TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƢỚC
------ -----
HUỲNH THỊ MỸ THỌ
MSSV: 1853801014157
NGUYÊN TẮC HẠN CHẾ QUYỀN CON NGƢỜI, QUYỀN CÔNG
DÂN TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 - 2022
Người hướng dẫn
ThS. Huỳnh Thị Hồng Nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2022
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƢỚC
------ -----
HUỲNH THỊ MỸ THỌ
MSSV: 1853801014157
NGUYÊN TẮC HẠN CHẾ QUYỀN CON NGƢỜI, QUYỀN CÔNG
DÂN TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 - 2022
Người hướng dẫn
ThS. Huỳnh Thị Hồng Nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2022
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Thầy Cô Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
đã cung cấp cho em những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại
trường. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô Huỳnh Thị Hồng Nhiên
- Giảng viên khoa Luật Hành chính - Nhà nước đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn cho
em cách làm đề cương, thu thập tài liệu cũng như cách trình bày, bố cục và ngơn
ngữ sử dụng trong khóa luận, từ đó tạo điều kiện cho em hồn thành khóa luận này.
Em
xin
chân
thành
cảm
ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả khoá luận cam đoan: khoá luận tốt nghiệp “Nguyên tắc hạn chế quyền
con người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19” là kết quả nghiên
cứu nghiêm túc của tác giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ
Huỳnh Thị Hồng Nhiên - Giảng viên khoa Luật Hành chính - Nhà nước, trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung khố luận có sự tham khảo các nguồn
tài liệu khác nhau, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn,
chú thích minh bạch, rõ ràng, có tính kế thừa, phát triển từ các Tạp chí khoa học,
cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố.
Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả khoá luận
HUỲNH THỊ MỸ THỌ
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT
Tên đầy đủ
Chữ viết tắt
UDHR
ICCPR
Tuyên ngơn tồn thế giới về quyền con người năm 1948 (Universal
Declaration of Human Rights – UDHR)
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
(International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR)
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm
ICESCR
1966 (International Covenant on Economic, Social and Culture
Rights - ICESCR)
UBTVQH
CHLB
Ủy ban thường vụ Quốc hội
Cộng hòa Liên bang
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HẠN CHẾ
QUYỀN CON NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN ....................................................11
1.1. Khái niệm và đặc điểm nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
...................................................................................................................................11
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân .................11
1.1.2. Đặc điểm nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân ..................20
1.2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
...................................................................................................................................26
1.2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật quốc tế về nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân ..............................................................................................26
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền cơng dân ..............................................................................................39
1.3. Vai trị và ý nghĩa của nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
...................................................................................................................................45
Kết luận chương 1 .....................................................................................................49
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC HẠN CHẾ
QUYỀN CON NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH
COVID-19 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ..........................50
2.1. Một số thực trạng quy định của pháp luật về nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 .....................................50
2.1.1. Ưu điểm trong quy định của pháp luật về nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt Nam .................50
2.1.2. Hạn chế trong quy định của pháp luật về nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt Nam .................61
2.2. Một số thực trạng thực hiện nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công
dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ....................................................................70
2.2.1. Ưu điểm khi thực hiện nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt Nam .......................................................70
2.2.2. Hạn chế khi thực hiện nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt Nam .......................................................76
2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về hoàn thiện nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt Nam .....................85
Kết luận chương 2 .....................................................................................................90
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU..........................................................................................94
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người, quyền công dân từ lâu vốn được xem là giá trị cao quý, là
kết tinh từ quá trình đấu tranh gian nan của các dân tộc, nhân dân trên toàn thế giới.
Việc ghi nhận, đảm bảo quyền con người, quyền công dân luôn là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, vấn đề này trở thành nội dung cơ bản
quan trọng của lịch sử lập hiến. Bằng công cụ pháp lý cao nhất của quốc gia, Hiến
pháp ra đời để thực hiện sứ mệnh bảo vệ quyền con người nói chung, quyền cơng
dân nói riêng, giúp mọi thành viên trong xã hội được thụ hưởng quyền lợi chính
đáng của mình mà khơng bị bất kỳ chủ thể nào xâm phạm.
Trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước ta vẫn đang nổ lực tham gia, học
hỏi, kế thừa các Điều ước quốc tế để hướng đến xây dựng các quy định bảo vệ nhân
quyền một cách tiến bộ và hiệu quả. Trong đó, đáng chú ý sự thay đổi tích cực trong
tư duy của các nhà lập hiến Việt Nam về những quy định liên quan đến quyền con
người. Theo đó, việc tập trung hiến pháp hóa quyền con người dù cụ thể đến đâu thì
cũng sẽ bị mất ý nghĩa nếu như những quyền này bị các văn bản dưới Hiến
pháp“cắt xén” một cách tùy tiện. Vì vậy, nhằm ngăn ngừa sự tùy tiện của Nhà nước
thì lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
cơng dân được ra đời, nội dung đó được quy định tại Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp
năm 2013: “Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Ngun tắc này đóng vai
trị là kim chỉ nam tư tưởng chủ đạo trong định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Ở đó, pháp luật khơng phải là các quy định tùy tiện mà phải thể hiện giá trị
như công lý (justice), lẽ công bằng (fairness), lẽ phải (reason) và tính hợp lý
(reasonable)1. Bên cạnh đó, ngun tắc hạn chế quyền là điều kiện tiên quyết để bảo
vệ các quyền con người, quyền công dân được tốt hơn. Như vậy, có thể thấy rằng
Hiến pháp năm 2013 đã hiện thực hóa nguyên tắc hạn chế quyền từ việc tiếp thu, kế
thừa những chuẩn mực có chọn lọc của các Điều ước quốc tế (ĐƯQT) cũng như
1
Bùi Tiến Đạt (2017), Nguyên tắc giới hạn quyền con người: Ý nghĩa, nhu cầu giải thích và định hướng áp
dụng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19, tr. 14.
2
tinh thần tiến bộ của thế giới về quyền con người. Trong đó nổi bật là văn kiện quốc
tế Tuyên ngơn tồn thế giới về quyền con người (Universal Declaration of Human
Rights), được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948
tại Palais de Chaillot ở Paris, Cộng hòa Pháp đã quy định ở Điều 29: “Trong việc
thực thi các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do
luật định, nhằm mục tiêu đảm bảo sự thừa nhận và tôn trọng quyền và quyền tự do
của những người khác, cũng như những thỏa mãn những địi hỏi chính đáng về đạo
đức, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ”. Thêm vào
đó, nhằm ngăn chặn sự lạm dụng quyền để giới hạn quyền tùy tiện, tại Điều 30 cũng
tuyên bố rằng: “Không một điều nào trong bản Tuyên ngôn này được hiểu và hàm ý
cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền có những việc làm
hay hành động nhằm triệt tiêu quyền và tự do được thừa nhận ở đây”.
Vào ngày 23 tháng 01 năm 2020, được xem là sự kiện nổi bật đánh dấu mốc
khi Việt Nam phát hiện ca nhiễm virus COVID-19 (SARS-CoV-2) lần đầu tiên tại
Bệnh Viện Chợ Rẫy, TP. Hồ Chí Minh2. Để đối phó trước tình hình dịch bệnh diễn
biến phức tạp chưa từng có tiền lệ, Đảng và Nhà nước Việt Nam trong tư thế sẵn
sàng quyết tâm đưa ra các quyết sách, chiến lược với phương châm “chống dịch
như chống giặc”. Trong tình trạng đó, Việt Nam đã hạn chế các quyền con người,
quyền công dân nhằm bảo đảm sức khỏe cộng đồng và lợi ích của mọi người xung
quanh. Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh COVID-19 là
điều cần thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và các quy định pháp luật quốc tế. Tuy
vậy, vì các biện pháp đưa ra mang tính khẩn cấp nên đã có nhiều dấu hiệu vi phạm
các quy định về quyền con người, quyền công dân, mà cụ thể ở đây là quy định về
nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận.
Theo đó, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng ngun tắc được đặt ra, khơng
phải vì Việt Nam mới ban hành quy định về hạn chế quyền con người, quyền cơng
dân nên chưa kịp điều chỉnh, hồn thiện vấn đề này trong khn khổ pháp luật mà
cịn xuất phát từ thực tiễn lần đầu tiên Việt Nam, cũng như trên thế giới phải đối
mặt với “kẻ thù vơ hình” – đại dịch COVID-19.
2
Báo Tiền Phong, “Chuyện ít biết về ca mắc COVID-19 đầu tiên tại Việt Nam”,
[ truy cập
ngày 30/04/2022.
3
Từ lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “Nguyên tắc hạn chế quyền con người,
quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19” là vấn đề mang tính cấp thiết
cao, đang được quan tâm hết sức rộng rãi. Do đó, ở cấp độ khóa luận tốt nghiệp, tác
giả quyết định chọn nội dung này làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, các đề tài nghiên cứu hạn chế quyền con người, quyền công dân
được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều hình thức và khía cạnh khác nhau như:
luận văn, bài báo khoa học, sách chun khảo,...có thể kể đến những cơng trình tiêu
biểu sau:
Các cơng trình nghiên cứu ở phạm vi ngồi nước như:
Aharon Barak, Proportionality: Constituitional Rights and Their Limitations –
Tính tương xứng: Các quyền hiến pháp và giới hạn của chúng (Doron Kalir trans,
Cambridge University Press, 2012);
Gudmundur Alfresson & Asbjorn Eide (2010), Tuyên ngôn Phổ quát về Quyền
con người năm 1948, Nxb. Lao động – Xã hội;
Jack Donnelly, Universal Human Rights in Theory and Practice – Lý luận và
thực tiễn về Nhân quyền toàn cầu (2nd edn, Manas Publications 2005);
John Stuart Mill (2005), Bàn về tự do, Nguyễn Văn Trọng dịch, Nxb. Tri thức,
Hà Nội;
Richard Clayton and Hugh Tomlinson (eds), The Law of Human Rights, 2nd
edn, Oxford University Press 2009;
Robert Alexy, A Theory of Constituitional Rights – Học thuyết về các quyền
Hiến định, Julian Rivers dịch (Oxford: Clarendon Press, 2002).
Đa phần các cơng trình này tập trung nghiên cứu về học thuyết, triết lý về tư
tưởng hạn chế quyền con người được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật của các
quốc gia. Làm cơ sở để Việt Nam kế thừa vận dụng nguyên tắc này vào trong Hiến
pháp của quốc gia mình.
Ở phạm vi trong nước, giáo trình, sách chuyên khảo, tạp chí của một số học
giả uy tín như:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hiến
pháp Việt Nam, Nxb. Hồng Đức. Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công
4
dân được phân tích với các nội dung được ghi nhận tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp
năm 2013 thể hiện tại giáo trình này nhằm mục đích phục vụ việc học tập, nghiên
cứu và giảng dạy.
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận và pháp luật
về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Các nội dung của quyền con
người trong giáo trình được phân tích khá tồn diện với các vấn đề liên quan đến
quyền con người trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng Quang (chủ biên) (2019), Nguyên tắc hạn
chế quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, Nxb. Tư pháp.
Quyển sách đề cập các nội dung của nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam được tác giả nghiên cứu,
phân tích và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nguyên tắc
hạn chế quyền con người, quyền công dân.
Lưu Đức Quang (2016), Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người, quyền
công dân, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. Tác giả đã giới thiệu các nguyên tắc của
Hiến pháp về quyền con người, quyền cơng dân. Qua đó, ngun tắc giới hạn quyền
con người, quyền công dân được tác giả giới thiệu và phân tích dựa trên các nội
dung của nguyên tắc.
Bùi Tiến Đạt (chủ biên) (2021), Nguyên tắc trình tự pháp luật cơng bằng và
hợp lý và vai trị bảo vệ quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. Tác giả
phân tích nội dung của nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền cơng dân được
phân tích từ pháp luật quốc tế và quy trình lập pháp tại pháp luật Việt Nam. Trong
đó, tác giả chủ yếu tập trung vào phân tích ngun tắc trình tự pháp luật cơng bằng,
hợp lý để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trên thực tiễn thực hiện nguyên
tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân tại pháp luật Việt Nam.
Trung tâm Nghiên cứu về quyền con người và quyền công dân, khoa luật, Đại
học quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và
Chính trị năm 1966 và chính trị (ICCPR 1966), Nxb. Hồng Đức. Các nội dung được
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại cuốn sách này
được dịch và phân tích cụ thể nội dung từng điều khoản hạn chế quyền con người,
quyền công dân, cũng như các điều kiện áp dụng được quy định tại Công ước này.
5
Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (2012), Một số vấn đề cơ
bản của Hiến pháp các nước trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. Đây là
quyển sách viết về các quan điểm trong quá trình biên tập sửa đổi Hiến pháp năm
1992 thành Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công
dân với những quan điểm khác nhau trong q trình lập hiến được phân tích cụ thể.
Bài viết Nhận diện các nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân trong Hiến pháp năm 2013 – Kỷ yếu Hội thảo Triển khai thi hành
chế định “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong Hiến
pháp năm 2013 –Khoa Luật hành chính, Trường Đại học Luật TP. HCM tổ chức –
ngày 28/8/2015 của Tác giả Luận văn. Bài viết phân tích và bình luận liên quan đến
nội dung ngun tắc hạn chế quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong
Hiến pháp năm 2013.
Bùi Tiến Đạt (2015), Hiến pháp hóa nguyên tắc giới hạn quyền con người:
Cần nhưng chưa đủ, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 06, tr. 03-11. Tác giả phân
tích nguyên tắc giới hạn quyền con người theo Luật Nhân quyền quốc tế, kinh
nghiệm từ một số quốc gia, đề xuất áp dụng phương pháp phân tích cân xứng nhằm
bảo đảm tính hợp hiến trong việc giới hạn các quyền con người trong quá trình thực
hiện Hiến pháp năm 2013.
Lê Thị Thu Hằng (2019), Hoàn thiện pháp luật về hạn chế quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Khoa học Kiếm sát, số 04, tr.
50-57. Tác giả tập trung phân tích về quy định của nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và việc thực hiện
nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân trong thực tiễn tại Việt Nam.
Từ đó, tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị góp phần hồn thiện ngun tắc hạn chế
quyền con người, quyền công dân trong pháp luật Việt Nam.
Nguyễn Tiến Đức (2018), Giới hạn quyền con người trong Công ước Nhân
quyền Châu Âu và gợi mở cho Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 04, tr.
60-69. Bài viết nghiên cứu quyền con người trong Công ước Nhân quyền châu Âu
năm 1950 đồng thời đối chiếu với Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013, từ đó đưa
ra một số đề xuất về vấn đề giới hạn quyền con người ở Việt Nam.
Trương Hồng Quang (2018), Nhu cầu giải thích quy định về hạn chế quyền
6
con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 03, tr.03-13. Bài viết đánh giá nhu cầu cần thiết khi giải thích quy định hạn
chế quyền con người, quyền công dân trong thực tế, từ đó đề xuất một số khuyến
nghị cụ thể trong quy định.
Nguyễn Thị Thu Trang (2020), Quyền con người trong đại dịch COVID-19,
Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 07, tr. 50-62. Bài viết phân tích, đánh giá lý luận
về quyền con người – quyền tự nhiên mang tính xã hội và lý giải quyền cá nhân
phải hài hịa với quyền tập thể, từ đó phân tích những chính sách của Việt Nam
trong đại dịch COVID-19 để thấy được Việt Nam tôn trọng quyền con người. Tác
giả tiếp thu những kiến thức lý luận cũng như mở rộng thêm những vấn đề liên quan
đến thực hiện nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh
đại dịch COVID-19 mà tác giả đang nghiên cứu.
Đinh Thế Hưng (2020), Nguyên tắc hoàn thiện cơ chế liên quan đến hạn chế
quyền con người ở Việt Nam. Bài viết tập trung phân tích nguyên tắc hạn chế quyền
con người, quyền công dân tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 và bình luận,
đưa ra một số ý kiến bổ sung, hoàn thiện nguyên tắc hạn chế quyền con người,
quyền cơng dân trong pháp luật Việt Nam.
Có thể khẳng định, nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân là nội
dung đã được nghiên cứu từ lâu ở các nước trên thế giới cũng như Việt Nam. Vì nó
liên quan đến vấn đề nhân quyền được xem là “xương sống”, linh hồn trong các
bản Hiến pháp nên thu hút sự quan tâm của nhiều học giả và xã hội. Tuy nhiên, các
cơng trình này chỉ dừng lại việc lý luận nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
công dân nhưng chưa nghiên cứu thực tiễn áp dụng nguyên tắc hạn chế quyền trong
đại dịch COVID-19. Do đó, đề tài “Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19” là đề tài mới nên đảm bảo đem lại
tính mới về khoa học của bài khóa luận này.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19”, tác giả hướng đến mục tiêu đưa ra
giải thích các khái niệm pháp lý và phân tích nội dung nguyên tắc hạn chế quyền
con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp. Vì nếu khơng hiểu
7
đúng quy định trong Hiến pháp thì sẽ dễ dẫn đến việc quy định một cách tuỳ tiện,
xâm phạm lợi ích quyền con người, quyền cơng dân. Từ đó, tác giả tiến hành nghiên
cứu thực trạng pháp luật quy định nguyên tắc và thực tiễn áp dụng nguyên tắc hạn
chế quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tại Việt
Nam như thế nào. Qua đó đưa ra những nhận xét đánh giá ưu điểm và hạn chế trong
việc ghi nhận nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân ứng với bối
cảnh COVID-19. Đồng thời từ các kết quả đánh giá trên, trong bài khóa luận này
tác giả mong muốn đưa ra những đóng góp ý kiến đề xuất hữu hiệu, phù hợp với
thực tiễn nhằm hoàn thiện việc hạn chế quyền con người, quyền công dân trong bối
cảnh COVID-19 tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu, các bài viết, tham
luận, tài liệu khoa học pháp lý liên quan đến nguyên tắc hạn chế quyền con người,
quyền công dân và việc vận dụng nguyên tắc trong bối cảnh COVID-19 hiện nay.
4.2. Về phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất: Dưới góc độ lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận
liên quan đến nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân được quy định
trong pháp luật quốc tế và trong Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam.
Thứ hai: Dưới góc độ thực tiễn, đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá các quy
định của pháp luật Việt Nam cũng như việc thực hiện nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Trên cơ sở đó, khóa
luận đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam để hoàn thiện, nâng cao việc
đảm bảo quyền con người, quyền công dân tránh bị cắt xén quyền một cách tùy tiện.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác–Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
khung pháp lý bảo đảm việc hiện nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền cơng
dân. Qua đó góp phần đảm bảo thực hiện quyền con người nói chung và quyền cơng
dân nói riêng tại Việt Nam.
8
Với đề tài khóa luận “Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
trong bối cảnh đại dịch COVID-19”, tác giả không chỉ đơn thuần sử dụng duy nhất
một phương pháp nào, mà dựa theo nội dung của từng chương có sự kết hợp chọn
lọc các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp
phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh để nhằm làm rõ toàn diện vấn đề trong
việc thi hành nguyên tắc quyền con người, quyền công dân hướng đến mục tiêu bảo
đảm nhân quyền. Cụ thể:
Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong
khoá luận. Tác giả vận dụng phương pháp phân tích để làm rõ những vấn đề lý luận
về nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân. Mặt khác, tác giả cịn sử
dụng phương pháp này để phân tích những ưu điểm, nhược điểm, vướng mắc khi áp
dụng nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân xảy ra trong bối cảnh
đại dịch COVID-19, từ đó có những nhận xét đúng đắn về việc thực thi nguyên tắc
hạn chế quyền, góp phần đưa ra những kiến nghị nhằm bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trên thực tế.
Phương pháp tổng hợp: Tác giả tổng hợp những nội dung đã phân tích, triển
khai trước đó trong các phần kết luận chương và kết luận chung, nhằm giúp người
nghiên cứu hiểu được vấn đề cần hướng đến. Đề tài này có sự tham khảo, nhận xét
và kiến nghị trong các cơng trình trước đó. Từ đó, tác giả đưa ra quan điểm của
mình về quy định hiện hành và đề xuất kinh nghiệm trong việc thực hiện nguyên
tắc. Ngoài ra, phương pháp tổng hợp cịn được sử dụng trong việc tìm kiếm, lựa
chọn tài liệu, thông tin phù hợp với đề tài nghiên cứu.
Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu nhằm đối
chiếu những nội dung được ghi nhận về nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
công dân qua các văn bản pháp luật quốc tế và Hiến pháp Việt Nam. Qua đó, đánh
giá được tầm quan trọng và ý nghĩa của nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
công dân. Đặc biệt khi nguyên tắc hạn chế quyền được vận dụng trong bối cảnh đại
dịch COVID-19, góp phần đưa ra các giải pháp hồn thiện, nâng cao mục tiêu bảo
đảm quyền con người, quyền công dân tại Việt Nam.
Việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học giúp sáng tỏ đối tượng
cần nghiên cứu, nó có ý nghĩa rất lớn để giải quyết các bất cập, mâu thuẫn và những
9
quy định chưa rõ của pháp luật về nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công
dân, đây là mong muốn lớn nhất của tác giả hướng đến để hoàn thành khóa luận.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Khóa luận giải quyết một cách có hệ thống và cơ bản những
vấn đề mang tính lý luận, pháp lý, thực tiễn về nguyên tắc hạn chế quyền con người,
quyền công dân theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Khóa luận sẽ làm rõ
mối liên hệ liên quan giữa các quy định của pháp luật quốc tế với pháp luật Việt
Nam về vấn đề này. Trên cơ sở phân tích thực tiễn, từ đó xây dựng những kiến nghị
có cơ sở khoa học góp phần nâng cao hiệu quả, bảo đảm thực hiện nguyên tắc hạn
chế quyền con người, quyền cơng dân.
Giá trị ứng dụng: Khóa luận hồn thành có thể được dùng để làm tài liệu tham
khảo cho việc tìm hiểu, học tập, phổ biến, nghiên cứu những quy định của pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam về nội dung nguyên tắc hạn chế quyền con người,
quyền cơng dân. Hơn hết bài khóa luận có tính thực tế vì nguyên tắc hạn chế quyền
con người, quyền công dân được áp dụng ngay trong bối cảnh COVID-19.
7. Bố cục của Khoá luận
Đề tài “Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh
đại dịch COVID-19” có kết cấu gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận. Trong đó, phần nội dung của đề tài gồm 2 chương:
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HẠN CHẾ QUYỀN CON
NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN
1.1. Khái niệm và đặc điểm nguyên tắc hạn chế quyền con ngƣời, quyền công
dân
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
1.1.2. Đặc điểm nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
1.2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc hạn chế quyền con ngƣời, quyền công dân
1.2.1.Nội dung cơ bản của pháp luật quốc tế về nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân
10
1.2.2.Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân
1.3. Vai trò và ý nghĩa của nguyên tắc hạn chế quyền con ngƣời, quyền công
dân
Kết luận chƣơng 1
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC HẠN CHẾ QUYỀN CON
NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
2.1. Một số thực trạng quy định của pháp luật về nguyên tắc hạn chế quyền
con ngƣời, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19
2.1.1. Ưu điểm trong quy định của pháp luật về nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt Nam
2.1.2. Hạn chế trong quy định của pháp luật về nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt Nam
2.2. Một số thực trạng thực hiện nguyên tắc hạn chế quyền con ngƣời, quyền
công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19
2.2.1. Ưu điểm khi thực hiện nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt Nam
2.2.2. Hạn chế khi thực hiện nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt Nam
2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về hoàn thiện nguyên tắc hạn chế
quyền con ngƣời, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ở Việt
Nam
Kết luận chƣơng 2
KẾT LUẬN
11
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HẠN CHẾ QUYỀN CON
NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN
1.1. Khái niệm và đặc điểm nguyên tắc hạn chế quyền con ngƣời, quyền
công dân
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
Khái niệm quyền con người, quyền công dân
Trước khi đi vào nghiên cứu về khái niệm nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân, tác giả mong muốn tìm hiểu sự khác biệt về khái niệm
quyền con người và quyền công dân.
Trước hết là khái niệm quyền con người, hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác
nhau về quyền con người nhưng chưa có một khái niệm thống nhất. Theo kết luận
của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền (United Nations High
Commissioner for Human Rights – UNHCHR) có đưa ra định nghĩa quyền con
người như sau: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu (universal
legal guarantees) có tác dụng bảo vệ tất cả các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản của con người
(fundamental freedoms)”3. Một định nghĩa khác được nêu ra: “Quyền con người là
những sự cho phép mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại khơng phân
biệt giới tính, chủng tộc, tơn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay khi sinh ra, đơn giản
chỉ vì họ là con người”4. Ngồi ra quyền con người còn được khái quát như sau:
“Quyền con người là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu khơng
được hưởng thì chúng ta sẽ khơng thế sống như một con người”5. Các nhà nghiên
cứu tại Việt Nam cũng đưa ra rất nhiều cách diễn giải khác nhau về thuật ngữ này,
theo đó, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn
3
Đại học Luật Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2009), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 41.
4
Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2009), chú thích số 4, tr. 41.
5
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 21.
12
có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia
và các thỏa thuận pháp lý quốc tế6.
Trên cơ sở những định nghĩa về quyền con người có thể rút ra kết luận chung:
quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có, khách quan của con
người, là những đặc quyền “bẩm sinh” mà trời phú cho, miễn là con người được
sinh ra thì đương nhiên sẽ được hưởng các quyền này, không phân biệt chủng tộc,
quốc gia, tôn giáo, giới tính hay bất kỳ hình thức nào và khơng ai có thể xem
thường hay xâm phạm. Do đó, Nhà nước không được quyền chối bỏ mà phải công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo quyền con người. Không làm được điều này tức là
Nhà nước đã không coi người dân quốc gia mình đang được hưởng tư cách là một
con người.
Tiếp đến là định nghĩa về quyền công dân, quyền cơng dân có thể hiểu là
những quyền con người được Nhà nước thừa nhận và áp dụng cho những người có
quốc tịch của nước mình7. Cũng có một định nghĩa khác cho rằng, khác với quyền
con người, các quyền thuộc nhóm quyền cơng dân chỉ được Nhà nước đặt ra đối với
công dân mang quốc tịch của quốc gia mình, khi đó cơng dân được tự do thực hiện
những hành vi mà pháp luật khơng cấm với ý chí của mình và Nhà nước có trách
nhiệm tạo điều kiện cho cơng dân được thụ hưởng quyền theo ý chí của họ8. Theo
đó, quyền cơng dân được xác định có mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với nhà
nước cụ thể, Nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ phải ghi nhận và đảm bảo thực hiện
quyền công dân của mỗi cá nhân mang quốc tịch nước mình, song cơng dân cũng
phải có nghĩa vụ tơn trọng và tn thủ pháp luật, cá nhân không thực hiện nghĩa vụ
này thì phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước mình. Như vậy, quyền công dân gắn
liền với khái niệm quốc tịch, trong Điều 17 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi
nhận: “Cơng dân nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch
Việt Nam”. Nếu cơng dân mang quốc tịch Việt Nam thì được hưởng các quyền và
phải thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật do Nhà nước Việt Nam quy định, và
6
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 37.
7
Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia
Hà Nội. Trích theo Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng Quang (chủ biên) (2019), Nguyên tắc hạn chế quyền
con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, Nxb. Tư Pháp, tr. 12.
8
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Hồng
Đức, tr. 146.
13
ngược lại những người không mang quốc tịch Việt Nam thì sẽ có một số quyền và
nghĩa vụ của họ bị hạn chế.
Quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung cơ bản quan
trọng trong Hiến pháp các quốc gia. Tuy khái niệm giữa quyền con người, quyền
cơng dân có phạm trù rất gần gũi nhau là đều ghi nhận quyền của cá nhân và được
ghi nhận, bảo đảm thực hiện bằng các quy định của pháp luật. Song, không thể đồng
nhất hai quyền này khi xét đến hai phương diện về mặt chủ thể và nội dung của
quyền, cụ thể là:
Thứ nhất, về chủ thể của quyền, chủ thể quyền con người ngoài những cá nhân
được xác định là công dân gắn liền với nhà nước cụ thể, cịn bao gồm những người
khơng phải là cơng dân như người nước ngồi, người khơng quốc tịch, người bị
pháp luật quốc gia tước quyền công dân,… Những người này tuy không được xác
định là công dân nhưng vẫn có quyền tự nhiên vốn có của một con người như quyền
sống, quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng,
danh dự, nhân phẩm... Như vậy, vì quyền con người khơng bị giới hạn bởi chế định
quốc tịch, khơng bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước nên quyền
con người vừa mang tính tồn cầu, vừa mang tính địa phương và nội dung quyền
được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người trong cộng đồng nhân loại
thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi tồn cầu, khơng phụ thuộc vào biên
giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền9. Trong khi
đó, chủ thể của quyền cơng dân phải là những người có mối liên hệ pháp lý với
quốc gia, có tác động trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia được Nhà nước thừa
nhận và áp dụng cho người có quốc tịch nước mình được hưởng, ví dụ như quyền
bầu cử, ứng cử, quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước… Đồng thời các cơ chế
bảo vệ, thúc đẩy việc thực hiện các quyền công dân sẽ được quy định trong pháp
luật của mỗi quốc gia. Vì vậy, về mặt chủ thể, quyền cơng dân có phạm vi tác động
hẹp hơn so với quyền con người.
Thứ hai, về nội dung của quyền, quyền công dân là những giá trị gắn liền với
một nhà nước nhất định và được nhà nước đó bảo hộ bằng pháp luật quốc gia đối
9
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 30.
14
với những người mang quốc tịch nước mình. Tuy nhiên, không phải ai cũng được
hưởng các quyền công dân của một quốc gia nhất định và không phải mọi hệ thống
quyền công dân của mọi quốc gia đều giống hệt nhau, cũng như hồn tồn tương
thích với hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người10 mà phụ thuộc vào
tính đặc thù của mỗi quốc gia như trình độ lập pháp, đặc điểm, hồn cảnh, tình hình
kinh tế - xã hội – chính trị, văn hóa của mỗi quốc gia đó, thậm chí cịn phụ thuộc
vào ý chí, đặc điểm của giai cấp thống trị, còn “Quyền con người là một khái niệm
rộng hơn, nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lý về quyền cá nhân ở phạm vi quốc tế,
vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc gia nhất định”11. Quyền con
người bao hàm quyền công dân như một bộ phận, nội dung cơ bản của quyền con
người nhưng không thể thay thế được khái niệm quyền công dân. Ngược lại, quyền
công dân là khái niệm hẹp hơn nhưng không thể bao quát hết tất cả các quyền tự
nhiên vốn có của con người.
Nói tóm lại, quyền con người và quyền cơng dân có mối quan hệ biện chứng
mật thiết, có tác động lẫn nhau chứ không hề tách biệt hay độc lập nhau. Nội hàm
quyền cơng dân khơng thể nằm ngồi quyền con người và ngược lại khơng có
quyền con người nào lại không bao hàm quyền công dân như một bộ phận, nội dung
cơ bản cấu thành nên quyền con người. Việc ghi nhận và đảm bảo quyền công dân
trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia chính là việc ghi nhận và bảo đảm quyền con
người. Thừa nhận mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa quyền con người, quyền
công dân trong hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế góp phần xác định các điều
kiện cần thiết để bảo đảm quyền con người được thực hiện trên thực tế.
Khái niệm nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân
“Nguyên tắc” là một thuật ngữ sử dụng khá phổ biến trong khoa học Luật
Hiến pháp. “Nguyên tắc” hay còn gọi là “Principium” có nguồn gốc từ tiếng
Latinh mang ý nghĩa là luận điểm cơ bản, luận điểm gốc của học thuyết12. Theo từ
điển Tiếng Việt, nguyên tắc được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân
10
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 40.
11
Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về quyền con người quyền cơng dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.
26.
12
Lưu Đức Quang (2016), Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người, quyền cơng dân, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, tr. 11.
15
theo trong một loạt việc làm”13. Theo từ điển Thuật ngữ lý luận nhà nước và pháp
luật, tác giả Thái Vĩnh Thắng cho rằng: “Nguyên tắc pháp luật là những tư tưởng
chỉ đạo, những định hướng cơ bản trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
Nguyên tắc pháp luật có thể chia thành nguyên tắc chung (nguyên tắc của tồn bộ
hệ thống pháp luật), ngun tắc của một nhóm các ngành luật và nguyên tắc của
chế định pháp luật”14. Từ định nghĩa trên có thể hiểu, xét về phạm vi tác động, luật
Hiến pháp có hai loại nguyên tắc là nguyên tắc chung và nguyên tắc cụ thể. Nguyên
tắc chung đặt nền tảng cho toàn bộ ngành luật Hiến pháp, nhằm xác định rõ những
nguyên lý, thể chế chính trị quốc gia, tư tưởng chỉ đạo được ghi nhận trong toàn bộ
hệ thống pháp luật. Nguyên tắc cụ thể đặt nền tảng cho mỗi chế định của luật Hiến
pháp, thể hiện rõ bản chất và những đặc trưng của pháp luật. Mặt khác, với tính chất
là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật Hiến pháp là
một hệ thống bao gồm: “các nguyên tắc, các chế định, và các quy phạm pháp luật
Hiến pháp”15. Để xây dựng thành một hệ thống hoàn chỉnh, Hiến pháp dựa trên các
nguyên tắc, đồng thời nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể khi tham gia vào
quan hệ luật Hiến pháp. Ở góc độ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, những
nguyên tắc hiến định được xem là cơ sở để xây dựng và hình thành các nguyên tắc
pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật khác16. Bảo vệ quyền con người,
quyền công dân là một chức năng, nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước và là một đặc
tính quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Tuy vậy, quyền con người, quyền công
dân không phải bao giờ cũng là các quyền tuyệt đối trong mọi trường hợp. Nói cách
khác, quyền con người, quyền cơng dân hồn tồn có thể bị hạn chế hoặc giới hạn
trong những trường hợp nhất định. Xét về mặt ngữ nghĩa, thuật ngữ “Hạn chế” theo
từ điển Tiếng Việt được định nghĩa là: “Cho một mức tối đa không được quá (hạn
chế hút thuốc)17”. Hạn chế là một từ Hán Việt, được phân tích như sau: “Hạn” là
mức độ đã được định sẵn, không thể vượt qua được, “chế” là kiềm giữ lại trong
13
Viện Ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng –Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà
Nẵng, tr. 672.
14
Thái Vĩnh Thắng (2008), Từ điển Thuật ngữ lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 181-183.
15
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 11.
16
Nguyễn Minh Đoan (chủ biên) (2006), Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 10.
17
Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb. Thanh Niên, tr. 181.
16
một mức độ nhất định. Sự hạn chế quyền là một hiện tượng bình thường và phổ
biến bởi theo nhà triết học người Anh John Stuart Mill: “Tất cả những gì đem lại
giá trị cho sự tồn tại của mỗi người phụ thuộc vào sự thực thi kiềm chế hành động
của người khác. Vì vậy, một số quy tắc cư xử nào đó phải được áp đặt, trước hết
bằng pháp luật… Những quy tắc ấy phải như thế nào là một vấn đề nguyên tắc
trong hoạt động của con người?”18. Như vậy, chỉ khi một nhà nước pháp quyền có
trách nhiệm thượng tơn pháp luật, ở đó pháp luật phải thể hiện các giá trị như tính
cơng khai, minh bạch, dễ tiên liệu, cơng bằng và khả thi thì việc đặt ra nguyên tắc
hạn chế quyền mới được đảm bảo. Đây cũng là nguyên tắc được thừa nhận
trong“Bộ luật nhân quyền quốc tế”19 với nhiều cách diễn đạt khác nhau:
Cụ thể, Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người năm 1948 (Universal
Declaration of Human Rights - UDHR) đã quy định nguyên tắc giới hạn quyền tại
Điều 29: “Trong việc thực thi các quyền và tự do, mọi người chỉ phải chịu những
hạn chế do luật định, nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận, tôn trọng quyền và tự
do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những địi hỏi chính đáng về
đạo đức, trật tự cơng cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.
Dựa trên tinh thần này, Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) xác
định: “Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xảy ra đe doạ sự sống cịn của quốc
gia và đã được chính thức cơng bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những
biện pháp hạn chế các quyền nêu ra trong Công ước này, trong chừng mực do nhu
cầu khẩn cấp của tình hình, với điều kiện những biện pháp này không trái với
những nghĩa vụ khác của quốc gia đó xuất phát từ luật pháp quốc tế và khơng chứa
đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn
giáo hoặc nguồn gốc xã hội”.
18
John Stuart Mill (2005), Bàn về tự do, Nguyễn Văn Trọng dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr. 25.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên hợp quốc được thành lập, phòng trao về quyền con người ngày càng
lên cao và lan tỏa trên phạm vi toàn thế giới. Dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc nhiều văn kiện và Điều ước
quốc tế về bảo hộ quyền con người được ký kết, trong đó nổi bật là Tuyên ngôn Phổ quát về Quyền con
người năm 1948 (Universal Decleration of Human Rights) viết tắt là: UDHR; Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966 viết tắt là: ICCPR; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm
1966 viết tắt là: ICESCR. (Xem chi tiết: Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hỏi đáp về quyền con người,
Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền công dân, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2011, tr. 70).
19
17
Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966
(Internatioal Covenant on Economic, Social and Culture Rights - ICESCR) thì
khẳng định: “Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng, trong khi ấn định các quyền
mà mỗi cá nhân được hưởng phải phù hợp với các quy định của Công ước này, mỗi
quốc gia chỉ có thể đặt ra những hạn chế bằng các quy định pháp luật trong chừng
mực những hạn chế ấy khơng trái với bản chất của các quyền nói trên và hồn tồn
vì mục đích thúc đẩy phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.
Như vậy, theo cách hiểu phổ biến trên thế giới, sự hạn chế đối với một quyền
con người là việc Nhà nước không cho phép các chủ thể thụ hưởng quyền có thể
thực hiện quyền đó ở mức độ tuyệt đối20. Tuy nhiên, nó vẫn cho phép Nhà nước
được quyền áp đặt điều kiện hay hạn chế việc thực hiện một số quyền con người,
quyền cơng dân vì một số lý do, mục đích hợp lý, đáp ứng nhu cầu chính đáng, để
nhằm hướng đến bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng. Vấn đề này được ghi nhận
trong Luật Nhân quyền quốc tế và Hiến pháp của nhiều quốc gia dưới những hình
thức và mức độ diễn đạt khác nhau. Cũng cần lưu ý rằng, hạn chế quyền sẽ bị coi là
vi phạm nếu chứa đựng yếu tố bất hợp lý, lợi ích đạt được thấp hơn thiệt hại xảy ra.
Về tổng thể có thể hiểu hạn chế quyền là việc hiến pháp hoặc một văn bản pháp luật
khác của quốc gia có điều khoản hạn chế (limitation clause) cho phép giới hạn áp
dụng một quyền, tự do cá nhân trong một mức độ nhất định, nhằm cân bằng giữa
quyền, tự do cá nhân đó với lợi ích chính đáng, hợp lý của cộng đồng và quyền, tự
do của cá nhân khác21.
Bên cạnh đó, quan điểm quyền con người mang tính tương đối được thừa nhận
rộng rãi22. Quyền con người là các quyền tự nhiên vốn có nhưng khơng có nghĩa là
các quyền không thể bị Nhà nước hạn chế. Nếu quyền con người mang tính tuyệt
đối, tất yếu sẽ có xu hướng làm cho con người không thể gắn kết được với nhau
thành một xã hội, dẫn đến sự phá hủy xã hội. Bởi vậy, mục đích và cũng là lí do của
sự hạn chế quyền con người, quyền công dân là bảo đảm quyền tự do của người
20
Aharon Barak: Proportionality: Constitutional Rights and Their Limitations, Doron Kalir (dịch),
Cambridge University Press, 2012, Ibid, p. 102. Trích theo Bùi Tiến Đạt (chủ biên) (2021), Ngun tắc trình
tự pháp luật cơng bằng, hợp lý và vai trị bảo vệ quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 187.
21
Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng Quang (chủ biên) (2019), Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
công dân theo Hiến pháp năm 2013, Nxb. Tư pháp, tr. 21.
22
Nguyễn Tiến Đức (2018), Giới hạn quyền con người trong Công ước nhân quyền Châu Âu và gợi mở cho
Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 04, tr. 60-69.
18
khác mà cũng để bảo đảm sự yên bình, hài hòa trong xã hội. Tuy nhiên, việc đưa ra
nguyên tắc hạn chế này không phải cho cơ quan Nhà nước lạm dụng quyền để tùy
tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nhưng phải do
luật quy định. Với tư cách là tổ chức quyền lực cơng, Nhà nước phải có trách nhiệm
tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Do đó, việc hạn chế
thực hiện quyền chính là điều kiện để đảm bảo tính hiện thực quyền con người,
quyền cơng dân, đồng thời góp phần đảm bảo sự cân bằng giữa các lợi ích trong
mối quan hệ Nhà nước – Con người, Công dân, Cá nhân, bảo đảm sự minh bạch và
lành mạnh của các mối quan hệ này23.
Cần lưu ý thêm, hạn chế quyền không đồng nhất với tạm đình chỉ thực hiện
quyền. Xét về bản chất của hạn chế quyền là sự giới hạn phạm vi áp dụng của
quyền hay nói cách khác là định rõ ranh giới về vấn đề vi phạm quyền con người
nhằm hướng tới mục đích sâu xa để bảo vệ quyền của cá nhân này trước sự lạm
quyền của cá nhân, tổ chức khác hoặc bảo đảm cân bằng giữa lợi ích của cá nhân,
lợi ích của người khác và của cộng đồng. Do đó, nguyên tắc hạn chế quyền được áp
dụng trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, với những điều kiện nhất định, chứ
khơng cần đợi đến khi xuất hiện tình trạng khẩn cấp. Trong khi đó, theo Luật Nhân
quyền quốc tế, trong những tình trạng khẩn cấp đe doạ sự sống cịn của đất nước
(state of emergency), quốc gia có thể tạm đình chỉ (hay tạm dừng) việc thực hiện
một số quyền con người (derogation of rights) trong một thời gian nhất định24 25. Về
hình thức, để bảo vệ sự sống còn của quốc gia – dân tộc trong bối cảnh khẩn cấp
này, việc tạm đình chỉ có thể thơng qua các biện pháp cụ thể như: thiết quân luật
(trên cả nước, ở một khu vực hay một địa phương); cấm biểu tình, hội họp đơng
người; cấm hoặc hạn chế hoạt động của một số cơ quan thông tin đại chúng như
truyền hình, phát thanh, báo đài; cấm đi lại, ra vào một khu vực hoặc xuất nhập
cảnh (với một số cá nhân hay nhóm); cấm tổ chức các hoạt động tôn giáo...26 Những
23
Trương Hồng Quang (2018), “Nhu cầu giải thích quy định về hạn chế quyền con người, quyền cơng dân
của Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 03, tr. 03-13.
24
Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng Quang (chủ biên) (2019), Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
công dân theo Hiến pháp năm 2013, Nxb. Tư pháp, tr. 26-27.
25
Lã Khánh Tùng, Vũ Công Giao (2014), ABC về các quyền dân sự chính trị cơ bản, (tài liệu lưu hành nội
bộ), tr. 30-31, tại: [ truy cập: 14/05/2022.
26
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 71.