chuột, bọ, cắt dứt nguồn gây hại cho vụ tới.
9. Áp dụng thuốc trừ sâu hữu cơ, sinh học
- Một số loại thuốc trừ sâu có thể áp dụng sản xuất rau hữu cơ được các cơ quan chuyên
môn công bố được phép sử dụng bao gồm Bt (Bacillus thuringiensis), thuốc trừ sâu cây
cúc, thuốc trừ sâu rotenon, xà phòng trừ sâu, thuốc từ gốc cây Neem, các loại dầu thực
vật .v.v…Khi sử dụng, cần phải đọc kỹ hướng dẫn và tham khảo ý kiến cán bộ chuyên
môn, kỹ thuật trước khi sử dụng cho rau hữu cơ.
(TS. Nguyễn Công Thành, Viện Khoa học Kỹ thuật NN miền Nam)
WED:
/>x?Source=/tonghop&Category=Tr%E1%BB%93ng+tr%E1%BB
%8Dt&ItemID=149&Mode=1
Sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật hợp lý và đúng kỹ thuật để bảo vệ năng suất – phẩm
chất cây rau, an toàn cho con người và môi trường
Rau là loại thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của mọi người và
rau cũng là loại cây trồng có nhiều sâu bệnh gây hại. Vì vậy một trong những khâu
quyết định quan trọng đến năng suất và phẩm chất rau là phòng trừ sâu bệnh kịp
thời.
Việc phòng trừ sâu bệnh hại trên rau hiện nay phải đạt được 2 yêu cầu là bảo
vệ được năng suất - phẩm chất, đồng thời không độc hại với các loại sinh vật có ích,
an toàn cho con người và môi trường.
Để hạn chế sâu bệnh hại phát triển, trong canh tác rau nông dân thường kết
hợp cùng lúc nhiều biện pháp như: Diệt ổ trứng, sâu non bằng tay, dùng lưới chắn
côn trùng để hạn chế được nhiều sâu hại nhất là thời điểm trái vụ, dùng màng phủ
đất nhằm hạn chế nhiều loại sâu bệnh truyền từ đất, sử dụng các loại bẫy bã như
bẫy chua ngọt, bẫy dính, bẫy pheromone để bắt côn trùng trưởng thành hoặc dùng
thiên địch để kìm hãm một số côn trùng có hại,…
Tuy vậy khi môi trường thích hợp sâu bệnh hại sẽ phát triển và lây lan rất
nhanh, khi đó để bảo vệ năng suất và phẩm chất nông sản, biện pháp đơn giản
nhưng tiêu diệt sâu và hạn chế bệnh hại lây lan nhanh nhất là sử dụng hóa chất để
phòng trừ.
Hóa chất dùng trong công tác BVTV đều được mang tên chung là thuốc BVTV hay
nông dược. Theo Điều lệ quản lý thuốc BVTV (Ban hành kèm theo Nghị định số
58/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ) thuốc BVTV là chế phẩm có nguồn
gốc từ hóa chất, thực vật, động vật, vi sinh vật và các chế phẩm khác dùng để
phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật.
Việc phân loại thuốc BVTV có thể thực hiện theo nhiều cách như phân loại theo
đối tượng phòng trừ (thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh,…) hoặc phân loại theo gốc hóa
học (nhóm clo hữu cơ, nhóm lân hữu cơ,…). Các thuốc trừ sâu có nguồn gốc khác
nhau thì tính độc và khả năng gây độc khác nhau:
- Nhóm thuốc thảo mộc: có độ độc cấp tính cao nhưng mau phân hủy trong
môi trường.
- Nhóm clo hữu cơ: DDT, 666, nhóm này có độ độc cấp tính tương đối thấp
nhưng tồn lưu lâu trong cơ thể người, động vật và môi trường, gây độc mãn tính nên
nhiều sản phẩm bị cấm hoặc hạn chế sử dụng.
- Nhóm lân hữu cơ: Wofatox Bi-58, độ độc cấp tính của các loại thuốc thuộc
nhóm này tương đối cao nhưng mau phân hủy trong cơ thể người và môi trường hơn
so với nhóm clo hữu cơ.
- Nhóm carbamate: Mipcin, Bassa, Sevin,…đây là thuốc được dùng rộng rãi bởi
vì thuốc tương đối rẻ tiền, hiệu lực cao, độ độc cấp tính tương đối cao, khả năng
phân hủy tương tư nhóm lân hữu cơ.
- Nhóm Decis, Sherpa, Sumicidine, nhóm này dễ bay hơi và tương đối mau
phân hủy trong môi trường và cơ thể người.
- Các hợp chất pheromone: Là những hóa chất đặc biệt do sinh vật tiết ra để
kích thích hành vi của những sinh vật khác cùng loài. Các chất điều hòa sinh trưởng
côn trùng (Nomolt, Applaud,…): là những chất được dùng để biến đổi sự phát triển
của côn trùng. Chúng ngăn cản côn trùng biến thái từ tuổi nhỏ sang tuổi lới hoặc ép
buộc chúng phải trưởng thành từ rất sớm: Rất ít độc với người và môi trường.
- Nhóm thuốc trừ sâu vi sinh (Dipel, Thuricide, Xentari, NPV, ): Rất ít độc với
người và các sinh vật không phải là dịch hại.
- Ngoài ra còn có nhiều chất có nguồn gốc hóa học khác, một số sản phẩm từ
dầu mỏ được dùng làm thuốc trừ sâu.
Tại Việt Nam để phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật, hàng năm Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành danh mục thuốc BVTV được phép sử
dụng, hạn chế sử dụng, cấm sử dụng. Trong danh mục được phép sử dụng năm 2010
có 437 hoạt chất thuốc trừ sâu với 1.196 tên thương phẩm, 304 hoạt chất thuốc trừ
bệnh với 828 tên thương phẩm,…. Tuy được phép sử dụng nhưng thuốc BVTV cũng
có nhiều tác động đến cây trồng và hệ sinh thái, cụ thể như:
- Ở liều quá cao cũng làm cây trồng ngộ độc cấp tính hoặc ngộ độc mãn tính.
Ở liều quá thấp, một số thuốc có tác dụng kích thích nhất định đối với sinh trưởng
của cây trồng.
- Dùng hóa chất BVTV sẽ ảnh hưởng đến quần thể sinh vật: tăng loài này và
giảm loài kia…
- Cuối cùng là ảnh hưởng đến sức khỏe con người: Các loại thuốc trừ sâu đều
có tính độc cao. Trong quá trình dùng thuốc, một lượng thuốc nào đó có thể đi vào
trong thân cây, quả, hoặc dính bám chặt trên lá, quả. Người và động vật ăn phải các
loại nông sản này có thể bị ngộ độc. Một số loại thuốc trừ sâu có khả năng bay hơi
mạnh nên gây khó chịu, mệt mỏi, thậm chí choáng ngất cho người trực tiếp phun
thuốc trên đồng ruộng, nhất là trong trường hợp không có các biện pháp phòng tránh
tốt.
Để việc sử dụng hóa chất đạt được yêu cầu hiệu quả và an toàn tức là vừa giữ
được năng suất chất lượng rau, vừa bảo vệ được sức khỏe của người tiêu dùng rau
và cả người trồng rau, người trồng rau cần phải áp dụng một số nguyên tắc chính
như sau:
1. Không sử dụng thuốc quá độc
Thuốc BVTV nào cũng độc nhưng mức độ độc thay đổi tùy theo loại thuốc. Để
thể hiện mức độ dộc của mỗi loại thuốc người ta sử dụng chỉ số gây độc cấp tính LD
50 hay còn gọi là liều gây chết trung bình căn cứ thử nghiệm trên thỏ hoặc chuột
bạch. Chỉ số LD 50 càng thấp thì thuốc càng độc, và ngược lại chỉ số LD 50 càng cao
thì thuốc càng ít độc. Ví dụ: LD 50 của Furadan (Carbofuran) bằng 8-14 mg/kg là
thuốc rất độc, Chỉ số LD 50 của Trebon (Ethofenprox) là 21.440 mg/kh nên thuốc ít
độc hơn nhiều. Căn cứ vào chỉ số LD 50 người ta chia các thuốc BVTV ra thành 4 cấp
độc từ I đến IV. Cấp I là cực độc, cấp II là độc, cấp III là độc trung bình và cấp IV là
tương đối ít độc. Để nhận biết, người ta in băng màu trên nhãn thuốc biểu thị cấp
độc.
Khi sử dụng thuốc BVTV trên rau không nên dùng các thuốc BVTV nhóm clo,
nhóm Lân, tuyệt đối không nên dùng thuốc cấp độc I. Trong điều kiện cây con thì có
thể sử dụng thuốc cấp độc II.
Phân nhóm và ký hiệu
LD 50 qua miệng (mg/kg) LD 50 qua da (mg/kg)
Thể rắn Thể lỏng Thể rắn Thể lỏng
Ia, Ib. Rất độc
Vạch màu đỏ
<50
<200
<100
<400
II. Độc cao
Vạch màu vàng
50-500
200-1000
100-1000
400-4000
III. Nguy hiểm
Vạch màu xanh lam
>500
> 2000
> 1000
>4000
IV.Cẩn thận
Vạch màu xanh lá cây
“Cẩn thận”
2. Không sử dụng thuốc lâu phân hủy
Thuốc BVTV khi phun vào môi trường sẽ bị phân hủy dần dần do các tác động
của mặt trời, hoạt động sinh hóa trong cây trồng, nhiệt độ, vi sinh vật,…cho đến khi
hoàn toàn không còn chất độc nữa. Tuy nhiên tốc độ phân hủy nhanh hay chậm tùy
thuộc vào từng loại thuốc. Có loại nhanh phân hủy có loại rất lâu phân hủy. Nói
chung các loại thuốc trừ sâu nhóm clo hữu cơ rất lâu phân hủy, nhóm lân hữu cơ,
nhóm carbarmate có tốc độ phân hủy trung bình. Nhóm cúc tổng hợp, nhóm thảo
mộc và nhất là nhóm thuốc vi sinh phân hủy rất nhanh.
Trên cây rau cần sử dụng các thuốc nhanh phân hủy như thuốc vi sinh (BT,
NPV,…) thảo mộc (Rotenon, Nicotine, Neem,…), cúc tổng hợp (Baythroid, Cyperan, )
để hạn chế dư lượng thuốc BVTV còn lại sau thu hoạch. Không nên dùng các nhóm
thuốc thuộc nhóm clo hữu cơ và lân hữu cơ trên rau.
3. Không sử dụng các loại thuốc có lượng hoạt chất sử dụng quá cao
Khi sử dụng các thuốc có lượng hoạt chất cao cho một đơn vị diện tích rau thì
dư lượng còn lại sau thu hoạch chắc chắn sẽ cao. Thường các thuốc nhóm clo, lân và
carbamate có lượng hoạt chất sử dụng trên một đơn vị diện tích rất cao (khoảng
1.000-2.000 gr cho 1 ha rau). Các thuốc thuộc nhóm cúc tổng hợp và một số thuốc
khác có lượng hoạt chất sử dụng cho 1 ha vào khoảng 50-100 gr/ha. Có loại chỉ vài
chục gr/ha (Vertimec, ). Do vậy mà các loại thuốc này ít để lại dư lượng cao trên
rau.
Trên nông sản, đặc biệt là trên cây rau không nên sử dụng các thuốc nhóm clo,
lân hữu cơ và carbamte để tránh để lại dư lượng cao khi thu hoạch.
4. Không dùng quá liều qui định
Nếu dùng quá liều qui định thì dư lượng để lại sẽ cao hơn bình thường. Trong
trường hợp giữ đúng thời gian cách ly nhưng nếu dùng quá liều qui định thì khả năng
dư lượng còn lại khi thu hoạch vẫn có thể cao hơn mức an toàn.
Vì vậy, khi một loại thuốc nào đó đã bị sâu hại kháng thì không nên tăng liều
lượng phun mà nên thay đổi loại thuốc khác.
5. Đảm bảo thời gian cách ly
Thời gian cách ly là khoảng thời gian tối thiểu kể từ ngày sử dụng thuốc BVTV
lần cuối cùng đến ngày thu hoạch sản phẩm trong quá trình trồng trọt hoặc thời gian
tối thiểu từ khi sử dụng thuốc BVTV lần cuối cùng đến khi sử dụng sản phẩm trong
quá trình bảo quản.
Lịch sử dụng thuốc trừ sâu trên một vụ rau được khuyến cáo như sau:
- Thời gian đầu: sử dụng các loại thuốc có tính chọn lọc cao như thuốc nhóm
điều hòa sinh trưởng, thuốc nhóm vi sinh vì giai đoạn này thường mật số sâu còn
thấp và cần bảo vệ các loài thiên địch tự nhiên để không chế mật số sâu hại.
- Trong giai đoạn giữa: thường có các cao điểm sâu hại xuất hiện thì nên dùng
thuốc nhóm cúc hoặc nhóm khác đặc trị để khống chế mật số, giảm áp lực sâu hại
vào giai đoạn thu hoạch.
- Giai đoạn sau: nên chọn các thuốc vi sinh, thuốc thảo mộc hoặc các loại thuốc
khác nhưng có thời gian cách ly ngắn (thuốc nhanh phân hủy, ít độc) để bảo đảm
không còn tồn dư dư lượng khi thu hoạch và bảo vệ cây rau trong giai đoạn gần thu
hoạch.
Tóm lại, trong phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp trên cây rau, biện pháp
dùng thuốc là biện pháp quan trọng, không thể thiếu trong điều kiện hiện tại. Tuy
nhiên việc sử dụng thuốc phải đúng kỹ thuật và khôn khéo nhất sẽ giúp cho:
- Giảm số lần phun thuốc.
- Giảm thiểu đến mức tối đa tình trạng tồn dư dư lượng thuốc BVTV vượt mức
giới hạn tối đa cho phép trên sản phẩm rau khi đưa ra thị trường để ngăn chặn nguy
cơ ngộ độc do ăn rau có dư lượng thuốc BVTV vượt mức.
- Giảm thiểu mức độ xâm nhiễm thuốc độc hại vào cơ thể của người trồng
rau.
- Bảo vệ các sinh vật có ích trên ruộng rau. Chính điều này lại tạo áp lực giảm
bớt mật số của các loài côn trùng và do đó giảm việc dùng thuốc.
- Bảo vệ môi trường sống, tránh ô nhiễm do sử dụng thuốc BVTV.
WED: />Id=102&nhom=bvtv
Biện pháp tổng hợp phòng trừ sâu bệnh hại rau
Để diệt trừ sâu bệnh trên rau đạt hiệu quả, bà con nên
áp dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp hay
còn gọi là IPM. Biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp
gồm kết hợp 4 biện pháp để giảm thiểu sâu hại đến mật
độ thấp nhất, bao gồm biện pháp canh tác, biện pháp
thủ công, biện pháp sinh học và biện pháp hóa học.
Trong quá trình canh tác rau, nhiều bà con nông dân vẫn có thói quen sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật phun cho rau mỗi khi có sâu bệnh. Tuy nhiên, khi sử dụng thuốc trừ
sâu bệnh không phải ai cũng dùng đúng cách. Do vậy, không những không diệt trừ
được sâu bệnh mà còn để lại dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên rau ảnh hưởng đến
sức khỏe người tiêu dùng, môi trường và thiên địch.
Sau đây là những hướng dẫn về biện pháp phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại rau là
TS. Nguyễn Thị Nhung. Phó Bộ môn Thuốc, cỏ dại và môi trường - Viện Bảo vệ thực
vật.
Biện pháp canh tác
Làm đất
- Bước đầu tiên trong biện pháp canh tác đó là chọn đất trồng. Đa phần các cây rau
thích hợp trồng ở đất có độ pH từ 5 – 7, có khả năng giữ ẩm và thoát nước tốt.
- Sau đó, hành làm đất tơi xốp và phơi ải đất. Mục đích của việc phơi ải, giúp cho vi
sinh vật hảo khí trong đất hoạt động tốt, làm cho đất tơi xốp, thông thoáng và cây
dễ hấp thu các chất dinh dưỡng có trong đất. Ngoài ra, phơi ải đất còn có tác dụng
diệt một số mầm bệnh, cỏ dại còn tồn dư trong đất ở vụ trước. Chính vì vậy, hạn chế
sử dụng thuốc hóa học về sau.
-Tùy thuộc loại rau chọn trồng và điều kiện của từng hộ gia đình mà có thời gian phơi
ải đất dài hoặc ngắn nhưng ít nhất thời gian phơi ải phải đạt từ 5 - 7 ngày.
Trồng luân canh, xen canh
Tùy từng mùa vụ mà chúng ta chọn loại rau trồng cho thích hợp. Để hạn chế sâu
bệnh, trước khi trồng chúng ta phải chọn giống rau có nguồn gốc rõ ràng và sạch
bệnh. Áp dụng biện pháp luân canh với cây khác họ, tốt nhất là cây lúa nước.
Tuy nhiên nhiều hộ gia đình không có điều kiện để luân canh, chúng ta có thể trồng
xen canh với cây khác họ cũng có tác dụng làm gián đoạn nguồn thức ăn và sua đuổi
sâu hại. Ví dụ trồng cà chua xen với cây rau thập tự như cải bắp, cải thảo, súp lơ…
vv. Mùi cây cà chua có tác dụng xua đuổi sâu tơ hại trên cây rau thập tự. Chính vì
vậy, giảm được việc dùng thuốc hóa học trên những cây rau họ thập tự này.
Bẫy cây trồng
Ngoài biện pháp luân canh, xen canh, có thể tiến hành bẫy cây trồng để dẫn dụ sâu
hại hoặc sua đuổi sâu hại. Ví dụ, chúng ta có thể trồng cây hoa hướng dương trên
đầu các bờ ruộng rau, để thu hút sâu khoang đến đẻ trứng. Chúng ta phun diệt trừ
chúng trên các cây này dễ hơn rất nhiều trên cây rau.
Trong quá trình chăm sóc rau chúng ta bón phân và tưới nước hợp lý. Tùy thuộc loại
cây và thời gian sinh trưởng mà áp dụng các phương pháp tưới nước khác nhau: tưới
phun lên cây, tưới rãnh, tưới nhỏ giọt, tưới đủ ẩm không đọng nước giúp rau sinh
trưởng phát triển tốt và hạn chế được sâu bệnh hại trên rau.
Khi trồng cây con ra ngoài đồng ruộng, cần trồng cây khỏe mạnh, không bị sâu bệnh
hại, loại bỏ cây yếu, chết.
2.Biện pháp thủ công
Trong quá trình chăm sóc TS. Nhung lưu ý, chúng ta thường xuyên vệ sinh đồng
ruộng; ngắt những lá già, lá bị sâu bệnh, cây bị bệnh và các tàm dư thực vật, thu
gom để vào một khu vực sau đó mang đi tiêu hủy.
Đối với đặc tính của một số sâu, như sâu tơ đẻ trứng và hại mặt dưới của lá, sâu
xanh bướm trắng đẻ trứng và hại ở mặt trên của lá vv Các đối tượng sâu này,
chúng ta cần thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để ngắt bỏ ổ trứng mới nở và giết
nhộng của chúng, hạn chế việc sử dụng thuốc hoá học về sau
Ngắt bỏ sớm các ổ trứng mới nở của sâu hại
Ngoài ra, bà con có thể sử dụng bẫy dính màu vàng hoặc màu xanh để bẫy một số
con trưởng thành có cánh như rệp, ruồi đục lá, đục quả, bọ nhảy…hại nhiều loại cây
trồng. Những loại bẫy này chi phí thấp, có thể tận dụng các vật liệu tái chế sẵn có để
làm bẫy.
Bẫy nên đặt ở độ cao 40 – 60 cm tính từ bệ cây là thích họp nhất.
Bẫy dính vàng
3. Biện pháp sinh học
Biện pháp sinh học phòng trừ sâu bệnh hại rau là lợi dụng các thiên địch để tiêu diệt
sâu hại trên đồng ruộng.
Bảo vệ thiên địch của sâu hại rau: các loài bọ rua ăn rệp ăn sâu hại; các loài ong ký
sinh trứng, sâu non, nhộng của sâu hại; các loài kiến, nhện…ăn sâu hại; các loài nấm
đối kháng: Trichoderma, Beauveria Để bảo vệ được các loài có ích này, không nên
sử dụng sử dụng thuốc hóa học.
Bên cạnh đó, bà con có thể sử dụng bẫy freromol treo trên ruộng rau để thu hút con
trưởng thành cái đến các bẫy mà không giao phối được, không đẻ được trứng và
không hình thành được sâu.
Feromol là hợp chất hóa học có hoạt tính sinh học rất cao, đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động sinh sản của các loài sâu hại. Bẫy feromol đặc biệt có hiệu quả đối
với các loại sâu hại không thể phát hiện sớm bằng phương pháp thông thường, như
sâu khoang, sâu xanh bướm trắng, sâu tơ, sâu keo da láng trên các loại rau, hoa,
đậu, lạc, nho, bông
Đặt bẫy feromol
Cách đặt bẫy feromol: Sử dụng lọ nhựa hoặc bát nhựa đã dùng một lần, có đường
kính 18-22cm, buộc mồi vào dây thép theo kiểu quang treo, sau đó đổ nước 1/3 thể
tích bát có pha thêm một ít xà phòng, xà phòng có tác dụng khi bướm bay vào bẫy,
rơi xuống nước, sẽ bị bịt lỗ thở lại và chết rất nhanh.
Tùy từng loại rau mà chúng ta treo bẫy khác nhau. Đối với loại cây thấp như su hào,
bắp cải, hành đặt bẫy ở vị trí cao hơn bề mặt tán cây trên ruộng chừng 20- 30cm.
Đối với cây trồng như đậu leo, cà chua, dưa chuột thì treo bẫy ở vị trí sát mặt giàn
cây để tạo thuận lợi cho feromol lan tỏa rộng
Cách đặt bẫy feromol cho các cây leo
Các loại mồi feromol có hiệu quả hấp dẫn sâu hại trong thời gian ít nhất là 21-24
ngày, tùy theo điều kiện thời tiết và theo từng vừng thì thay bả, tốt nhất thay mồi
feromol mới theo định kỳ 20 ngày kể từ ngày sử dụng.
Chú ý đặt bẫy liên tục từ khi trồng đến khi thu hoạch sản phẩm. Ngoài ra hàng ngày
bà con thường xuyên kiển tra các bẫy để vớt những con bướm đã chết và bổ sung
thêm nước xà phòng khi cần thiết.
4. Biện pháp hóa học:
Trước khi sử dụng thuốc hóa học để phòng trừ sâu bệnh, TS Nhung nhấn mạnh nhiều
lần cần thường xuyên điều tra ruộng, để phát hiện sâu bệnh vượt qua ngưỡng gây
hại kinh tế mà 3 biện pháp trên không điều hòa được, thì lúc đó chúng ta mới nên sử
dụng thuốc phun, ưu tiên các loại thuốc sinh học, thuốc thảo mộc trước, nếu vẫn
không diệu trừ được sâu bệnh thì mới sử dụng thuốc hóa học để phun.
- Cách điều tra sâu:
Tùy thuộc vào từng loại sâu bệnh mà chúng có cách điều tra khác nhau. Để biết được
diễn biến mật độ sâu hại trên đồng ruộng, chúng ta điều tra theo định kỳ 5 - 7 ngày
một lần, điều tra theo phương pháp 5 điểm chéo góc. Khi mật độ sâu hại trên cây từ
10% là chúng ta tiến hành phun thuốc.
Tiến hành điều tra sâu bệnh theo định kỳ 5-7 ngày/ 1 lần
Để phòng trị sâu xanh bướm trắng và sâu tơ chúng ta có thể sử dụng thuốc Elincol
12 ME; V-Bt; Proclaim, Xentari 35WDG, Pegasus 500SC, Amate 150EC….pha theo
nồng độ khuyến cáo của nhà sản xuất.
Đối với loại sâu kháng thuốc nhanh như sâu tơ, sâu xanh nhện đỏ, cần sử dụng luân
phiên các loại thuốc, thuốc có hiệu quả chúng ta không được sử dụng quá 2 lần.
Để đảm bảo an toàn, trước khi phun, cần kiểm tra dụng cụ phun, dụng cụ đo lường
nếu cần thiết. Đầu tiên, đổ 1/3 nước vào bình, mở nắp thuốc cần pha cho vào bình.
Sau đó, tiến hành lắc bình phun, sao cho thuốc tan hết, đổ tiếp lượng nước đến vạch
quy định, đậy nắp lại và tiến hành phun. Khi phun thuốc, cần phải phun theo nguyên
tắc 4 đúng đó là: đúng thuốc, đúng nồng độ, đúng lúc và đúng cách.
- Cách điều tra bệnh:
Trước khi dùng thuốc hóa học phun phòng trị bệnh, TS. Nhung lưu ý cần phải điều
tra mức độ bệnh hại, sau đó mới tiến hành phun. Khi điều tra số là trên cây bị mắc
bệnh từ 5-10 % thì chúng ta mới tiến hành dùng thuốc để phun phòng trừ.
Khi cây bắt đầu bị bệnh chúng ta quan sát bằng các mắc thường gần như không phát
hiện được. Chủ yếu chúng ta dựa vào sự biến đổi màu sắc lá trên cây rau để nhận
biết vết bệnh. Đại đa số ban đầu các vết bệnh thường là các chấm nhỏ màu vàng
hoặc nâu nhỏ, sau một thời gian các chấm hoặc vết bệnh lan dần to ra. Do vậy, bà
con cần phải kiểm tra thường xuyên theo định kỳ 7 ngày một lần ở 5 điểm chéo góc
trên đồng ruộng, để phát hiện bệnh sớm và đưa ra biện pháp phòng trị kịp.
Khi sử dụng thuốc hóa học để phun trên rau, chúng ta cần tuân thủ thời gian cách lý
đối với từng loại thuốc để đảm bảo an toàn an toàn vệ sinh thực phẩm, khi mang đến
tay người tiêu dùng.
Phương Huyền Theo
vtc16.vn
WED: o/en/node/16708
Nội dung
Sản xuất nông nghiệp và tổn thất do dịch hại
Những yếu tố gây tổn thất trong nông nghiệp
Kiểm soát dịch hại
Kiểm soát tự nhiên
Kiểm soát tác động
Quản lý dịch hại tổng hợp
Định nghĩa quản lý dịch hại như thế nào?
Quản lý dịch hại tổng hợp là gì?
Ngưỡng kinh tế và mức thiệt hại
Quản lý dịch hại tổng hợp ở các nước nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới
Thành phần của quản lý dịch hại tổng hợp
Quy trình phòng trừ ngăn ngừa
Kiểm soát canh tác
Cây ký chủ kháng dịch hại
Kiểm soát sinh học: công cụ và phương pháp
Công nghệ sinh học
Kiểm soát hoá học
Chính sách quản lý dịch hại tổng hợp
Tài liệu tham khảo
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ TỔN THẤT DO DỊCH HẠI
Cây trồng cung cấp nguồn dinh dưỡng chủ yếu cho người, động vật và những cơ thể sống
khác. Nguồn dinh dưỡng là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển xã hội và kinh tế của
cộng đồng, vì vậy bất cứ tác động nào gây ra sự thiệt hại cho nguồn dinh dưỡng đều là
không mong muốn. Trong thế kỷ 20 sản xuất thức ăn đã tăng trưởng đáng kể tính theo
đầu người mặc dù dân số thế giới bùng nổ. Nhưng con số tăng trưởng rất khác nhau giữa
các châu lục và các quốc gia. Từ năm 1940 sản xuất nông nghiệp của nước Mỹ tăng 3 lần
mặc dù diện tích canh tác giảm 20%. Ở Châu Phi và Trung Phi sản xuất nông nghiệp
giảm xuống. Các nước đang phát triển chỉ cung cấp khoảng 30% lượng lương thực trong
khi dân số nhiều hơn một nửa dân số thế giới và thu nhập từ nông nghiệp là trên 70%.
Khoảng 34% dân số của các nước phát đang triển chịu thiếu đói, vào năm 1985 tỷ lệ
người suy dinh dưỡng trên người mạnh khoẻ là 1:3 tại Châu Phi, 1:5 tại Đông Á, 1:7 tại
Mỹ La tinh. Tình trạng tồi tệ hơn đối với trẻ em, mỗi tuần khoảng 250 nghìn trẻ em bị
chết vì bệnh tật và suy dinh dưỡng. Khi sản xuất lương thực ở các nước Châu Á và vùng
Thái Bình Dương có vẻ chững lại thì dân số tăng lên 2 lần từ 1980 đến 2000.
Có thể tăng sản xuất lương thực bằng cách tăng diện tích canh tác, tăng canh và đa dạng
cây trồng. Tuy nhiên tăng canh và những thay đổi về công nghệ trồng trọt có thể song
hành với tình trạng dịch hại tồi tệ hơn. Những tính toán gần đây cho thấy tổn thất gây ra
do dịch hại và cỏ dại khoảng 300 tỷ USD hàng năm, tương đương với khoảng 30% lượng
thực phẩm, sợi và thức ăn gia súc trên toàn thế giới. Riêng tổn thất về ngũ cốc hàng năm
là lớn hơn lượng ngũ cốc làm lương thực của các nước đang phát triển. Dịch hại không
chỉ gây ra tổn thất về số lượng nông sản mà còn là suy giảm chất lượng như làm hỏng
mùi vị lương thực, sức bền của sợi, cách thức sơ chế nông sản và sự nảy mầm của hạt.
Thực chất, sự phát triển của sản xuất nông nghiệp chỉ có ý nghĩa khi việc mở rộng và
tăng canh sản xuất nông nghiệp tiến hành đồng thời với hệ thống bảo vệ cây trồng và
quản lý dịch hại tổng hợp trên nền móng quản lý quốc gia về bảo vệ thực vật tốt, dịch vụ
tốt và hành lang pháp lý tốt.
Quần thể động thực vật của các nước nhiệt đới thường có số lượng loài lớn hơn vùng ôn
đới và vùng khô cằn, nhưng số lượng dịch hại gây ra cho người, động vật và nông nghiệp
cũng cao hơn và tổn thất cũng lớn hơn. Thí dụ lượng côn trùng chính hại lúa ở Châu Á là
khoảng 40, ở vùng ôn đới là 12. Lượng bệnh cây ở vùng nhiệt đới là 500, và ở vùng ôn
đới là 54. Do nhiệt độ và độ ẩm cao, thức ăn và nơi cư trú sẵn có quanh năm, nên số
lượng và thế hệ dịch hại tại các nước nhiệt đới nhiều hơn.
Những nơi có năng suất cây trồng cao thường nằm ngoài vùng chuyên canh cây trồng.
Năng suất ở vùng chuyên canh thấp hơn là do áp lực về dịch hại và cỏ dại lớn hơn, cũng
như do dịch hại kháng thuốc nhiều hơn.
Bảng 1.2: Sản lượng một của một vài loại cây trồng trong và ngoài vùng chuyên
canh (tấn/ha)
Cây trồng Vị trí Trong vùng chuyên canh Ngoài vùng chuyên canh
Đậu đũa Châu phi 0.20 0.70
Lúa mạch Tây Á 1.33 2.05
Ngô Trung Mỹ 1.22 3.02
Lúa Nam Á 1.85 3.31
Đỗ tương Trung Quốc 0.87 1.67
Kê Đông-Bắc phi 0.70 1.33
NHỮNG YẾU TỐ GÂY TỔN THẤT TRONG NÔNG NGHIỆP
Có 2 yếu tố gây hại cho nông nghiệp, rừng và môi trường nói chung là yếu tố sinh vật và
yếu tố phi sinh vật.
Những yếu tố phi sinh vật là những điều kiện môi trường bất lợi cho sản xuất cây trồng
như hạn hán, nhiệt độ cao thấp bất thường, đất cằn và ô nhiễm môi trường. Các biện pháp
tưới tiêu, bón phân cho cây trồng và đất, vấn đề ô nhiễm được xếp vào nhóm kỹ thuật
canh tác chứ không phải nhóm bảo vệ thực vật nhưng nhóm kỹ thuật canh tác lại ảnh
hưởng tới sự phát triển của cỏ, sâu và bệnh nên cần phối hợp thực hành nông nghiệp tốt
với bảo vệ thực vật và một chiến lược để phòng chống thiệt hại cho cây trồng ngoài cánh
đồng.
Những yếu tố sinh học gây hại được phân thành nhóm động vật và nhóm vi sinh vật.
Động vật gây hại cây trồng hoặc nông sản bằng đường miệng gây ra tổn thất về khối
lượng và chất lượng nông sản. Động vật gây hại có thể phân tán qua đất hoặc những vật
khác. Động vật gây hại bao gồm côn trùng, nhện, tuyến trùng, ốc, chim, chuột đôi khi cả
thỏ, lợn lòi. Những động vật tập trung cao điểm trong điều kiện phổ biến tại một giai
đoạn sinh trưởng của cây trồng và gây hại đáng kể gọi là dịch hại chính. Động vật khác
xuất hiện không thường xuyên, cục bộ và gây hại rời rạc được coi là dịch hại không
thường xuyên. Những loại dịch hại này cũng được gọi là dịch hại địa phương, là những
loại luôn tồn tại nhưng gây hại ít và quần thể của chúng thường xuyên được kiểm soát bởi
thiên địch và những yếu tố môi trường. Dịch hại xuất hiện bởi thao tác đặc biệt nào đó
như việc phun thuốc trừ sâu phổ rộng, tồn lưu lâu, giết thiên địch của nó, được gọi là dịch
hại thứ cấp, hoặc dịch hại tiềm năng.
Vi sinh vật gây hại cho cây chủ bằng cách thâm nhập và thiết lập mối quan hệ nhất thời
hoặc vĩnh viễn với cây chủ. Chúng làm gián đoạn quá trình phát triển sinh lý bình thường
của cây, thí dụ làm tắc mạch tế bào, làm biến dạng sự phát triển bình thường của tế bào
hoặc giết chết tế bào. Cây trồng bị gây hại như vậy thường chứa những cơ thể ký chủ
hoặc virut; người ta nói cây mắc bệnh chỉ khi triệu chứng nhiễm độc trở lên rõ ràng. Cơ
thể thực vật gây ra bệnh cây được gọi là nguồn bệnh bao gồm nấm, vi khuẩn, siêu vi
khuẩn và virut. Thuật ngữ dịch hại cục bộ, dịch hại chính hoặc dịch hại thứ cấp chỉ ra vị
trí, tần xuất và mức độ thiệt hại không chỉ áp dụng cho dịch hại động vật mà còn áp dụng
cho bệnh cây.
Cỏ là cơ thể thực vật độc. Đó là thực vật bậc cao không mong muốn vì nó xuất hiện tại vị
trí và thời gian làm ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng của cây trồng, hoặc đơn giản là
loại thực vật không cần thiết. Nó không chỉ cạnh tranh về ánh sáng, chất dinh dưỡng, độ
ẩm đất với cây trồng mà nó còn là cây chủ cho các dịch hại và bệnh cây ẩn náu, ảnh
hưởng tới cây trồng và xử lý nông sản, ngăn cản kênh tưới tiêu, ô nhiễm hạt nông sản và
ảnh hưởng tới mùi vị của nông sản khô.
KIỂM SOÁT DỊCH HẠI
Kiểm soát dịch hại là một yếu tố của hoạt động bảo vệ thực vật. Bảo vệ thực vật hướng
tới việc ngăn chặn và hạn chế sự thiệt hại và tổn thất do dịch hại gây ra trong nông
nghiệp, vườn tược và rừng. Khoa học bảo vệ thực vật là việc nghiên cứu các yếu tố nguy
hại cho cây trồng và cách thức bảo vệ cây trồng trước và sau thu hoạch.
Kiểm soát tự nhiên
Nhiều loại dịch hại có khả năng sinh sôi tràn ngập thế giới nếu nó không được kiểm soát
bằng những cơ chế tự nhiên không có sự can thiệp của con người.
Kiểm soát tự nhiên là tác động tổng hợp của các yếu tố tự nhiên (sinh học và vật lý), để
duy trì lượng quần thể dịch hại trong ngưỡng tối đa và tối thiểu, trong một giai đoạn nhất
định. Yếu tố quan trọng của kiểm soát tự nhiên là khí hậu, thiên địch, nguồn thức ăn,
không gian và áp lực tiến hoá. Thiên địch gồm những động vật ăn thịt cao cấp như chim,
chuột, những loại ăn thịt hoặc ký sinh trên côn trùng, nhện, tuyến trùng và những cơ thể
gây hại như nấm, vi khuẩn, sinh vật đơn bào và virut.
Côn trùng ăn cây và nhện thường sống và ăn cây suốt vòng đời của chúng. Sự phát triển
và mật độ quần thể được hạn chế bởi cơ chế kiểm soát rất phức tạp trong đó thiên địch
đóng vai trò quan trọng. Thiên địch bao gồm nhiều loài động vật ăn thịt hoặc ký sinh
cũng như các loại vi khuẩn và virut truyền bệnh. Thiên địch có một yếu tố chung là chúng
sử dụng cơ thể dịch hại làm nguồn thức ăn hoặc gây hại cho dịch hại.
Ở điều kiện vật lý thuận tiện như ở môi trường nhiệt đới ẩm, cây lưu niên thì cả dịch hại
và thiên địch thường sinh sản quanh năm. Các thế hệ có thể chồng chéo và có mặt đồng
thời dễ dàng tại mọi giai đoạn sinh trưởng (trứng, ấu trùng, nhộng và trưởng thành hoặc
bào tử, sợi nấm, quả thể). Mặc dù mật độ quần thể của dịch hại và thiên địch thay đổi
theo thời gian, tỷ lệ giữa chúng vẫn cân bằng để thiên địch hạn chế dịch hại. Nhưng nếu
thiên địch bị mất kiểm soát nhất thời thì quần thể dịch hại cục bộ và dịch hại thứ cấp có
thể phát triển rất nhanh, đặc biệt với những chủng có tốc độ sinh sản cao.
Kiểm soát tác động
Kiểm soát tác động bao gồm một dãy các hoạt động do con người triển khai, rất cần thiết
khi mất kiểm soát tự nhiên. Phương pháp canh tác truyền thống có thể được sử dụng để
làm cho môi trường kém thích ứng với sự sinh sản và phát triển của một số loài côn
trùng. Những thao tác này bao gồm làm đất, làm cỏ, dọn tàn dư cây trồng, tuân thủ thời
gian mùa vụ, tạo đủ khoảng cách cây trồng, điều tiết nước, luân canh, để ải và sử dụng
giống kháng. Canh tác truyền thống sử dụng những giống bản địa có tính kháng cao hoặc
giống địa phương có thời gian ngắn hơn hoặc dài hơn có thể cho sản lượng chấp nhận
được khi trời ít mưa hoặc mưa muộn. Những phương pháp canh tác đó gần như biến mất
và những kinh nghiệm canh nông thường bị bỏ qua khi những phương pháp hiện đại
được đưa vào và thuốc bảo vệ thực vật hoá học được chào đón. Điều đó gây ra cả một
vấn đề về sự tái phát dịch hại, bùng phát dịch hại thứ cấp và tính kháng của dịch hại, làm
giảm năng suất cây trồng và gây thiệt hại cho người và môi trường, đặc biệt là ở những
nơi canh tác tập trung với giống năng suất cao không kháng và sử dụng nhiều hoá chất.
Thuốc bảo vệ thực vật đã phá vỡ cân bằng tự nhiên thiết lập được sau một quá trình lâu
dài. Côn trùng phá hoại cây thường còn lại ngay gần cây trồng và là đối tượng đầu tiên
phải diệt trừ. Thiên địch xung quanh cây chủ có thể bị ngộ độc bởi ăn phải sâu nhiễm độc
hoặc tiếp xúc với bề mặt nhiễm thuốc. Thuốc trừ sâu phổ rộng hoặc tồn lưu lâu cũng như
việc sử dụng thuốc lặp đi lặp lại là những yếu tố ảnh hưởng tới thiên địch, gây mất cân
bằng tự nhiên tạo được sau thời gian dài. Khi sâu hồi phục nhanh chóng do trứng sâu
không bị phá huỷ hoặc khả năng sinh sản cao thì thiên địch không có đủ để trừ sâu, gây
ra bùng nổ quần thể sâu. Hiện tượng sâu hại bùng nổ do thuốc trừ sâu sử dụng lặp lại gọi
là sự hồi sinh của sâu. Thường sự cân bằng tự nhiên sẽ được hồi phục sau vài thế hệ. Nếu
sử dụng thuốc lặp lại liên tục thì thiên địch có thể không hồi phục và những loại sâu thứ
cấp như bướm trắng trên bông hoặc rầy nâu sẽ phát triển thành đối tượng chính thường
xuyên.
Hiện nay, sự bùng phát dịch hại thường xuyên và lượng mất mùa lớn làm cho ngành nông
nghiệp quốc tế phải nghĩ lại về chiến lược phòng trừ sâu bệnh và phải làm giảm việc sử
dụng thuốc trừ sâu hoá học đã tiêu diệt thiên địch cùng với sâu hại. Cần khôi phục lại nền
nông nghiệp truyền thống, phát triển những phương pháp phòng trừ ít gây hại và áp dụng
các yếu tố phòng trừ sinh học. Tất cả điều đó dẫn tới cách tiếp cận tổng hợp trong đó các
nhà khoa học thuộc khối nhà nước và tư nhân nên hợp tác với nhau ở mức độ toàn cầu để
tìm cách quản lý dịch hại về lâu dài chứ không phải sử dụng hoá chất trước mắt và giải
quyết ngắn hạn.
QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP
Định nghĩa quản lý dịch hại tổng hợp
Quản lý dịch hại tổng hợp (Integrated Pest Management - IPM) được nhóm chuyên gia
định nghĩa là: hệ thống quản lý quần thể dịch hại trong môi trường động, sử dụng tất cả
các kỹ thuật, phương pháp, cách thức phù hợp, để duy trì quần thể dịch hại dưới ngưỡng
thiệt hại về kinh tế.
Theo định nghĩa này thì thuật ngữ “dịch hại” là toàn thể những cơ thể gây thiệt hại cho
mùa màng bằng hoạt động trực tiếp (như ăn) hoặc gián tiếp (như cạnh tranh).
Ý nghĩa về ngưỡng thiệt hại của cỏ dại chưa được nhận biết như ngưỡng thiệt hại của sâu
bệnh, mặc dù việc kiểm soát cỏ dại có thể chiếm tới 50% sức lao động của nhà nông. Vì
vậy việc quản lý cỏ dại tổng hợp (Integrated Weed Managament - IWM) có thể được tách
riêng.
Hai khái niệm quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và quản lý cỏ dại tổng hợp (IWM) là
thành phần của hệ thống quản lý cây trồng tổng hợp (Integrated Crop Management -
ICM). Hệ thống này (ICM) chỉ ra dãy thứ tự các hoạt động cần thiết để trồng cây hiệu
quả với năng suất chấp nhận được. Các hoạt động canh tác như làm đất, tưới nước, bón
phân để đạt được mùa màng tối đa cũng được coi là điều kiện môi trường. Những biện
pháp bảo vệ hoặc kiểm soát như phun thuốc bảo vệ thực vật, loại bỏ cây quả nhiễm bệnh
tuy không làm tăng sản lượng cây trồng nhưng nó ngăn ngừa thiệt hại về sản lượng và
chất lượng nông sản trước và sau khi thu hoạch.
Điều phải cân nhắc về canh tác nông nghiệp tập trung là việc sử dụng nhiều phân bón và
thuốc bảo vệ thực vật có thể tăng sản lượng nông sản nhưng lại làm giảm giá trị thị
trường của hàng hoá, dẫn đến giảm lợi ích của nông dân thì nông dân cũng không quan
tâm.
Quản lý dịch hại tổng hợp có nghĩa gì?
Mặc dù nên có định nghĩa về thuật ngữ quản lý dịch hại tổng hợp, nhưng dường như có
rất nhiều ý thường bị hiểu theo chủ quan người sử dụng. Thuật ngữ này đồng thời được
sử dụng để biện minh cho chương trình kiểm soát dịch hại bằng hoá chất, cũng như được
dùng để chỉ việc sản xuất rau quả hữu cơ không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Phòng trừ dịch hại tổng hợp lý tưởng là hệ thống bảo vệ thực vật có tính kinh tế và tính
bền vững, là tổ hợp của các phương pháp canh tác, sinh học, giống, và kiểm soát bằng
hoá chất để tạo ra sản lượng tối đa với tác động tối thiểu lên môi trường.
Không nên hiểu phòng trừ dịch hại tổng hợp chỉ là chương trình phun thuốc phức tạp, vì
trong nhiều trường hợp việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có giới hạn vẫn là cần thiết.
Sự hiểu đó có thể là sai lầm vì nó không chỉ ra được rằng cái chết tự nhiên của dịch hại là
yếu tố quan trọng nhất, rẻ nhất để tránh bùng phát dịch hại. Chương trình kiểm soát dịch
hại tổng hợp (Integrated Pest Control - IPC) hướng tới việc tạo ra điều kiện tối ưu để
kiểm soát cái chết tự nhiên của dịch hại trong đó thiên địch đóng vai trò quan trọng. Việc
lựa chọn và hạn chế sử dụng thuốc trừ dịch hại là cần thiết để tránh tác động không có
lợi.
Ngưỡng kinh tế và mức thiệt hại
Về cơ bản, việc kiểm soát dịch hại tổng hợp (IPC) đưa ra nhận thức rằng cơ thể gây hại
không bao giờ và không thể tiêu diệt được hoàn toàn, mà chỉ có thể giảm thiểu đến
ngưỡng kinh tế, riêng biệt đối với mỗi loài dịch hại, và phải đánh giá mức độ cho phép
của một quần thể dịch hại dưới ngưỡng cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để ngăn ngừa
mất mùa.
Nhiều định nghĩa được đề xuất đề mô tả khái niệm ngưỡng kinh tế. Đơn giản có thể coi
đó là quy trình kiểm soát dịch hại đáng làm khi giá thành của nó tương đương với lợi ích
tương lai. Viện nghiên cứu lúa quốc tế (International Rice Research Institute - IRRI) đưa
ra định nghĩa như sau:
1. Ngưỡng thiệt hại kinh tế (Economic injury level - ElL): quần thể dịch hại đủ lớn để
gây ra giá trị thiệt hại cao hơn giá trị kiểm soát
2. Ngưỡng kinh tế (Economic threshold - ET): quần thể dịch hại tại đó nên có biện pháp
kiểm soát để ngăn chặn lượng dịch hại chạm tới ngưỡng thiệt hại kinh tế.
Như vậy trên ngưỡng kinh tế là ngưỡng thiệt hại kinh tế và dưới ngưỡng đó thì không cần
kiểm soát. Lưu ý rằng ngưỡng của bất kể loại dịch hại nào được thể hiện bằng đơn vị %
của cây trồng bị phá hoại hoặc mật độ quần thể dịch hại, thí dụ số sâu đục thân trên ruộng
lúa, hoặc số đốm bệnh đạo ôn lá trên lá lúa
Ngưỡng kinh tế phụ thuộc vào giống và tuổi của cây trồng, vị trí, lượng thiệt hại trước
đó, sự phá hoại đồng thời của dịch hại khác và phụ thuộc vào thực tiễn canh tác như mật
độ cây trồng, mức bón phân và tưới tiêu. Những yếu tố khác như giá thị trường của nông
sản, giá thuốc bảo vệ thực vật, lợi nhuận của cây trồng thay thế, tác động tới sức khoẻ, xã
hội và môi trường cũng phải được tính tới. Trong thực tế chỉ một số nhỏ trong các yếu tố
ở trên được tính toán cho việc đánh giá ngưỡng kinh tế.
Một số chuyên gia IRRI cho rằng sử dụng giá trị ngưỡng kinh tế đối với một loại sâu hại
riêng rẽ ngoài cánh đồng là không thực tế, vì ngưỡng này chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố
khác nhau như đã nói và có thể biến động sau khi dự báo. Vì vậy, họ khuyến cáo sử dụng
ngưỡng hoạt động (action thresholds -ATC) thay cho ngưỡng kinh tế. Ngưỡng hoạt động
này được xác định bằng kinh nghiệm từ cách đánh giá theo phương pháp “thử và sai”
(trial and error verification) trên cánh đồng của nông dân. Bằng cách đó giá trị ngưỡng
hoạt động ATC đã được xác định cho 4 loại côn trùng cơ bản trên lúa và được coi là phù
hợp với ngưỡng thực tế mà nông dân tự đánh giá. Nông dân có thói quen kiểm soát sự
xuất hiện sâu hại trên đồng ruộng khi họ làm việc hoặc khi thăm đồng. Họ quan sát sâu
bướm, côn trùng chích hút, ổ trứng và dấu hiệu thiệt hại thay đổi theo thời gian và họ
quyết định việc xử lý thuốc theo kinh nghiệm và thông tin có được.
Khái niệm ngưỡng kinh tế không nên chỉ bó hẹp trong việc đánh giá sự cần thiết sử dụng
phương pháp hoá học như thường được đề xuất. Nó cũng cần phải cân nhắc về phương
pháp phòng trừ dịch hại kể cả biện pháp sinh học, canh tác, sử dụng giống kháng và
những phương pháp khác có tính bền vững. Trong từng trường hợp đều phải cân nhắc giá
thành của một hoạt động so với giá thành thiệt hại nông sản. Phòng trừ dịch hại tổng hợp
là cách kiểm soát dịch hại rẻ nhất về trung hạn và dài hạn. Nó không phải là trường hợp
ngắn hạn, là sự lựa chọn trực tiếp chi phí phòng trừ và giá trị thiệt hại phải chấp nhận. Đó
là giá thành tổng số của những thành phần phòng trừ mà tự nó có thể không phải là biện
pháp rẻ nhất ngay lập tức nhưng là quá trình bồi đắp để tạo ra chiến lược tổng thể có giá
thành rẻ nhất. Thí dụ người ta thấy rằng việc thu hoạch hạt coca thường xuyên và hoàn
toàn là cách kiểm soát sâu hại quả coca hiệu quả và kinh tế mặc dù giá thành của một tấn
hạt sẽ tăng dần. Nhưng giá hạt coca tăng dần ngoài thị trường sẽ trang trải được giá thu
hoạch. Làm việc với ngưỡng kinh tế đòi hỏi có hệ thống dự báo về sự có mặt của dịch hại
trên đồng ruộng và dự báo về sự phát triển quần thể dịch hại, cũng như nhận biết về sự có
mặt và sự phát triển của quần thể thiên địch. Thường thì các viện bảo vệ thực vật quốc
gia (đôi khi kết hợp với các tổ chức quốc tế) xác định ngưỡng kinh tế cho các loại cây
trồng chính và phổ biến cho nông dân.
Quản lý dịch hại tổng hợp ở các nước nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới
Thực hành quản lý dịch hại tổng hợp ở vùng nhiệt đới có những thuận lợi sau:
* Nhiệt độ và điều kiện môi trường ở vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới cho phép cả dịch
hại và thiên địch phát triển quanh năm vì vậy có thể điều chỉnh cơ chế sinh học tối ưu.
* Hệ sinh thái nông nghiệp chỉ mới bị ảnh hưởng bởi thuốc bảo vệ thực vật và vì vậy có
thể phát triển hệ thống phòng trừ dịch hại tổng hợp mà không cần phải đào tạo lại nông
dân
* Nếu sản xuất nông nghiệp chỉ để tự cung cấp thì nông dân thường ít quan tâm tới việc
sử dụng nhiều thuốc, nhưng nếu chuyển sang sản xuất hàng hoá thì sẽ dẫn tới việc sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật dư thừa.
* Với vùng mới khai phá cho sản xuất nông nghiệp, có thể áp dụng ngay biện pháp quản
lý dịch hại tổng hợp và cấm sử dụng kiểm soát hóa chất không cần thiết.
Đa số nông dân ở các nước đang phát triển canh tác với diện tích dưới một hecta ruộng
đất và nhiều người không có tiềm lực sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học, nhưng vẫn
cần bảo vệ thực vật và an ninh lương thực. Thế nên nông nghiệp nhỏ trở thành mục tiêu
phát triển của chương trình kiểm soát dịch hại tổng hợp bền vững. Kỹ thuật kiểm soát
dịch hại tổng hợp và vấn đề đào tạo cho nông dân là rất cần thiết nhưng nhược điểm phải
đối mặt là người cung cấp thông tin kỹ thuật và người kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật
lại thường là một.
THÀNH PHẦN CỦA QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP
Để kiểm soát sâu hại, bệnh cây và cỏ dại cần biết rõ đặc điểm của đối tượng phòng trừ và
hệ thống canh tác. Môi trường canh tác không chỉ bao gồm loại cây trồng, phương pháp
canh tác mà còn cần tính tới tình trạng phát triển nền nông nghiệp, sự hiểu biết và nguồn
lực của nông dân, mối tương quan giữa giá thành và lợi nhuận của phương pháp kiểm
soát dịch hại sẵn có. Một số quy trình kiểm soát mang tính phòng ngừa, số khác mang
tính chữa trị. Vì vậy cần hiểu rõ ưu thế và nhược điểm của tất cả các thành phần được đưa
vào phòng trừ tổng hợp để có sự lựa chọn phù hợp.
Quy trình phòng trừ ngăn ngừa
Biện pháp phòng ngừa nhằm loại bỏ sự xuất hiện của dịch hại mới hoặc hạn chế số lượng
của dịch hại chính ở mức không gây hại.
* Kiểm dịch và kiểm soát định kỳ
Sự phát triển dịch hại từ nguồn dịch thường liên quan tới sự di chuyển của người, hàng
hoá và thiết bị nhiễm bệnh. Việc kiểm dịch và luật sở tại cấm nuôi trồng động thực vật
hoặc trực tiếp gây hại hoặc là môi trường ký chủ của dịch hại sẽ giải quyết vấn đề này.
* Giống sạch dịch hại
Sử dụng giống sạch bệnh là biện pháp quan trọng khi kiểm soát hoá học không đạt hiệu
quả hoặc quá đắt đối với những cây trồng có giá trị thấp bị mắc bệnh gây ra do virus hay
vi khuẩn. Việc khử trùng giống bằng thuốc trừ nấm, thuốc xông hơi, nước nóng, tia
phóng xạ có thể diệt được nấm và tuyến trùng bên ngoài hoặc đôi khi bên trong hạt
giống. Việc loại hạt cỏ dại khỏi hạt giống cũng rất quan trọng. Cơ quan quản lý bảo vệ
thực vật ở các nước đang phát triển nên chú trọng tới nhu cầu và khả năng sản xuất hạt
giống và cây giống khoẻ mạnh, sạch sâu bệnh có chứng chỉ công nhận.
Kiểm soát canh tác
Kiểm soát canh tác nhằm thay đổi môi trường canh tác, hạn chế điều kiện phát triển của
dịch hại và tạo điều kiện nâng cao sản lượng cây trồng. Một số mô hình canh tác truyền
thống rất hiệu quả trong việc hạn chế nguồn gây bệnh đang được đánh giá lại trong
chương trình phòng trừ tổng hợp
* Luân canh
Phương pháp canh tác truyền thống là trồng xen canh trên cùng một cánh đồng quanh
năm hoặc để ải một giai đoạn nhất định. Nguyên tắc của việc luân canh là can thiệp vào
việc phá vỡ mối tương quan đặc thù giữa dịch hại và cây ký chủ, phá vỡ sự tích luỹ số
lượng của quần thể dịch hại. Nông nghiệp hiện đại trên cơ sở độc canh và đầu tư cao sẽ
trở lên khó khăn khi phải luân canh.
* Vệ sinh đồng ruộng
Vệ sinh đồng ruộng là loại bỏ và phá huỷ những cây nhiễm bệnh và nguồn lây nhiễm
khác, dọn dẹp và chôn vùi những tàn dư thực vật để có thể loại bỏ nhiều nguồn ấu trùng,
trứng và mầm bệnh. Có thể cũng phải loại bỏ một số loại cây có nguy cơ là nguồn lan
nhiễm dịch hại cho những loại cây quan trọng. Việc vệ sinh công cụ lao động cũng là
cách tránh lây nhiễm dịch bệnh.
* Kỹ thuật canh tác
Cần có kỹ thuật canh tác thích hợp để tạo ra cây trồng mạnh khoẻ và hạn chế thiệt hại gây
ra bởi các yếu tố sinh học và không sinh học. Những kỹ thuật canh tác bao gồm: tưới tiêu,
làm đất, bón phân, làm cỏ, tuân thủ mùa vụ, mật độ cây trồng.
* Xen canh
Việc trồng vài loại cây trên cùng một thửa ruộng có hiệu quả ở các nước nhiệt đới vì đất,
nước, không gian, chất nuôi dưỡng được sử dụng tối ưu. Ở đây, sự thiệt hại do dịch hại
gây ra thường thấp hơn ở những nơi sử dụng thuốc trừ sâu can thiệp vào thiên địch. Nguy
cơ giảm năng suất được phân bố đều trên các loại cây trồng khác nhau.
Việc sử dụng cây trồng bắt giữ dịch hại bên cạnh những cây trồng chính cũng giúp bảo
vệ cây trồng chính.
Cây ký chủ kháng dịch hại
Quá trình chọn lọc tự nhiên hàng thế kỷ canh tác đã tạo ra những giống bản địa có tính
kháng với điều kiện môi trường không thuận lợi như hạn, đất mặn, lạnh, dịch hại. Những
giống bản địa có hệ thống gen riêng biệt. Nông dân đặt tên cho giống theo những tính
chất khác nhau như sự thích ứng với đất, thời điểm trồng, thời điểm thu hoạch, giá trị
dinh dưỡng và hương vị. Quan trọng nhất các giống đó là những cơ thể khác nhau về gen
được tạo ra trong sự cân bằng với môi trường, dịch hại và gen. Giống bản địa có năng
suất thấp nhưng đáp ứng được những yêu cầu lựa chọn, kể cả yêu cầu tăng năng suất.
Trước đây những giống năng suất cao được phát triển bởi kỹ thuật trồng trọt hiện đại thay
thế các giống bản địa. Nay giống bản địa được hồi phục do nó có nguồn gen quý kháng
dịch hại và những tính chất khác. Song cây có thể kháng với loại dịch hại này nhưng
không kháng với loài dịch hại thứ cấp được phát triển thành dịch hại chính do quá trình
sử dụng thuốc trừ dịch hại gây ra. Vì vậy cần đảm bảo kỹ thuật sử dụng thuốc.
Cây chủ có tính kháng chung có thể kháng được tất cả các loài dịch hại, nhưng tính
kháng này yếu hơn tính kháng đặc thù. Cây chủ chống chịu mạnh nó có thể mang yếu tố
dịch hại mà không thể hiện triệu chứng gì.
Việc sử dụng giống kháng cao là biện pháp chủ yếu để tránh mất mùa, nhất là trong
trường hợp chưa có thuốc thích hợp trừ dịch hại. Tiếc rằng chưa có các giống kháng cho
bệnh gây ra do virus. Hơn nữa với những loại cây có ý nghĩa kinh tế thấp thì giống kháng
ít được quan tâm.
Nông dân thường không có cơ hội để mua giống tốt vậy nhà nước nên nhân giống và
phân phối hạt giống tốt trong khuôn khổ chương trình quản lý cây trồng tổng hợp.
Kiểm soát sinh học: công cụ và phương pháp
Nguyên tắc của phòng trừ sinh học là dùng cơ thể sống hoặc virus là thiên địch để kiểm
soát dịch hại. Trong hệ thống sinh thái tự nhiên mật độ quần thể của dịch hại được điều
chỉnh trong khoảng số lượng nhất định, trong thời gian nhất định bởi thiên địch là những
ký sinh, sinh vật ăn thịt hoặc vi sinh vật. Khi hệ sinh thái bị can thiệp thì thiên địch có thể
không kiểm soát được dịch hại. Khi có dịch hại mới thì có thể chưa có thiên địch mới để
phòng trừ.
Về lý thuyết có một số cách phòng trừ sinh học:
* Thiên địch đặc thù thường là ký sinh
* Thiên địch không đặc thù thường là động vật ăn thịt
* Phương pháp vô sinh giống đực
* Vi sinh vật dẫn dụ sinh dục
* Thiên địch tự nhiên
Một số loài thiên địch tồn tại tự nhiên nhưng khó phát triển lượng thiên địch. Lượng thiên
địch phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lượng dịch hại làm thức ăn, loại cây trồng, sự sử
dụng thuốc và điều kiện khí hậu.
* Kỹ thuật vô sinh giống đực
Việc thả con đực vô sinh vào cạnh tranh với con đực bình thường sẽ làm giảm sự sinh sản
trong quần thể dịch hại.
* Chế phẩm sinh học trừ dịch hại
Chế phẩm sinh học phòng trừ dịch hại có nguồn gốc tự nhiên hoặc phỏng sinh học khác
với thuốc bảo vệ thực vật thông thường bởi các đặc trưng: cơ chế tác động duy nhất, liều
dùng thấp và tính chọn lọc cao.
Có 2 loại chế phẩm sinh học:
Chế phẩm sinh hoá như hocmon và chất điều hoà sinh trưởng
Chế phẩm vi sinh vật như vi khuẩn, virut và nấm
Chế phẩm sinh hoá
Chế phẩm phòng trừ dịch hại bằng công nghệ sinh học phải đáp ứng hai yêu cầu:
Thuốc tác động theo cơ chế tác động không gây độc trực tiếp cho dịch hại (thí dụ điều
hoà sinh trưởng, làm gián đoạn sinh sản). Thuốc trừ sâu gốc thực vật như nicotin hay
pyrethrum tiêu diệt dịch hại nên không được coi là chế phẩm sinh hoá.
Chế phẩm sinh hoá phải có nguồn gốc tự nhiên hoặc nếu được tổng hợp thì phải có cấu
trúc tương tự hoá chất có trong tự nhiên. Điều đó có nghĩa là cấu trúc phân tử của những
cấu tử chính của chất tổng hợp phải tương tự cấu trúc phân tử của chất tương đương trong
tự nhiên. Sự khác biệt nhỏ về đồng phân không gian có thể chấp nhận được nếu không
gây khác biệt nhiều về độc tính. Nếu cấu trúc tự nhiên của thuốc không xác định được,
hoặc cơ chế tác động của thuốc trên đối tượng dịch hại khác với cơ chế tác động trên đối
tượng không phải dịch hại thì luật của nước sở tại có thể phân loại thuốc đó thuộc dạng
sinh hoá hay thuộc dạng hoá học thông thường.
Chế phẩm vi sinh
Chế phẩm vi sinh dùng làm thuốc bảo vệ thực vật tạo bởi vi sinh vật hoạt động như vi
khuẩn, nấm, sinh vật đơn bào, siêu vi khuẩn, vi rút hoặc vi sinh vật biến đổi gen. Những
mầm bệnh và sinh vật ký sinh này được phân lập và sản xuất làm thuốc bảo vệ thực vật.
Yêu cầu cơ bản để đăng ký sử dụng các chế phẩm này là sản phẩm phải có hiệu lực và
không gây độc cho người sử dụng, người tiêu thụ, thực phẩm và môi trường.
Thuốc trừ sâu vi sinh là những chế phẩm dựa trên nguyên tắc truyền bệnh cho côn trùng
hoặc làm tê liệt côn trùng đến chết. Thuốc trừ sâu vi sinh thường có tính chọn lọc với một
số loài côn trùng, không độc với người, động vật máu nóng và cây.