BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LÂM NGỌC PHƯỢNG
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên
: Lâm Ngọc Phượng
Lớp
: Cao học luật, An Giang Khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Võ Thị Kim Oanh và tơi hồn toàn chịu trách nhiệm
về nội dung của Luận văn này. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kì cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và
đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh.
Vậy tơi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Người Cam Đoan
Lâm Ngọc Phượng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
TAND
: Tịa án nhân dân
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN
TRƯỚC KHI MỞ PHIÊN TÒA CỦA THẨM PHÁN ..........................................5
1.1. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án của
Thẩm phán.............................................................................................................5
1.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án của
Thẩm phán...........................................................................................................11
1.3. Nguyên nhân của những hạn chế đối với việc nghiên cứu hồ sơ vụ án
của Thẩm phán....................................................................................................20
1.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án của Thẩm phán ......................21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................24
CHƯƠNG 2. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN CỦA THẨM
PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA ............................................................................25
2.1. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn đình chỉ vụ án của Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa .......................................................................................25
2.2. Một số vướng mắc, bất cập liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn đình chỉ
vụ án của Thẩm phán .........................................................................................34
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn đình chỉ vụ án của Thẩm phán .....................................38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................40
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thẩm phán là người được Chủ tịch nước bổ nhiệm để nhân danh Nhà nước
thực hiện nhiệm vụ xét xử. Xét xử là giai đoạn quan trọng nhất, đóng vai trị quyết
định của tồn bộ quy trình tố tụng hình sự. Vì xét xử là q trình kiểm sốt và sử
dụng kết quả của các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố. Tại giai đoạn này số phận
pháp lý của người bị buộc tội sẽ được quyết định, cũng như toàn bộ các vấn đề khác
của vụ án hình sự sẽ được giải quyết. Chủ thể có chức năng thực hiện việc xét xử
gồm có Thẩm phán và Hội thẩm. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết, xét xử một
vụ án hình sự, thực tiễn đã thể hiện khá rõ Thẩm phán, nhất là Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa giữ vai trò rất quan trọng và mang tính quyết định cao. Để thực hiện đúng
và tốt chức năng, Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định cho Thẩm phán có những
nhiệm vụ và quyền hạn nhất định. Những nhiệm vụ và quyền hạn này, khi Thẩm
phán thực hiện sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị
cáo, bị hại… Do đó để hồn thiện vai trị, vị trí của người Thẩm phán, đặc biệt là
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, tác giả cho rằng việc tiến hành nghiên cứu về cơ sở lý
luận, cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tiễn về Thẩm phán, nhiệm vụ, quyền hạn
của Thẩm phán theo luật tố tụng hình sự là rất cần thiết. Kết quả của hoạt động
nghiên cứu sẽ là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo cho hoạt động học tập, nghiên
cứu, đồng thời cũng góp phần cung cấp thêm cho hoạt động thực tiễn những bài học
kinh nghiệm nhất định.
BLTTHS 2015 ra đời với nhiều sự sửa đổi, bổ sung quy định mới, tiến bộ hơn,
hoàn thiện hơn so với BLTTHS 2003. Ngoài việc bảo vệ tốt hơn quyền con người,
BLTTHS 2015 còn xây dựng hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động tố tụng
hình sự, trong đó có các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành
tố tụng. Tuy vậy, liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thấm phán, BLTTHS 2015
vẫn còn một số bất cập nhất định. Một số bất cập có thể kể ra như: thiếu quy định về
phân công Thẩm phán thành viên, thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án dựa theo loại tội
phạm là chưa thực sự khoa học... Đây là lý do cần thiết tiếp tục nghiên cứu đề tài để
qua kết quả nghiên cứu giúp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự.
Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, BLTTHS 2015 dù
đã xây dựng được một hành lang pháp lý tương đối vững chắc với các quy định chặt
2
chẽ, cụ thể, hợp lý, song trong quá trình thực hiện thì một số Thẩm phán thực hiện
chưa chính xác, thiếu sự nghiêm túc, kỹ lưỡng dẫn đến án bị hủy, sửa nghiêm trọng,
thậm chí kết án oan, bỏ sót người phạm tội, gây ảnh hưởng đến chất lượng xét xử
của ngành Tịa án nói chung. Ngồi ra, thực tiễn cũng biểu hiện một số vướng mắc
như: thiếu biên chế Thẩm phán cũng như đội ngũ Thư ký giúp việc cho Thẩm phán,
một số quyết định đình chỉ vụ án do Thẩm phán ban hành cịn mắc những sai sót
nhất định. Do đó, để tìm ra giải pháp nâng cao hoạt động thực tiễn thì việc nghiên
cứu đề tài là cần thiết.
Ngồi ra, vì Thẩm phán là người giữ vai trị rất quan trọng, mang tính quyết
định cao của hoạt động tố tụng hình sự nên việc nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn
của Thẩm phán là rất cần thiết. Kết quả nghiên cứu chẳng những góp phần vào cơng
cuộc cải cách tư pháp, hồn thiện vai trị, vị trí của Thẩm phán mà cịn giúp bảo vệ
cơng lý, bảo vệ quyền con người tốt hơn.
Chính vì những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài Nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán theo luật tố tụng hình sự Việt Nam làm luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, liên quan đến đề tài Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán theo luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu, có thể điểm qua như sau:
Luận văn thạc sĩ Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam
(Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2016) của tác giả Hà Duy Hiển. Đây là
luận văn theo định hướng nghiên cứu nên có sự đầu tư chuyên sâu về lý luận. Cụ
thể, cơng trình đã làm rõ được vai trị, vị trí của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng
hình sự; các mơ hình tố tụng hình sự; các yếu tố tác động đến vai trò của Thẩm
phán; những bất cập trong thực tiễn và kiến nghị. Tuy nhiên, về nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán thì cơng trình này chỉ đề cập lướt qua mà chưa được nghiên cứu
chuyên sâu.
Luận văn thạc sĩ Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam (Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2016) của tác giả Nguyễn
Sao Mai. Về đình chỉ vụ án, cơng trình này đã làm rõ nhiều vấn đề bao gồm thẩm
quyền, căn cứ, thủ tục, những vướng mắc và kiến nghị. Tuy nhiên do vừa nghiên
3
cứu cả về vấn đề tạm đình chỉ và đình chỉ với thẩm quyền của nhiều chủ thể nên
cơng trình này chưa dành nhiều dung lượng đối với riêng thẩm quyền đình chỉ vụ án
của Thẩm phán. Ngồi ra, cơng trình này cũng chủ yếu đi sâu về lý luận cịn về
phần thực tiễn thì chưa có sự đầu tư chi tiết.
Bài viết Bàn về quy định quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hinh sự
(Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 04(83)/2014) của tác giả Nguyễn Ngọc
Kiện. Tác phẩm này nghiên cứu về quyền hạn của Thẩm phán nói chung và chủ yếu
nghiên cứu về những vướng mắc, bất cập cũng như ranh giới giữa quyền hạn của
Thấm phán với quyền hạn của Chánh án. Ngoài ra, tác phẩm này nghiên cứu theo
quy định của BLTTHS 2003.
Bài viết Một số kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự (trang thơng tin
điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, đăng ngày 04/3/2016) của tác
giả Nguyễn Mậu Hưng. Bài viết trình bày khá chi tiết về những kinh nghiệm nghiên
cứu hồ sơ vụ án hình sự, nhưng chủ yếu là kinh nghiệm theo hướng cho Kiểm sát
viên. Thẩm phán cũng có thể tham khảo, song bài viết chỉ dừng lại ở kĩ năng nghiên
cứu hồ sơ mà chưa làm rõ các vấn đề có liên quan khác về nhiệm vụ, quyền hạn
nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự của Thẩm phán.
Như vậy, Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam khơng phải là đề tài mới mà vốn đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở
những góc độ khác nhau, với những đề tài rộng, hẹp khác nhau. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu của những tác phẩm đó vẫn chưa lấp đầy “khoảng trắng” và “lỗ hỏng”
tri thức khoa học luật hình sự liên quan đến đề tài này và cũng chưa giải quyết hết
các bất cập mà pháp luật thực định cũng như thực tiễn vướng phải. Tác giả trong
Luận văn này, vẫn còn tiếp tục phát hiện một số vấn đề lý luận chuyên sâu liên quan
đến đề tài đã chọn và có một số đề xuất giải pháp mà chưa được bất kì tác phẩm nào
đề cập tới hoặc có đề cập nhưng chưa cụ thể, chi tiết, chưa triệt để. Đây là tính mới
của đề tài tác giả nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận và quy định của pháp
luật tố tụng hình sự liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam. Bên cạnh, Luận văn cũng nghiên cứu, đánh giá các quy
định hiện hành của pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn xét xử, từ đó chỉ ra những
4
bất cập đang tồn tại. Cuối cùng, Luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng.
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu xung quanh hai vấn đề được đặt ra liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán theo luật tố tụng hình sự Việt Nam: nhiệm
vụ, quyền hạn của Thẩm phán được phân cơng giải quyết, xét xử vụ án hình sự
nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa và nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa đối với việc ra quyết định đình chỉ vụ án.
Luận văn nghiên cứu đề tài theo những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam hiện hành. Ngồi ra, về mặt không gian, Luận văn nghiên cứu các tội
phạm mà thực tiễn xét xử đã xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam được áp dụng thủ tục tố
tụng theo quy định của BLTTHS 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu trong Luận văn.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học pháp lý truyền thống như phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu án điển
hình… để hồn thành Luận văn.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Phần Mở đầu và Phần Kết luận, Luận văn gồm 2 chương như sau:
Chương 1. Nhiệm vụ, quyền hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên
tịa của Thẩm phán
Chương 2. Nhiệm vụ, quyền hạn đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa
5
CHƯƠNG 1
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN
TRƯỚC KHI MỞ PHIÊN TÒA CỦA THẨM PHÁN
1.1. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án
của Thẩm phán
Hồ sơ vụ án hình sự là tổng hợp những văn bản, tài liệu, chứng cứ do Cơ
quan điều tra lập trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, được sắp xếp theo
một trình tự nhất định phục vụ cho việc giải quyết vụ án và lưu trữ lâu dài.
Hồ sơ vụ án gồm: lệnh, quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát; các biên bản tố tụng do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát lập; các chứng cứ, tài
liệu liên quan đến vụ án. Ngoài ra, các chứng cứ, tài liệu do Viện kiểm sát, Tòa án
thu thập trong giai đoạn truy tố, xét xử cũng được đưa vào hồ sơ vụ án.
Hồ sơ vụ án có tính chất rất quan trọng, nó chứa đựng hầu hết mọi thơng tin
của một vụ án hình sự và dùng để giải quyết vụ án đó.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án là tổng hợp các hoạt động: đọc, xem xét, phân tích,
tổng hợp, so sánh, đối chiếu, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
nhằm nắm vững bản chất vụ án, diễn biến của hành vi phạm tội, qua đó xác định sự
thật khách quan của vụ án.
Có 2 phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án chủ yếu. Một là, nghiên cứu các
văn bản, tài liệu, chứng cứ theo trình tự thời gian. Phương pháp này có ưu điểm là
cho phép Thẩm phán theo dõi được diễn biến của quá trình tố tụng từ đầu đến hiện
nay, qua đó kiểm tra được tính có căn cứ và hợp pháp của từng quyết định tố tụng
của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, đồng thời không bị chi phối bởi Kết luận
điều tra và Cáo trạng. Phương pháp này có nhược điểm là phải mất nhiều thời gian
mới đi đến Kết luận điều tra và Cáo trạng để biết được bị can bị điều tra, truy tố tội
gì, theo điểm, khoản, điều nào của BLHS, và rồi đôi khi phải nghiên cứu lại những
tài liệu, chứng cứ chứng minh cho tội đó. Hai là, nghiên cứu từ Kết luận điều tra và
Cáo trạng, từ đó nghiên cứu theo trình tự ngược lại về mặt thời gian để kiểm tra tính
xác thực và đúng đắn của Kết luận điều tra và Cáo trạng. Ưu điểm của phương pháp
này là mất ít thời gian hơn để nắm bắt được kết quả của giai đoạn điều tra và truy
tố, từ đó tập trung nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm mà
Kết luận điều tra và Cáo trạng quy kết. Nhược điểm của phương pháp này là Thẩm
6
phán dễ bị chi phối bởi Kết luận điều tra và Cáo trạng, Thẩm phán dễ biến mình
thành người buộc tội mà quên đi mình là người trọng tài với chức năng xét xử. Đối
với phúc thẩm cũng có 2 phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án tương tự như sơ
thẩm là nghiên cứu các văn bản, tài liệu, chứng cứ theo trình tự thời gian hoặc bắt
đầu từ Bản án sơ thẩm, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị và nghiên cứu ngược
lại các tài liệu, chứng cứ chứng minh các vấn đề mà Bản án sơ thẩm đã quyết định,
các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, kháng nghị.
Xét về khía cạnh quyền hạn, do tính chất đặc biệt quan trọng của hồ sơ vụ án
hình sự nên có rất ít chủ thể được tiếp cận và có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự.
Trong số đó có Thẩm phán là chủ thể có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự. So
sánh với tố tụng dân sự, ngồi người tiến hành tố tụng thì cịn có người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự1.
Trong khi đó, trong tố tụng hình sự thì người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự thì khơng có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự mà
chỉ có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến
việc bào chữa; liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự2. Qua sự so
sánh trên cho thấy tính chất quan trọng đặc biệt của hồ sơ vụ án hình sự.
Xét về khía cạnh nhiệm vụ, Thẩm phán là người được Chánh án phân cơng
giải quyết một vụ án hình sự, đây là công vụ mà Thẩm phán phải thực hiện. Do vậy,
nghiên cứu hồ sơ vụ án là nhiệm vụ của Thẩm phán để hồn thành cơng vụ này.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án là nhiệm vụ chiếm thời gian nhiều nhất trong sự
nghiệp của người Thẩm phán. Đây là hoạt động rất quan trọng của Thẩm phán. Nếu
Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách kĩ lưỡng, đầy đủ thì sẽ cho ra kết quả
giải quyết vụ án là bản án, quyết định đúng đắn, thấu tình, đạt lý. Ngược lại, nếu
Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách qua loa, sơ sài thì dễ dẫn đến kết quả
là một bản án, quyết định thiếu chính xác, thậm chí là oan, sai nghiêm trọng.
Điểm a khoản 1 Điều 45 BLTTHS 2015 quy định: Thẩm phán được phân
cơng giải quyết, xét xử vụ án hình sự có nhiệm vụ, quyền hạn: nghiên cứu hồ sơ vụ
án trước khi mở phiên tịa.
Khi được Chánh án phân cơng thì các Thẩm phán, bao gồm Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa, Thẩm phán thành viên trong Hội đồng xét xử và kể cả Thẩm phán dự
1
2
Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Điểm l khoản 1 Điều 73 và điểm d khoản 3 điều 84 BLTTHS 2015.
7
khuyết (nếu có) có nhiệm vụ, quyền hạn nghiên cứu hồ sơ để giải quyết, xét xử vụ
án. Thẩm phán thành viên và Thẩm phán dự khuyết (nếu có) thì nghiên cứu hồ sơ
để sau này tham gia xét xử vụ án. Thẩm phán chủ tọa phiên tịa thì nghiên cứu hồ sơ
để giải quyết toàn bộ vụ án, bao gồm việc ra các quyết định trước khi mở phiên tịa
hoặc khơng phải mở phiên tịa như: quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, trả hồ
sơ điều tra bổ sung, đình chỉ xét xử phúc thẩm… và tham gia xét xử với tư cách là
Chủ tọa phiên tòa.
Về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án thì phụ thuộc vào thời hạn chuẩn bị xét
xử. Cụ thể, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án sơ thẩm là 30 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày thụ lý vụ
án. Đối với vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với vụ án được trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung
thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp phục hồi vụ án thì thời hạn
chuẩn bị xét xử theo thủ tục chung kể từ ngày Tòa án ra quyết định phục hồi vụ án 3.
Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án phúc thẩm là 60 ngày đối với Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu; 90 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp
cao, Tòa án quân sự trung ương, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án4.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án mà nhận thấy có các căn cứ đình chỉ,
tạm đình chỉ vụ án, trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán chủ tọa phiên tịa ra
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, trả hồ sơ để điều tra bổ sung (đối với sơ thẩm)
hoặc có căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tịa ra quyết
định đình chỉ xét xử phúc thẩm (đối với phúc thẩm). Nếu khơng có các căn cứ trên
thì Thẩm phán chủ tọa phiên tịa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
* Thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án
của Thẩm phán
Thứ nhất, điểm a khoản 1 Điều 45 BLTTHS 2015 quy định: Nghiên cứu hồ
sơ vụ án trước khi mở phiên tòa. Rõ ràng quy định này đã dư thừa cụm từ “trước
3
4
Điều 277 BLTTHS 2015.
Khoản 1 Điều 346 BLTTHS 2015.
8
khi mở phiên tịa”. Cụm từ này là hồn tồn khơng cần thiết. Bởi vì nếu bám sát
theo câu chữ vậy thì khi phiên tịa đang diễn ra (nhất là những phiên tòa xét xử
trong nhiều ngày, nghị án kéo dài) hoặc sau khi mở phiên tịa thì phiên tịa bị hỗn,
tạm ngừng thì phải chăng Thẩm phán khơng cịn quyền hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án
nữa? Nghiên cứu là để nhận thức và để tìm ra chân lý của một vấn đề. Sau khi mở
phiên tịa có thể Thẩm phán sẽ được cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới hoặc
được nghe quan điểm, ý kiến hợp lý của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, bị
hại... mà Thẩm phán phải soát lại, đối chiếu lại, nghiên cứu lại để nhận thức lại là
điều hết sức bình thường. Do đó, khơng có lý do gì Thẩm phán không được nghiên
cứu hồ sơ vụ án sau khi mở phiên tịa. Ngồi ra, đối với Thẩm phán dự khuyết, thực
tiễn xét xử cho thấy Thẩm phán dự khuyết được mời tham gia xét xử là khá phổ
biến và thông thường phải đến tận thời điểm mở phiên tịa thì Thẩm phán dự khuyết
mới bắt đầu tiếp cận hồ sơ vụ án và nghiên cứu. Qua đó cho thấy Thẩm phán vừa
nghiên cứu vừa xét xử không phải là trường hợp hiếm trong thực tiễn.
Thứ hai, về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ
án thì phụ thuộc vào thời hạn chuẩn bị xét xử. Theo quy định tại Điều 277 BLTTHS
2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phụ thuộc và tăng dần theo
loại tội phạm. Cụ thể là 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với
tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tác giả cho rằng quy định thời hạn chuẩn bị xét
xử phụ thuộc và tăng dần theo loại tội phạm là rất bất cập. Thực tiễn xét xử cho thấy
có những trường hợp tội phạm bị điều tra, truy tố là tội ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng nhưng có số lượng bị cáo nhiều (thường là các tội đánh bạc, cố ý gây thương
tích, gây rối trật tự công cộng…), số lượng văn bản, tài liệu, chứng cứ rất lớn, có
thể lên đến hàng ngàn bút lục nhưng chỉ có thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày, 45
ngày là rất ngắn. Hơn nữa, với tình trạng số lượng Thẩm phán thì ít mà số vụ án thì
càng lúc càng nhiều, trong cùng một khoảng thời gian, Thẩm phán phải nghiên cứu,
giải quyết hàng chục vụ án, xoay qua vụ án này xoay lại vụ án kia thì vụ án nọ sắp
hến hạn. Thời hạn chuẩn bị xét xử ngắn, không giải quyết kịp khiến áp lực càng đè
nặng thêm, do đó đơi khi Thẩm phán đành phải nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách sơ
sài và dẫn đến chất lượng xét xử khơng cao. Cũng có trường hợp Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa khi thấy thời hạn chuẩn bị xét xử sắp hết mà chưa nghiên cứu hồ sơ vụ
án đó thì cứ ra trước quyết định đưa vụ án ra xét xử rồi tận dụng khoảng thời gian
này để nghiên cứu.
9
Ví dụ 1:
1. Truy tố các bị can Hồ Thanh Tâm, Lê Đức Huy, Nguyễn Hồi Khơn có lý
lịch như trên ra trước Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang để xét xử về
tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 1 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015.
2. Kèm theo Cáo trạng có:
- Hồ sơ vụ án gồm có: 01 tập, bằng 823 tờ; đánh số thứ tự từ 01 đến 823;
- Bảng kê vật chứng (có kèm theo Quyết định chuyển vật chứng);
Danh sách những người Viện kiểm sát đề nghị Tòa án triệu tập đến phiên tòa5.
Đây chỉ là một vụ án gây rối trật tự công cộng thuộc khoản 1 Điều 318 BLHS
2015, là tội phạm ít nghiêm trọng, nhưng vụ án có tới 03 bị can với rất nhiều người
làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tình tiết vụ án cũng rất phức
tạp, hồ sơ vụ án cũng khá đồ sộ với 823 bút lục. Với một vụ án như thế, một hồ sơ
như thế, thì trong vòng 30 ngày và kể cả thêm 15 ngày gia hạn thì cũng rất khó mà
nghiên cứu thấu đáo.
Ví dụ 2:
1. Truy tố các bị can Nguyễn Tấn Tiến, Lê Cơng Khải Tường, Nguyễn Minh
Trương, Mai Lê Khang có lý lịch như trên ra trước Tòa án nhân dân thành phố
Long Xuyên, tỉnh An Giang để xét xử Tiến về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm
đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự; Lê Cơng Khải Tường, Nguyễn Minh
Trương, Mai Lê Khang về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2
Điều 318 của Bộ luật Hình sự.
2. Kèm theo Cáo trạng có:
- Hồ sơ vụ án gồm có 03 tập, bằng 936 tờ đánh số thứ tự từ 01 đến 936;
- Bảng kê vật chứng;
- Danh sách những người Viện kiểm sát đề nghị Tòa án triệu tập đến phiên tòa6.
Đây là vụ án thuộc loại tội nghiêm trọng nên thời hạn dành cho Thẩm phán
nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị cho việc xét xử là 45 ngày và có thể gia hạn thêm 15
ngày. Với một hồ sơ có gần 1.000 bút lục, gồm 3 tập, 4 bị cáo, 2 tội danh, rất nhiều
5
6
Cáo trạng số 26/CT-VKSTS ngày 19/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 29/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Long Xuyên, tỉnh An Giang.
10
người tham gia tố tụng thì có thể nhận định rằng đây tuy là một vụ án nhưng chứa
đựng tới 2 vụ án. Cũng có nghĩa, Thẩm phán phải gồng mình gấp đơi năng suất để
nghiên cứu, giải quyết 2 vụ án cùng một lúc, bởi do thời hạn chuẩn bị xét xử khơng
được nhân đơi.
Ngược lại, có những trường hợp tội phạm bị xử lý là tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng nhưng tài liệu, chứng cứ đã rõ ràng, đầy đủ, bị cáo nhận tội, số
lượng văn bản, tài liệu ít nhưng thời hạn chuẩn bị xét xử lại đến 02 tháng, 03 tháng
là dài, không cần thiết.
Ví dụ 3:
1. Truy tố bị can Nguyễn Văn Nhân có lý lịch nêu trên ra trước Tịa án nhân
dân tỉnh An Giang để xét xử về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm c
khoản 3 Điều 142 Bộ luật Hình sự.
2. Kèm theo Cáo trạng có:
- Hồ sơ vụ án gồm có: 262 tờ, đánh số từ 01 đến 262.
- Bảng kê vật chứng (Quyết định chuyển vật chứng kèm theo).
- Danh sách những người Viện kiểm sát đề nghị Tòa án triệu tập đến phiên tòa7.
Đây là vụ án với loại tội đặc biệt nghiêm trọng. Hồ sơ vụ án chỉ vỏn vẹn có
262 bút lục thì với thời hạn chuẩn bị xét xử tới 03 tháng có vẻ là khá thừa cho việc
nghiên cứu để giải quyết.
Đối với vụ án hình sự phúc thẩm thì Điều 346 BLTTHS 2015 quy định thời hạn
chuẩn bị xét xử cố định là 60 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự
cấp quân khu và 90 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương.
Việc quy định thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự phúc thẩm một mức cố định là 60
ngày (hoặc 90 ngày) là bất cập. Bởi vì, tương tự như trên, có những vụ án với một hồ
sơ đồ sộ, hàng ngàn bút lục mà thời hạn để nghiên cứu chỉ có 60 ngày (hoặc 90 ngày)
là không đủ. Và ngược lại, có những vụ án đơn giản, tài liệu, chứng cứ đã rõ ràng, đầy
đủ, bị cáo nhận tội và chỉ có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thì thời hạn
chuẩn bị xét xử là 60 ngày (hoặc 90 ngày) lại là dài, không cần thiết.
Thứ ba, về quy định phân công Thẩm phán. Đối với vụ án hình sự phúc
thẩm, khoản 2 Điều 340 BLTTHS 2015 quy định như sau:
7
Cáo trạng số 21/CT-VKSAG-P2 ngày 29/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang.
11
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tịa án cấp phúc
thẩm phân cơng Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa.
So sánh với tố tụng dân sự, tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật Tố tụng dân sự
2015 thì quy định như sau:
Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và
phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tịa.
BLTTHS 2015 chỉ quy định phân cơng Thẩm phán chủ tọa phiên tịa mà
khơng quy định cụ thể việc phân công Thẩm phán thành viên cùng tham gia xét xử.
Trong khi đó Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã có quy định này. Cụ thể, trong tố tụng
dân sự, sau khi vụ án được thụ lý thì Chánh án thành lập Hội đồng xét xử, trong đó
phân cơng Thẩm phán chủ tọa phiên tịa, các Thẩm phán thành viên và Thẩm phán
dự khuyết. Như vậy, các Thẩm phán thành viên, Thẩm phán dự khuyết đã có thể bắt
đầu nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự từ khi thụ lý. Cịn trong tố tụng hình sự thì chỉ
quy định phân cơng Thẩm phán chủ tọa phiên tịa nên trong thực tiễn các Thẩm
phán thành viên bắt đầu nghiên cứu hồ sơ vụ án từ khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử. Vì vậy nên đối với những vụ án phức tạp, số lượng tài liệu, chứng cứ nhiều,
hồ sơ đồ sộ thì khơng đủ thời gian nghiên cứu.
1.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án
của Thẩm phán
Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử cho thấy có một số vụ án mà Bản án bị Tòa
án cấp trên hủy, sửa nghiêm trọng xuất phát do lỗi của Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ
vụ án còn sơ sài, chưa kĩ lưỡng.
Thứ nhất, có Bản án kết án oan do Thẩm phán không chú ý vào thời điểm bị
cáo thực hiện hành vi và thiếu nghiên cứu, cập nhật văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ 1: Hồi 11 giờ 15 phút, ngày 27-11-2015, Công an tỉnh Lạng Sơn đã
phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng đối với
Nơng Duy H có hành vi vận chuyển 22 kg pháo nổ tại khu vực thôn T, xã P, huyện
C, tỉnh Lạng Sơn.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2016/HSST ngày 04-3-2016, Tịa án nhân
dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn áp dụng khoản 1 Điều 155; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ
luật Hình sự xử phạt Nông Duy H 07 tháng tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”, thời
12
hạn tù tính từ ngày 27-11-2015. Ngồi ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về việc xử
lý vật chứng, án phí.
Tại Quyết định số 194/2017/KN-HS ngày 23-10-2017, Chánh án Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội đã kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2016/HSST
ngày 04-3-2016 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn; đề nghị Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án
hình sự sơ thẩm nêu trên tun bố Nơng Duy H khơng phạm tội “Vận chuyển hàng
cấm” và đình chỉ vụ án.
[…]
Tại Phụ lục 4 kèm theo Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 (Luật đầu tư năm
2014) có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2015 quy định: “Kinh doanh các loại pháo
nổ” thuộc Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Tại Điều 6 Luật
sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư năm 2014 được Quốc hội khóa XIV thơng qua ngày
22-11-2016 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-2017 quy định: “Kinh doanh
pháo nổ” thuộc ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh. Theo quy định trên, kể từ ngày
01-7-2015 đến ngày 01-01-2017 không xác định pháo nổ là hàng cấm và khơng xử
lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa quy
định tại Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do chính sách pháp luật thay đổi, vì
vậy hành vi vận chuyển 22 kg pháo nổ trong nội địa của Nông Duy H vào ngày 2711-2015 khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Vận chuyển hàng cấm”.
[…]
Căn cứ vào khoản 1 Điều 382; khoản 4 Điều 388; Điều 392 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015;
Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2016/HSST ngày 04-3-2016 của Tòa án
nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn, tuyên bố Nông Duy H không phạm tội “Vận
chuyển hàng cấm” và đình chỉ vụ án8.
Theo Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 (Luật Đầu tư năm 2014), có hiệu lực từ
ngày 01/7/2015 thì kinh doanh pháo nổ khơng cịn là ngành nghề cấm kinh doanh
(mà chỉ là kinh doanh có điều kiện). Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Đầu tư năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 thì kinh doanh pháo nổ lại
được quy định là ngành nghề cấm kinh doanh. Như vậy, hành vi vận chuyển pháo
8
Quyết định giám đốc thẩm số 24/2018/HS-GĐT ngày 01/02/2018 của TAND cấp cao tại Hà Nội.
13
nổ trong khoảng thời gian từ ngày 01/7/2015 đến ngày 31/12/2016 không phải là
hành vi phạm tội. Trong vụ án này bị cáo H thực hiện hành vi vận chuyển pháo nổ
vào ngày 27/11/2015, tức là nằm trong khoảng thời gian nói trên. Cũng có nghĩa, bị
cáo H khơng phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” như tuyên bố của Quyết định giám
đốc thẩm là hồn chính xác. Thật đáng tiếc với kết quả của Bản án sơ thẩm. Sai sót
nghiêm trọng này của án sơ thẩm thực sự là không đáng có, hồn tồn có thể phát
hiện ra và giải quyết được nhưng rõ ràng là do Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ vụ án
còn sơ sài, chưa kĩ lưỡng, không chú ý đến thời điểm bị cáo thực hiện hành vi và
thiếu nghiên cứu, cập nhật văn bản quy phạm pháp luật mới – Luật Đầu tư 2014.
Thứ hai, có trường hợp án bị sai sót là do Thẩm phán quá tin tưởng, quá chủ
quan vào một loại chứng cứ rất quan trọng, đó là Kết luận định giá.
Ví dụ 2: Vợ chồng Mai Văn D, Phan Thị T ở cùng nhà với bố mẹ ruột là ông
Trần Văn L, bà Mai Thị L. Khoảng 8 giờ 15 phút, ngày 17/12/2015, lợi dụng lúc
mọi người trong nhà đi vắng, Mai Văn D nói với vợ là Phan Thị T “lên phịng mẹ
lấy trộm tiền của mẹ”, thì T nói lại “anh lấy tiền làm gì, đừng nữa”, nhưng D vẫn đi
thẳng lên tầng 2, vào phịng ngủ của ơng L, bà L. Sau đó, D dùng chìa khóa đã
chuẩn bị từ trước, mở tủ đựng áo quần lấy 01 thùng nhơm (bên trong có
120.000.000 đồng và số vàng gồm: 10 khâu nhẫn tròn trơn, 6 sợi dây chuyền, 01
cái lắc và 7 khâu nhẫn có gắn đá trang trí).
[…]
Tại Bản kết luận định giá số 10/KL-HDĐG ngày 15/01/2016, Hội đồng định
giá trong tố tụng hình sự huyện P (sau đây gọi tắt là Hội đồng định giá) kết luận:
[…]
Tổng giá trị số vàng trên là 65.833.296 đồng. Tổng cộng, tài sản bị chiếm
đoạt có giá trị là: 192.833.296 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2016/HSST ngày 06/7/2016, Tòa án nhân
dân huyện Phú Vang quyết định:
Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều
47 Bộ luật hình sự, xử phạt: Mai Văn D 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 2 Điều 138, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47;
Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt: Phan Thị T 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp
tài sản” nhưng cho hưởng án treo.
14
Ngày 13/7/2016, Mai Văn D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được
nhận lại chiếc xe máy mà bản án sơ thẩm đã tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 104/2016/HSPT ngày 19/9/2016, Tòa án
nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định: chấp nhận một phần kháng cáo của bị
cáo D; Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46;
Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt: Mai Văn D 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp
tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Về xử lý vật chứng: tuyên trả lại xe mơ tơ, biển kiểm sốt 75 H1-246.66 cho
chủ sở hữu là ông Trần Văn L và bà Mai Thị L để quản lý sử dụng.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/2017/KN-HS ngày 05/5/2017,
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án hình sự phúc thẩm
số 104/2016/HSPT ngày 19/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và
Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2016/HSST ngày 06/7/2016 của Tòa án nhân dân
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế để điều tra lại.
[…]
Tại Điều 13 Nghị định số 26/2005/NĐ ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quy định căn cứ định giá tài sản:
Việc định giá tài sản phải dựa trên các căn cứ sau đây:
1. Giá phổ biến trên thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm;
2. Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
3. Giá trên tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá, nếu có;
4. Giá trị thực tế của tài sản cần định giá;
5. Các căn cứ khác về giá trị của tài sản cần định giá.
Hội đồng định giá đã căn cứ Quyết định số 24/2005/QĐ-BTC ngày 18/04/2005
của Bộ Tài chính về việc ban hành 03 tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, Quyết định
số 32/2008/QĐ-BTC ngày 29/5/2008 của Bộ Tài chính về việc ban hành chế độ quản
lý, tính hao mịn tài sản cố định trong các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập và các tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước, để làm căn cứ định giá tài sản là
không đúng với quy định nêu trên, hơn nữa những văn bản trên đã hết hiệu lực pháp
15
luật tại thời điểm tiến hành định giá (ngày 15/01/2016) và quy định chỉ đối với các cơ
quan Nhà nước.
Ngoài ra, Hội đồng định giá còn lấy đơn giá vàng tại Cổng thông tin vật giá
ngày 17/12/2015 để xác định giá cũng là khơng đúng vì Cổng thơng tin vật giá không
phải là căn cứ pháp lý để xác định giá vàng, mà phải là văn bản do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành và phụ thuộc thị trường nơi tài sản bị xâm phạm.
Do đó, Kết luận định giá của Hội đồng định giá xác định số vàng mà bị cáo
D, T chiếm đoạt có tổng giá trị 65.833.296 đồng là chưa chính xác. Các cơ quan
tiến hành tố tụng huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế căn cứ vào kết luận định
giá tài sản không đúng pháp luật nêu trên để truy tố, xét xử đối với Mai Văn D,
Phan Thị T là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Ngoài ra, để đủ căn cứ vững chắc kết luận D, T chiếm đoạt tài sản của cha,
mẹ (ơng L, bà L) có giá trị bao nhiêu, thì cần làm rõ số tiền 127.000.000 đồng mà
các bị cáo đã chiếm đoạt thuộc quyền sở hữu của ông L, bà L hay còn thuộc quyền
sở hữu của người nào khác.
Vì những sai phạm nêu trên, để xét xử đúng quy định pháp luật, quyết định
mức hình phạt đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của D và T, thấy cần phải
hủy bản án hình sự sơ thẩm và bản án hình sự phúc thẩm để điều tra, truy tố lại9.
Kết luận giám định, Kết luận định giá từ lâu dường như đã được thực tiễn
xem như là chứng cứ “thép”. “Thép” ở đây không phải là tính vững chắc của nó mà
là niềm tin gần như tuyệt đối của Thẩm phán đối với nó. Ít có Thẩm phán nào chịu
khó nghiên cứu kĩ lưỡng về thủ tục định giá, thành phần Hội đồng định giá, các văn
bản pháp luật được áp dụng trong định giá, phương pháp định giá… để đảm bảo
rằng Kết luận định giá khơng có bất kì sai sót gì. Kết luận định giá là chứng cứ rất
quan trọng, đặc biệt là đối với các tội xâm phạm sở hữu, có thiệt hại về tài sản. Thế
nhưng, việc đặt niềm tin gần như tuyệt đối đối với nó là thực trạng hiện nay và do
đó ln tiềm ẩn một tỉ lệ rủi ro nhất định.
Thứ ba, có trường hợp do Thẩm phán nghiên cứu các biên bản lấy lời khai
chưa kĩ lưỡng nên dẫn đến bỏ lọt người phạm tội.
Ví dụ 3: Khoảng 22 giờ 40 phút, ngày 02/7/2018, tại quán nhậu của ông Mai
Văn Cư ở tổ 16 Đường Đệ, phường Vĩnh Hịa, Nha Trang, Đội Cảnh sát hình sự
9
Quyết định giám đốc thẩm số 28/2017/HS-GĐT ngày 03/7/2017 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
16
thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nha Trang tiến hành kiểm tra
và bắt quả tang Mai Văn Tr, Nguyễn Vũ Hoàng L đang ghi tỷ lệ cá cược bóng đá cho
Nguyễn Ngọc Hồng, Đặng Mẫu Thạch, Mai Văn Cư, Lê Thị Phương, Lê Văn Linh
và Nguyễn Duy Phong, tại giải đấu WorldCup 2018, trận đấu giữa đội Braxin Mexico diễn ra lúc 21 giờ 00 phút cùng ngày. Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ
trong người Mai Văn Tr số tiền 13.680.000 đồng (Trong đó: 3.630.000 đồng là tiền
thu của 06 người chơi tại quán; 10.050.000 đồng là để chi trả cho những người
thắng và tiền thua của những người tham gia ghi “kèo” nhưng khơng ở lại qn).
[…]
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 254/2019/HS-ST ngày 18/10/2019, Tòa án
nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà quyết định:
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ
luật Hình sự năm 2015 đối với Mai Văn Tr và bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng L;
Xử phạt: Bị cáo Mai Văn Tr 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tổ chức
đánh bạc” thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng L 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Tổ
chức đánh bạc”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Trong hạn luật định các bị cáo Mai Văn Tr và Nguyễn Vũ Hồng L kháng
cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng sau đó các bị cáo đã tự nguyện rút kháng cáo.
Ngày 11/3/2020, Tồ án nhân dân tỉnh Khánh Hịa ra Quyết định số
20/2020/HSPT-QĐ đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Mai
Văn Tr và Nguyễn Vũ Hoàng L.
Ngày 11/6/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 57/QĐ-VC2 đề nghị Uỷ ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm huỷ Bản
án hình sự sơ thẩm số 254/2019/HS-ST ngày 18/10/2019 của Tòa án nhân dân
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hồ và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số
20/2020/HSPT-QĐ của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà để điều tra lại theo đúng
quy định pháp luật.
[…]
Tại “Biên bản lấy lời khai” vào ngày 03/7/2018 và ngày 01/8/2018, bị cáo
Mai Văn Tr đều thừa nhận: “Tơi có xin bố tơi là ơng Mai Văn C để tôi tiến hành
17
ghi kèo cá cược cho khách tại quán nhậu của bố ở bãi đất trống thuộc tổ 16 Đường
Đệ, phường Vĩnh Hịa, Nha Trang thì được bố tơi đồng ý”, lời khai của Tr phù hợp
với lời khai của ông Mai Văn C vào ngày 13/8/2018: “Trong mùa World cup thì Tr
muốn tổ chức cá cược cho khách tại quán nhậu của tôi nên tôi cho Tr vào ngồi trong
quán nhậu. Tr nói muốn mượn đầu thu K+ và sử dụng mạng wifi tại quán để phục
vụ việc lên mạng internet truy cập vào trang web cá cược…”, sau này bị cáo Tr và
ông C đã thay đổi lời khai. Tuy nhiên, ông Mai Văn C là chủ và thường xuyên có
mặt tại quán, bản thân cũng đánh bạc với bị cáo Tr vào ngày 02/7/2018 nên hành vi
cho Tr mượn địa điểm, đầu thu K+ của ông Mai Văn C có dấu hiệu đồng phạm giúp
sức với hành vi tổ chức đánh bạc của Mai Văn Tr.
[…]
Căn cứ vào khoản 1 Điều 382; khoản 3 Điều 388 và Điều 391 của Bộ luật tố
tụng hình sự;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 57/QĐ-VC2 ngày
11/6/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
2. Huỷ Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 20/2020/HSPT-QĐ ngày
11/03/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hồ và Bản án hình sự sơ thẩm số
254/2019/HS-ST ngày 18/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh
Khánh Hoà để điều tra lại theo đúng quy định pháp luật10.
Trong vụ án này các bị cáo Mai Văn Tr, Nguyễn Vũ Hoàng L bị bắt quả tang
về hành vi tổ chức đánh bạc tại quán nhậu của ông Mai Văn C. Lúc đó bản thân ông
C cũng là một trong số những con bạc. Ông C là chủ quán nhậu, thường xuyên
xuyên có mặt tại quán nên với hành vi cho bị cáo Tr mượn địa điểm, đầu thu K+ để
bị cáo Tr tổ chức đánh bạc rõ ràng có dấu hiệu đồng phạm. Các biên bản lấy lời
khai của bị cáo Tr và ông C phù hợp với nhau và cho thấy ông C là đồng phạm giúp
sức của bị cáo Tr. Bản án sơ thẩm bỏ lọt người đồng phạm là do không nghiên cứu
kĩ lưỡng các biên bản lấy lời khai này.
Thứ tư, có trường hợp bỏ lọt tội phạm do Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ vụ án
chưa kĩ lưỡng về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật áp dụng.
Ví dụ 4: Khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 23/01/2018, Đào Văn T đến nhà Sùng Nủ
D ở thôn G, xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk hỏi mua heroin. D đã bán cho T 01 gói với
10
Quyết định giám đốc thẩm số 34/2020/HS-GĐT ngày 04/9/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
18
giá 200.000 đồng. Sau đó, T vào trong buồng nhà D sử dụng. Trong lúc T đang sử
dụng thì bị lực lượng công an bắt, thu giữ cùng với tang vật là 02 túi nilong chứa chất
màu trắng. Tại Bản kết luận giám định số 198/GĐMT-PC54 ngày 30/01/2018 của
Phòng kỹ thuật hình sự - Cơng an tỉnh ĐăkLăk kết luận: Chất rắn màu trắng đựng
trong 01 gói nilong màu xanh và 01 gói nilong màu hồng được niêm phong gửi đến
giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 1,7908 gam, loại ma túy là heroin. Chất rắn
màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc màu trắng cháy đen ở giữa được niêm phong
gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,0091 gam, loại ma túy là heroin.
[…]
Tại Bản cáo trạng số 27/KSĐT-HS ngày 14/5/2018 của Viện kiểm sát nhân
dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Sùng Nủ D về tội “Mua bán trái phép chất
ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2018/HS-ST ngày 13/6/2018, Tòa án nhân
dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk quyết định: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; các điểm
r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị
cáo Sùng Nủ D 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Ngày 25/6/2018, bị cáo Sùng Nủ D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Do bị
cáo rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa nên vào ngày 31/8/2018 Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk đã ra Quyết định số 29/2018/HSPT-QĐ đình chỉ việc xét xử phúc
thẩm đối với bị cáo Sùng Nủ D.
Tại Quyết định kháng nghị số 118/QĐ-VC2 ngày 16/10/2018, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2018/HS-ST ngày
13/6/2018 của Tịa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk để điều tra lại đối với bị cáo
Sùng Nủ D, theo hướng truy cứu bổ sung tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép
chất ma túy” quy định tại Điều 256 Bộ luật Hình sự.
[…]
Căn cứ vào Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 23/01/2018 ( BL24,
25), Bản tự khai của Sùng Nủ D, Bản tự khai của Đào Văn T, Biên bản hỏi cung bị
can Sùng Nủ D ngày 02/02/2018, Biên bản ghi lời khai của Sùng Nủ D ngày
23/01/2018, thể hiện việc bị cáo Sùng Nủ D đã sử dụng nhà riêng thuộc quyền quản
lý của mình để cho Đào Văn T sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi đó của bị cáo
19
D đã phạm vào tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại
Điều 256 BLHS năm 2015, cấp sơ thẩm không xem xét là bỏ lọt tội phạm. Vì:
Hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II của Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp
dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình
sự năm 1999 đã bị bãi bỏ theo quy định tại Điều 3 của Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 sửa đổi, bổ sung
một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTCBTP ngày 24/12/2007 nói trên: “Thơng tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 30/12/2015. Bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiết 3.7 mục 3 Phần II; điểm b
tiết 7.3 mục 7 Phần II; mục 8 Phần II của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT”. Do
đó, bị cáo Sùng Nủ D phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Chứa chấp việc sử
dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 256 BLHS năm 2015, không phụ
thuộc vào việc bị cáo D có nghiện ma túy hay khơng.
Do vậy, kháng nghị của viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng là có căn cứ được chấp nhận, hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2018/HSST
ngày 13/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk và Quyết định số
29/2018/HSPT-QĐ ngày 31/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk để điều tra,
truy tố và xét xử lại đối với bị cáo Sùng Nủ D, theo hướng truy cứu bổ sung tội
“Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”11.
Trong vụ án này, thông qua Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày
23/01/2018 (BL24, 25), Bản tự khai của Sùng Nủ D, Bản tự khai của Đào Văn T,
Biên bản hỏi cung bị can Sùng Nủ D ngày 02/02/2018, Biên bản ghi lời khai của
Sùng Nủ D ngày 23/01/2018, hồ sơ vụ án đã thể hiện rõ việc bị cáo D đã sử dụng nhà
riêng thuộc quyền quản lý của mình để cho T sử dụng trái phép chất ma túy. Đây là
hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo D (bên cạnh hành vi
mua bán trái phép chất ma túy). Nếu nghiên cứu kĩ Thẩm phán chắc chắn sẽ nhận ra
tình tiết này. Ngồi ra, mặc dù tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP có quy định: “Người nghiện ma
túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm
thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì khơng phải chịu trách
11
Quyết định giám đốc thẩm số 04/2019/HS-GĐT ngày 21/01/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
20
nhiệm hình sự về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy”, nhưng quy định này
đã bị bãi bỏ theo quy định tại Điều 3 của Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/12/2015). Vì vậy, bị
cáo D phải chịu TNHS thêm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” như
nhận định của Quyết định giám đốc thẩm là hồn tồn chính xác. Sai sót nghiêm
trọng này hồn tồn có thể tránh được nếu Thẩm phán nghiên cứu kĩ tình tiết sự việc
(thơng qua các biên bản) và hiệu lực của văn bản hướng dẫn.
1.3. Nguyên nhân của những hạn chế đối với việc nghiên cứu hồ sơ vụ án
của Thẩm phán
Thứ nhất, Thẩm phán thành viên trong Hội đồng xét xử hiếm khi nghiên cứu
toàn bộ hồ sơ vụ án mà chủ yếu chỉ nghiên cứu Kết luận điều tra, Cáo trạng và Bản
án sơ thẩm. Điều này cũng hồn tồn dễ hiểu bởi vì các Thẩm phán đó phải bận lo
nghiên cứu những hồ sơ vụ án mà mình là Chủ tọa phiên tịa nên việc nghiên cứu hồ
sơ khác là việc mà thời gian hầu như không bao giờ cho phép. Do Thẩm phán thành
viên khơng nghiên cứu thấu đáu tồn bộ hồ sơ vụ án nên đa phần là phó thác hết
cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Như thế lẽ ra xét xử là hoạt động tố tụng được
thực hiện bởi Hội đồng xét xử, là sự tập hợp trí tuệ của nhiều người thì thực tế hầu
như lại được phó thác hết cho một mình Thẩm phán chủ tọa phiên tịa. Từ đó kéo
theo chất lượng xét xử cũng bị giảm sút.
Thứ hai, số lượng Thẩm phán, Thư ký hầu như thiếu hụt so với số lượng vụ án
ln có xu hướng tăng hàng năm. Ở các địa phương nơng thơn thì một Thẩm phán
phải giải quyết 4-5 vụ án/tháng, trung bình một vụ án phải giải quyết trong 6-7 ngày.
Ở các địa phương đơ thị thì một Thẩm phán phải giải quyết gần 10 vụ án/tháng, trung
bình một vụ án phải giải quyết trong 3-4 ngày. Với tốc độ giải quyết án như thế thì tỉ
lệ sơ suất, sai sót do không nghiên cứu kĩ lưỡng hồ sơ vụ án là khá cao.
Thư ký là người trợ giúp đắc lực cho Thẩm phán, là người tiếp nhận hồ sơ,
kiểm đếm hồ sơ, vào sổ thụ lý, soạn thảo các văn bản tố tụng cho Thẩm phán. Do
đó, tốc độ nghiên cứu, giải quyết của Thẩm phán sẽ bị ảnh hưởng bởi tốc độ làm
việc của Thư ký. Tuy nhiên, do số lượng ít nên ở một số nơi một Thư ký phải giúp
việc cho 3-4 Thẩm phán thì việc bảo đảm hồn thành tiến độ cơng việc quả thực là
một thách thức lớn.
Thứ ba, chữ viết của một số Điều tra viên khơng được rõ ràng, khó đọc.
Theo quy định thì các biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai… phải do các