Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Bảo lĩnh theo luật tố tụng hình sự việt nam và kinh nghiệm cho nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

XOPNGEUN THAVIXAY

BẢO LĨNH THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ KINH NGHIỆM CHO
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BẢO LĨNH THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ KINH NGHIỆM CHO
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Chuyên ngành: Luật Hình sự & Tố tụng Hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. LÊ NGUYÊN THANH
Học viên
: XOPNGEUN THAVIXAY
Lớp


: Cao học Luật, khóa 32

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

XOPNGEUN THAVIXAY


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CHDCND

Cộng hòa dân chủ nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC


Tòa án nhân dân tối cao

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................................................ 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ..
............................................................................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ............................. 8
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ..................... 15
1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ....
.......................................................................................................................... 19

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 22
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VÀ SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH ............................................ 23
2.1. Đối tượng và căn cứ áp dụng, hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp bảo
lĩnh trong trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Lào .................... 23
2.2.1. Đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam và Lào................................................................................ 23
2.2.2. Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam và Lào.............................................................................. 25
2.2.3. Căn cứ thay thế, hủy bỏ biện pháp bảo lĩnh trong trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam và Lào ..................................................................... 30
2.2. Điều kiện và thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam và Lào .................................................................... 32
2.2.1. Điều kiện chủ thể nhận bảo lĩnh và trách nhiệm pháp lý của các chủ
thể trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Lào ................................. 32
2.2.2. Thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam và Lào .......................................................................................... 37


2.3. Thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp lĩnh trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam và Lào .................................................................... 39
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 42
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GỢI Ý HỒN THIỆN LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
LÀO VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................... 44
3.1. Quan điểm, bối cảnh hiện nay của luật tố tụng hình sự của nước
Cộng hoàn dân chủ nhân dân Lào và nhu cầu nghiên cứu về biện pháp
bảo lĩnh .......................................................................................................... 44
3.2. Kiến nghị hồn thiện quy định luật tố tụng hình sự lào về biện pháp

bảo lĩnh .......................................................................................................... 54
3.2.1. Hoàn thiện các quy định luật tố tụng hình sự lào về biện pháp bảo
lĩnh ............................................................................................................... 54
3.2.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện .......................................................... 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................... 61
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào đang hướng đến xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chủ trương cải cách
tư pháp nhằm hướng đến bảo vệ quyền con người là mục tiêu quan trọng hàng
đầu của Đảng, Nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, ở Lào việc cải cách tư
pháp vẫn là một trong yêu cầu trong thể thiếu trong việc thúc đẩy quá trình xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền. Để thực hiện các mục tiêu và yêu
cầu cải cách tư pháp nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng là một
nhiệm vụ khơng thể tách rời trong đó đặt ra vấn đề hoàn thiện các quy định liên
quan đến việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. BLTTHS
Lào quy định biện pháp ngăn chặn gồm có: Áp giải, dẫn giải, tạm giữ, bắt, tạm
giam, bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm dừng nghĩa vụ hoặc chức vụ. Trong
các biện pháp này bảo lĩnh được xem là một biện pháp có tính ít nghiêm khắc
và được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng khi không cần thiết phải tạm
giam. Khi áp dụng biện pháp bảo lĩnh, các bị can, bị cáo không bị hạn chế một
số quyền như quyền tự do đi lại, quyền tự do cư trú, mà vẫn đảm bảo mục đích
phịng ngừa và ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội, các hành vi cản trợ
điều tra, truy tố, xét xử. Có thể khẳng định rằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
là một biện pháp ưu việt và trong thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2004, sửa

đổi bổ sung năm 2012 đã khẳng định vai trò quan trọng của BLTTHS, trong đó
có các quy định về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong cơng cuộc đấu tranh
phịng chống tội phạm nói riêng, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự
an tồn xã hội bảo vệ cuộc sống bình u của nhân dân, tạo mơi trường ổn định
cho sự nghiệp phát triển của Lào. Tuy nhiên, chế định bảo lĩnh trong BLTTHS
Lào ít được sử dụng bởi hiện nay những quy định về việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn này vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Một số nội dung chưa được
quyết định rõ ràng và còn thiếu nhiều quy phạm hướng dẫn cụ thể, khiến cho
việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong thực tế gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn này,
cũng như có thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những
người bị áp dụng.


2
Trong khi đó, ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động xây dựng và áp dụng luật tố tụng hình sự về biện
pháp bảo lĩnh đã khá phát triển và đặt được nhiều bước tiến đáng kể. Là một
quốc gia thuộc hệ thống Luật Thành văn (Civil Law). Quốc gia này quy định rất
chi tiết căn cứ áp dụng, chủ thể áp dụng, những trường hợp không được áp dụng
bảo lĩnh, cũng như trách nhiệm pháp lý của các chủ thể…. Do đó, có thể xem
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quốc gia điển hình và tiên
phong trong việc quy định về bảo lĩnh. Việc nghiên cứu, so sánh quy định về
biện pháp bảo lĩnh trong luật tố tụng hình sự Lào với quy định của luật tố tụng
hình sự Việt Nam, từ đó đưa ra các đề xuất cụ thể để hoàn thiện quy định của
luật tố tụng hình sự Lào về biện pháp bảo lĩnh là rất cần thiết. Cần phải nghiên
cứu, tìm hiểu và làm sáng tỏ các vướng mắc cịn tồn tại của biện pháp bảo lĩnh
để từ đó làm rõ hơn về mặt khoa học pháp lý cũng như về mặt thực tiễn áp dụng
biện pháp bảo lĩnh, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, hướng
tới sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn nữa luật tố tụng hình sự Lào. Vì lý do

trên, học viên chọn đề tài “Bảo lĩnh theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và kinh
nghiệm cho nước Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào” làm luận văn thạc sĩ Luật
học với mong muốn góp phần hồn thiện lý luận về biện pháp bảo lĩnh trong tố
tụng hình sự Lào, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của việc quyết định,
hoạt động áp dụng biện pháp này trên đời sống tố tụng hình sự Lào trong thời
gian sắp tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ở Việt Nam, Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự đã được rất nhiều
chuyên gia Luật học nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau trong đó phải
kể đến một số cơng trình nghiên cứu sau đây:
- Về sách chun khảo, giáo trình phải kể đến các cơng trình sau đây:
+ Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình luật tố
tụng hình sự Việt Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức;
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nhà xuất bản Cơng an nhân dân; Nguyễn Ngọc Chí (2018), Giáo trình Luật tố


3
tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội. Đây là những
giáo trình đặc thù về lý luận khoa học tố tụng hình sự Việt Nam trong đó có cơ
sở lý luận và quy định luật thực định về biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
Việt Nam, làm nguồn tham khảo cho quá trình hồn thiện luận văn.
+ Trần Quang Tiệp (2011), Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế
trong tố tụng hình sự (Sách chun khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Trong sách đã phân tích những vấn đề lý luận chung về tự do cá nhân và biện
pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự; Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự Việt Nam trong đó có biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự. Đây là
nguồn tài liêu có giá trị tham khảo cho quá trình kiến nghị của luận văn.
- Về luận văn, luận án phải kể đến các cơng trình sau đây:

+ Nguyễn Trọng Phúc (2010), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
Trong luận án đã nghiên cứu những vấn đề cụ thể của chế định các biện pháp
ngăn chặn trong có đó biện pháp bảo lĩnh và thực tiễn áp dụng, thay thế, hủy bỏ
chúng, qua đó luận án đã đánh giá những tồn tại, nguyên nhân của chính. Đồng
thời đã đưa ra hệ thống các giải pháp hoàn thiện chế định các biện pháp ngăn
chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
của các chế định biện pháp ngăn chặn trong đời sống tố tụng hình sự.
+ Hồng Thị Diệp (2014), Biện pháp bảo lĩnh trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học quốc gia Hà Nội. Trong
luận văn đã nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, phân tích các khía cạnh của Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam hiện hành và Bộ luật tố tụng hình sự của một số nước
trên thế giới quy định về biện pháp bảo lĩnh, đồng thời nghiên cứu tình hình áp
dụng biện pháp ngày trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, làm sáng tỏ những
bất cập hạn chế, đưa ra những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
bảo lĩnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
+ Nguyễn Thị Hiền (2017), Biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng
hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Trong luận văn tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận chung và quy định của


4
pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh; phân tích, đánh giá
thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn này và từ đối đưa ra một số giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong thời gian sắp tới.
+ Trần Thanh Huyền (2020), Biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng
hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội. Trong
luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh. Bên cạnh việc đi sâu phân tích các quy định về biện pháp ngăn chặn bảo

lĩnh của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tác giả cũng có so sánh, đối chiếu
với những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để tìm ra được những
hạn chế, bất cập trong Bộ luật tố tụng hình sự cũ đã được sửa đổi, bổ sung triệt
để hay chưa.
- Về các bài viết nghiên cứu khoa học được đăng trên các tạp chí chuyên
ngành luật sau: Trần Quang Tiệp (2006), “Một số vấn đề về biện pháp bảo lĩnh
quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm sát, số 15; Trịnh
Tiến Việt (2010), “Pháp luật về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và hướng sửa đổi,
bổ sung”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 02; Nguyễn Thị Thu Hằng (2020),
“Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hồn thiện”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp số 03+04; Lê Sỹ Đạt (2020), “Về bảo lĩnh trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015”, Tạp chí kiểm sát Số 16, tr. 35-38; Nguyễn Văn Dũng (2002),
“Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và những bất cập”, Tạp chí dân chủ và
pháp luật, Số 12/2002, tr. 33 - 34; Trịnh Tuấn Anh (2014), “ Những vướng mắc
trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và một số
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng”, Tạp chí khoa học cảnh sát nhân dân, Số
04; … Đây là các cơng trình nghiên cứu khoa học rất công phu về lý luận và thực
tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong pháp luật tố hình sự Việt Nam.
Qua thực tiễn nghiên cứu tại một số cơng trình nghiên cứu đã kể trên có thể
khẳng định rằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong pháp luật tố hình sự được sự
quan tâm nghiên cứu với hình thức nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu khác
nhau với nhiều góc độ. Các cơng trình đã đánh giá chuyên sâu và làm rõ những
vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong
pháp luật tố hình sự. Trên tinh thần tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các
cơng trình nghiên cứu đã cơng bố, Luận văn sẽ học hỏi kinh nghiệm lập pháp về


5
những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong
pháp luật tố hình sự Việt Nam từ đó đưa ra những đề xuất để hoàn thiện những

quy định pháp luật về áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong pháp luật tố
hình sự như đưa ra những giải pháp về mặt tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất
lượng áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong pháp luật tố hình sự Lào.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào
Do nước CHDCND Lào là một nước chưa phát triển nhiều và những nguồn
thông tin khoa học còn hạn chế nên tài liệu tham khảo rất ít, dù chưa có nhiều tài
liệu tham khảo nhưng trên thực vẫn có cán bộ nhà nước, người sử dụng pháp luật,
người dân cũng có đề cập nói tới vấn đề biện pháp bảo lĩnh khá là phổ biến như
sau: Trường Đại học quốc gia Lào (2004), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Lào,
Nhà xuất bản tư pháp, Viêng Chăn; Boun Thavy Lee (2003), Kinh nghiệm xây
dựng pháp luật tố tụng hình sự của một số quốc gia ASEAN, Nhà xuất bản Quốc
gia, Viêng chăn; Phu Kham Lenin (2004), Quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật tố tụng hình sự Lào, Nhà xuất bản quốc gia, Viêng Chăn; Bộ tư pháp
Lào (2013), Sổ tay công tác Tư pháp, Viêng Chăn, Phut Sa Đy Bu Đa Phét
(2005)… Các cơng trình trên của Việt Nam và Lào đã nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến lý luận và thực tiễn của biện pháp bảo lĩnh và đã có những kết luận xác
đáng, những kiến nghị hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả của biện pháp ngăn chặn
nói chung và biện pháp bảo lĩnh nói riêng trong cơng tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
liên quan đến vấn đề bảo lĩnh ở Việt Nam. Một số công trình có sự so sánh giữa
các quốc gia với nhau, nhưng đa số chỉ dừng ở mức độ giới thiệu, chứ khơng đi
sâu vào tìm hiểu các quy định, đặc biệt là các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam. Ngồi ra cũng chưa có cơng trình nào tìm hiểu nghiên cứu so sánh
quy định giữa Việt Nam và Lào. Do đó, xét thấy tác giả lựa chọn đề tài trên để
làm luận văn thạc sĩ là hợp lý, có cơ sở khoa học và có sự cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận biện pháp bảo lĩnh
theo BLTTHS Việt Nam; thực tiễn quy định về biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật



6
tố tụng hình sự Việt Nam, học viên sẽ có so sánh với biện pháp bảo lĩnh trong
BLTTHS Lào, từ đó rút ra một số kinh nghiệm lập pháp nhằm hoàn thiện quy
định về biện pháp này trong BLTTHS Lào.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đặt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ
chủ yết như sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
Thứ hai, phân tích và làm rõ một số quy định biện pháp bảo lĩnh trong
BLTTHS Việt Nam, so sánh với BLTTHS của Lào
Thứ ba, đưa ra các kiến nghị cụ thể mang tính chất gợi ý nhằm hoàn thiện
các quy định về biện pháp bảo lĩnh trong luật tố tụng hình sự hiện hành của Lào.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh
trong tố tụng hình sự; Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bảo
lĩnh ở Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về nội dung, luận văn được nghiên cứu quan điểm lý luận và pháp luật
về biện pháp bảo lĩnh trong TTHS Việt Nam, có kết hợp so sánh với BLTTHS
Lào. Đó là các vấn đề: đối tượng và căn cứ áp dụng, điều kiện và thủ tục áp
dụng; thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp bảo lĩnh.
- Về thời gian, Luận văn tập trung nghiên cứu biện pháp bảo lĩnh trong
BLTTHS Việt Nam năm 2015 với BLTTHS hiện hành của Lào từ năm 2016 đến
năm 2020
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong Triết học Mác-Lê Nin về nhà

nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước và pháp luật;


7
quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về chiến lược xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về chiến lược cải cách tư pháp của Lào.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử được sử dụng để làm rõ những
vấn đề lý luận và pháp lý, góp phần so sánh về biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS
Việt Nam và Lào; phương pháp so sánh luật để phát hiện điểm tích cực trong quy
định về biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS Việt Nam, từ đó chọn lọc kinh nghiệm
lập pháp để hoàn thiện BLTTHS Lào. Các phương pháp trên được sử dụng độc
lập hoặc kết hợp với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn nghiên cứu của đề tài
Đề tài “Bảo lĩnh theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và kinh nghiệm cho
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào” là cơng trình nghiên cứu hồn tồn mới
có sự tiếp thu và kế thừa những tinh hoa của những cơng trình nghiên cứu trước
để cung cấp những nội dung, thông tin quan trọng và đáng tin cậy, có giá trị về
hoạt động nghiên cứu xây dựng các quy định biện pháp bảo lĩnh theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam và kinh nghiệm cho nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào;
Kết quả nghiên cứu là là tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu học tập
và giảng dạy mơn Luật tố tụng hình sự ở các cơ sở đào tạo Luật ở Lào.
Kết quả nghiên cứu luận văn đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị của
luận văn có thể áp dụng vào việc nâng cao chất lượng cho các cơ quan có thẩm
quyền tố tụng ở Lào trong việc áp dụng dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong
thời gian sắp tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của đề tài gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự

Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và so sánh
với pháp luật nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về biện pháp bảo lĩnh
Chương 3. Một số gợi ý hoàn thiện luật tố tụng hình sự Cộng hịa dân
chủ nhân dân Lào về biện pháp bảo lĩnh từ việc nghiên cứu luật tố tụng hình sự
Việt Nam


8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng
hình sự
1.1.1. Khái niệm biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
Để thực hiện chức nặng, nhiệm cụ phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát
hiện chính xác, kịp thời và xử lý nghiêm minh hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm và khơng làm oan người vơ tội thì BLTTHS cho phép cơ quan tiến hành tố
tụng áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp cưỡng chế. Các biện
pháp cưỡng chế được hậu hết các giáo trình tố tụng hình sự Việt Nam được chia
thành ba nhóm là:1
- Nhóm một: Những biện pháp ngăn chặn bao gồm: giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt người, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo
đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hỗn xuất cảnh.
- Nhóm hai: Những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ bao
gồm: khám xét (khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, phương tiện, đồ vật,
thư tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử); thu giữ (phương tiện điện tử, dữ
liệu điện tử, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm); tạm giữ đồ vật là vật chứng
và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án; xem xét dấu vết trên thân thể.
- Nhóm ba: Những biện pháp bảo đảm cho các hoạt động khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án bao gồm: áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản,

phong tỏa tài khoản. Ngồi ra cịn có thêm một số quy định về nghĩa vụ khơng
được tiết lộ bí mật điều tra, không được tiết lộ thông tin về vụ án của người bào
chữa (điểm e, điểm g khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015), quy định về nghĩa
vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của người giám định, người phiên dịch (điểm
a, điểm b khoản 3 Điều 68 và điểm a, c, d, khoản 3 Điều 70 BLTTHS năm
2015), quy định về nội quy phiên tòa (Điều 256 BLTTHS năm 2015) và quy
định về thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Chương XXX BLTTHS
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản có
sửa đổi, bổ sung), Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Nxb. Hồng Đức Hội luật gia Việt Nam, tr. 260.
1


9
năm 2015). Với cách phân loại này, chúng ta có thể nhận thức một cách tổng
quan về hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng, đánh giá được mức độ
nghiêm khắc của từng nhóm biện pháp cưỡng chế đồng thời còn nhận thức
được sự khác nhau về đối tượng áp dụng của từng nhóm, mục đích trực tiếp của
từng nhóm biện pháp cưỡng chế. Nhóm biện pháp ngăn chặn có mục đích trực
tiếp là “để kịp thời ngăn chặn tội phạm”, ngăn ngừa người bị buộc tội tiếp tục
phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự. Nhóm biện pháp thứ hai có mục đích trực tiếp là “thu thu thập chứng
cứ, phục vụ cho hoạt động chứng minh vụ án hình sự”.2 Nhóm thứ ba là nhóm
có mục đích “để bảo đảm cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án”.3 Cách phân loại này được đa số các nhà nghiên cứu và hoạt động
thực tiễn trong lĩnh vực tư pháp hình sự hiện nay tán thành, nó cũng đã được
nhà làm luật tiếp thu, ghi nhận thông qua kỹ thuật soạn thảo, sắp xếp nội dung
các điều luật tại Chương VII của BLTTHS năm 2015 (mục I: Biện pháp ngăn
chặn, mục II: Biện pháp cưỡng chế)
Như vậy, trong ba nhóm trên, thì biện pháp ngăn chặn thuộc nhóm thứ
nhất, giữa vị trí vai trò trung tâm hơn cả. Chế định các biện pháp ngăn chặn là

một chế định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự. Việc quy định và áp
dụng một cách đúng đắn, chính xác các biện pháp ngăn chặn là bảo đảm cần
thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS để phát hiện chính xác,
nhanh chóng, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với kẻ phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội. Pháp luật tố tụng hình sự
của các nước trên thế giới đều có quy định về các biện pháp ngăn chặn. Tùy
theo pháp luật của từng nước và ở từng thời điểm khác nhau mà các biện pháp
ngăn chặn được quy định có thể có sự khác nhau về số lượng, tên gọi, thủ tục
áp dụng… Mặc dù vậy, bản chất chung của các biện pháp này đều là các biện
pháp mang tính chất cưỡng chế, do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm
ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn những hành vi gây khó khăn, cản trở cho việc
giải quyết vụ án hình sự. Hiện nay, pháp BLTTHS Việt Nam quy định nhóm
các biện pháp ngăn chặn tại Chương VII Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
gồm có: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang
2
3

Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015. Xem Điều 109. “Các biện pháp ngăn chặn”,
Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015. Xem Điều 126. “Các biện pháp cưỡng chế”,


10
hoặc đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; giữ người trong trường
hợp khẩn cấp; tạm giữ; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để
bảo đảm và tạm hoãn xuất cảnh. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn này có
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cá nhân người bị áp dụng nhất là quyền
nhân thân, quyền tự do cá nhân và các quyền con người cơ bản khác. Các biện
pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc hơn so với các biện pháp cưỡng chế khác
trong TTHS, nên khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố tụng cần cân nhắc thận
trọng, tránh gây thiệt hại đến quyền con người, quyền công dân đã được Hiến

pháp và pháp luật ghi nhận.
Bảo lĩnh là một trong những biện pháp bảo lĩnh được quy định trong tố
tụng hình sự. Về khía cạnh ngôn ngữ, theo Hán Việt Từ điển của Đào Duy
Anh thì bảo lĩnh nghĩa là “nhận, gánh vác trách nhiệm về một việc gì hay một
người nào”4 hay theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ học thì bảo lĩnh
là “dùng tư cách, uy tín của mình để bảo đảm cho hành động, tư cách của
người khác”5.
Còn ở khía cạnh pháp lý, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau xung
quanh khái niệm bảo lĩnh, có thể nêu ra một số quan điểm sau: Theo GS. TS Võ
Khánh Vinh cho rằng “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được quy định trong
BLTTHS do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam đối
với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn tạm giữ,
tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng
thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị
can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa
án”6. Ở quan điểm này đã nói lên được những nội dung cơ bản về biện pháp
ngăn chặn bảo lĩnh như chỉ ra được bản chất của biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh là
biện pháp thay thế biện pháp tạm tạm, nêu được đối tượng áp dụng, điều kiện áp
dụng cũng như mục đích khi áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Tuy nhiên, chủ
thể nào có thẩm quyền áp dụng, căn cứ cụ thể để áp dụng biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh thì chưa được tác giả đề cập đến.
Đào Duy Anh (2005), Hán Việt Từ Điển, Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin, Hà Nội.
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng
6
Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2004), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, Hà Nội
4
5



11
Cịn theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn
chặn của tố tụng hình sự áp dụng thay thế cho biện pháp tạm giam được các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức
làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra,
truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến
hành tố tụng”7. Ở quan điểm này đã được tác giả đã nêu được đối tượng áp dụng,
các cơ quan có thẩm quyền áp dụng, hình thực và mục đích áp dụng của biện pháp
bảo lĩnh, nhưng lại chưa làm rõ căn cứ áp dụng, cũng như nhân thân của người bị áp
dụng. Quan điểm của tác giả cũng chưa đề cập đến cơ sở pháp lý của việc áp dụng,
hoặc theo TS. Trần Quang Tiệp cho rằng “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo có nhân thân, lý lịch rõ ràng,
để thay thế biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục
phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm sự có mặt của họ theo
giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng khi cần”8 Quan điểm này đã nêu
lên được đối tượng áp dụng của biện pháp bảo lĩnh là bị can, bị cáo và nhân thân
của họ, đưa ra được mục đích của việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Tuy nhiên tác
giả cũng chưa đề cập cụ thể về cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền áp dụng, chưa nêu rõ căn cứ và hình thức áp dụng biện pháp bảo lĩnh.
Tác giả Nguyễn Mai Bộ cho rằng: ”Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn do cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân áp dụng đối với bị
can, bị cáo thể hiện ở việc cá nhân hoặc tổ chức đứng ra nhận trách nhiệm
không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị
cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng”9. Mặc dù khái niệm này
đã nêu được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, hình thức
và mục đích áp dụng nhưng lại chưa đưa ra căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh.
Nhìn chung có thể thấy, cùng một khái niệm “bảo lĩnh” nhưng lại có nhiều
quan điểm khác nhau, về cơ bản các quan điểm trên ở phương diện nào đó đã chỉ
ra được nội hàm của khái niệm bảo lĩnh. Tuy nhiên, đi vào phân tích cụ thể từng
quan điểm một ta thấy lại có những hạn chế nhất định như: có quan điểm nêu ra

Nguyễn Ngọc Chí (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội
Trần Quang Tiệp (2011), Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự (Sách chuyên
khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.151
9
Nguyễn Mai Bộ (2004), Biện pháp ngăn chặn, khám xét và kê biện tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự,
Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội tr.184-185.
7
8


12
được bản chất của bảo lĩnh nhưng lại không nếu căn cứ áp dụng, có quan điểm
chỉ ra được căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng thì lại thiếu các nội dung liên
quan đến điều kiện áp dụng, mục đích áp dụng... Có sự khác nhau như vậy là vì
hiện nay chưa có bất kỳ sự hướng dẫn cu thể nào của các nhà làm luật cũng như
chưa có sự thống nhất chung trong giới khoa học về nội hàm của khái niệm bảo
lĩnh, do đó dẫn đến việc khái niệm này hiểu theo nhiều nghĩa.
Dưới góc độ pháp luật thực định Việt Nam hiện hành, lần đầu tiên các biện
pháp ngăn chặn được quy định một cách đầy đủ và có hệ thống, trong đó có biện
pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Cụ thể, tại Chương V BLTTHS năm 1988 (từ Điều 61
đến Điều 77) quy định biện pháp ngăn chặn bao gồm: Bắt người, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Theo đó, biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh lần đầu tiên được quy định tại Điều 75
BLTTHS Việt Nam năm 1988 với nội dung: “Cá nhân hoặc tổ chức có thể nhận
bảo lĩnh bị can, bị cáo. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy
cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị
can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án.
Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thơng báo về
những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh. Trong trường hợp
cá nhân nhận bảo lĩnh thì ít nhất phải có hai người”10 . Như vậy BLTTHS Việt

Nam năm 1988 đã có những quy định khá cụ thể về các trường hợp áp dụng, đối
tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng, chủ thể nhận bảo lĩnh cũng như thủ tục áp
dụng biện pháp bảo lĩnh. Việc quy định biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS năm
1988 và các văn bản pháp luật đã thể hiện sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp, nó vừa
đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, trật tự pháp luật được giữ vững, các
quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng lại vừa là phương
tiện hữu hiệu đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt
hiệu quả cao nhất. Qua tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thi hành, đã khẳng định vai
trò quan trọng của BLTTHS của Việt Nam năm 2003 trong cơng cuộc đấu tranh
phịng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội,
bảo vệ cuộc sống bình n của nhân dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển
kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
10

Quốc hội (1987), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1987, Xem Điều 75


13
xã hội chủ nghĩa. Những hạn chế trong các quy định về biện pháp bảo lĩnh dần
được khắc phục, bổ sung tại Điều 92 trong BLTTHS năm 2003 để biện pháp này
đạt hiệu quả hơn, phát huy tốt tác dụng tích cực của nó trong cơng tác đấu tranh
phịng, chống tội phạm, cụ thể biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 đã quy định “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp
tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án có
thể quyết định cho họ được bảo lĩnh”11. Để đảm bảo các quyền con người được
thực hiện, Đảng và Nhà nước luôn chủ trương xây dựng nhiều chính sách pháp
luật mang tính nhân đạo hướng tới bảo vệ các giá trị con người. Pháp BLTTHS
cũng được xây dựng trên nguyên tắc đó. Pháp luật cho phép các cơ quan tiến
hành tố tụng sử dụng các biện pháp ngăn chặn trong những trường hợp cần thiết,

phù hợp với mục đích của biện pháp, khơng gây ảnh hưởng tới các quyền cơ bản
của công dân.
Để khắc phục những hạn chế về quy định biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
trong BLTTHS năm 2003, trên tinh thần nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được quy định tại Điều 8
BLTTHS năm 2015, BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản
về biện pháp bảo lĩnh, tại Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định
“Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh” như vậy
BLTTHS năm 2015 đã hướng hoàn thiện hơn, quy định chặt chẽ hơn, chi tiết
hơn về biện pháp bảo lĩnh, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể người bảo lĩnh là cá nhân thì
phải đủ 18 tuổi trở lên; có thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý được người
bảo lĩnh. Trong giấy cam đoan, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị
can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 BLTTHS.
Thứ hai, bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện
các nghĩa vụ. Trong trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì
bị tạm giam.
11

Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, Xem khoản 1 Điều 92


14
Thứ ba, quyết định cho bảo lĩnh của những người có thẩm quyền quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 113 của BLTTHS năm 2015 phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Thứ tư, thời hạn áp dụng biện pháp cho bảo lĩnh cũng được quy định đầy
đủ hơn, cụ thể: Thời hạn áp dụng không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc

xét xử. Thời hạn áp dụng đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể
từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
Thứ năm, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi
phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền
theo quy định của pháp luật.
Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam các với biện pháp bảo
đảm trong dân sự. Hiểu biết về biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, sẽ
tránh được tình trạng nhầm lẫn với biện pháp bảo đảm bảo lãnh trong dân sự.
Việc làm sáng tỏ hai biện pháp bảo lĩnh và bảo lãnh sẽ hạn chế những hiểu lầm
trong việc sử dụng thuật ngữ pháp lý và trong việc nhận biết bản chất pháp lý
của chúng. Như đã trình bày ở trên, biện pháp bảo lĩnh được quy định trong
BLTTHS, do chủ thể có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, khi có đủ
căn cứ và điều kiện do pháp luật quy định nhằm bảo đảm không để bị can, bị
cáo cản trở điều tra, truy tố, xét xử... Còn biện pháp bảo lãnh được điều chỉnh
bởi pháp luật dân sự, được hiểu là việc người thứ ba cam kết với người có
quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà
người đó khơng thực hiện hoặc khơng có khả năng thực hiện. Bảo lãnh nhằm
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong giao kết hợp đồng. Căn cứ áp dụng
biện pháp bảo lãnh có thể do các bên tự thỏa thuận. Đối tượng của bảo lãnh
được ghi nhận là thực hiện một công việc hoặc vật, tiền, tài sản có giá trị thì
đối tượng của bảo lĩnh là bị can, bị cáo. Biện pháp bảo lãnh thể hiện mối quan
hệ xã hội bình đẳng, trên cơ sở tự nguyện của 3 bên, người bảo lãnh, người
nhận bảo lãnh và người được bảo lãnh. Các mối quan hệ trong biện pháp bảo
lĩnh tuy có 3 bên nhưng trong đó lại thể hiện quan hệ mang tính quyền uy phục tùng giữa Nhà nước và bị can, bị cáo. Vì thế, trách nhiệm của các bên
trong mối quan hệ ấy cũng khác nhau. Bảo lãnh trong dân sự cho phép các bên
có thể thực hiện quyền thay cho nhau hoặc thỏa thuận lại, còn biện pháp bảo


15
lĩnh không như vậy, các quyền và nghĩa vụ được phân định rõ ràng, mang tính

cá thể hóa trách nhiệm hình sự.
Qua việc phân tích và tổng hộp các quan điểm của biện pháp bảo lĩnh, có
thể đưa ra một định nghĩa khoa học, đầy đủ về khái niệm như sau:
“Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự do cơ quan có thẩm quyền áp dụng theo luật định, căn cứ
vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân
của bị can, bị cáo khi không cần thiết phải tạm giam nhưng xét thấy cần ngăn
chặn việc họ có thể cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đáp ứng được các điều
kiện luật định, được người thân thích hoặc cơ quan, tổ chức mà bị can, bị cáo là
thành viên đứng ra cam đoan không để cho bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và có
mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, Tòa án
nhân dân”.
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, biện pháp bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn, thay thế biện pháp
tạm giam, được áp dụng có tính tùy nghi nếu thấy cần thiết.
Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS. Điều
này được ghi nhận qua những quy định trong BLTTHS năm 2015 về những biện
pháp ngăn chặn bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Cùng với những biện pháp này,
BLTTHS hiện hành đã có quy định cụ thể và chi tiết tại chương VII về thẩm
quyền áp dụng, căn cứ áp dụng, thủ tục áp dụng đối với mỗi loại biện pháp. Biện
pháp bảo lĩnh được chủ thể của cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị
cáo trong những trường hợp cần thiết nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử được thuận lợi, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả cơng cuộc
đấu tranh phịng và chống tội phạm, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
Việc bảo lĩnh áp dụng trước khi bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam hoặc khi bị can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam. Áp
dụng trước khi bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nghĩa là bị can,
bị cáo thuộc các trường hợp bị tạm giam được quy định tại Điều 119 BLTTHS,



16
nhưng do họ được người thân hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ công tác bảo lĩnh và
được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận cho họ được áp dụng biện pháp bảo
lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam mà lý ra họ có thể bị áp dụng. Áp dụng khi
bị can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam là khi bị can, bị cáo đang bị
tạm giam, họ được người thân hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ công tác bảo lĩnh và
được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận cho họ được áp dụng biện pháp bảo
lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam mà họ đang bị áp dụng. Đối với biện pháp
bảo lĩnh đây được xem là biện pháp ngăn chặn thay thế cho tạm giam bởi vì nó
thường được áp dụng trong những trường hợp không đến mức cần thiết phải tạm
giam nhưng vẫn cần thiết phải ngăn chặn, phòng ngừa bị can, bị cáo tiếp tục
phạm tội hoặc gây cản trở trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. BLTTHS năm
2015 cũng nêu rõ nếu như bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì sẽ bị
tạm giam. Ngồi ra trong trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm giam thì cơ quan
tiến hành tố tụng cũng có thể xem xét để cho họ được áp dụng biện pháp bảo
lĩnh nếu xét thấy đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Điều
này hoàn toàn phụ hợp với nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Để giúp cho quá trình giải quyết vụ án
hình sự đảm bảo sự đúng đắn, hợp lý, khách quan thì những người có thẩm
quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng khi quyết định áp dụng các biện pháp
ngăn chặn phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và
nhân thân của người bị áp dụng..
Thứ hai, bảo lĩnh là một biện pháp ngăn chặn có tính ít nghiêm khắc. Nói như
vậy là xét trong mối tương quan giữa biện pháp tạm giam và biện pháp bảo lĩnh.
Đây cũng là đặc điểm thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta đối với một số loại tội
phạm, với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là ít nghiêm trọng
hoặc phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt... thì những bị can, bị cáo có thể được áp
dụng biện pháp bảo lĩnh. Người được bảo lĩnh không bị hạn chế các quyền công

dân khác như những bị can, bị cáo bị tạm giữ, tạm giam nếu họ không gây trở ngại,
khó khăn cho q trình điều tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án. Điều này cũng tránh cho họ phải chịu áp lực tạm giam chung với tội phạm
chuyên nghiệp. Biện pháp bảo lĩnh là một biện pháp ngăn chặn có tính ít nghiêm
khắc trong số các biện pháp ngăn chặn của TTHS. Nếu so với biện pháp tạm giam


17
thì tính nghiêm khắc của biện pháp bảo lĩnh thấp hơn nhiều. Khi bị tạm giam đối
tượng bị cách ly với thế giới bên ngồi cịn đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh
thì khơng bị cách ly tách ra khỏi đời sống trước đó của mình. Họ vẫn sinh hoạt làm
việc bình thường tự do đi lại và chỉ phải chịu sự giám sát của những cá nhân hoặc
cơ quan, tổ chức đứng ra nhận bảo lĩnh cho họ sao cho đảm bảo sự có mặt của họ
mỗi khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập, đảm bảo họ không vi phạm những
điều kiện luật định cũng như không tiếp tục phạm tội mới. Nếu so với biện pháp đặt
tiên để bảo đảm thì giữa biện pháp này và biện pháp bảo lĩnh có nhiều điểm pháp
luật quy định gần giống nhau về mặt hình thức chỉ khác ở chỗ đối với biện pháp đặt
tiền thì chính bị can, bị cáo dùng tiền của mình để bảo đảm cho mình được tại ngoại
cịn đối với biện pháp bảo lĩnh thì chỉ cần có bên thứ ba (cá nhân, cơ quan hoặc tổ
chức) đứng ra cam kết nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo được tại ngoại. Trong mỗi
tương quan với những biện pháp ngăn chặn khác như bắt, tạm giữ, cấm đi khỏi nơi
cư trú thì biện pháp bảo lĩnh cũng ít nghiêm khắc hơn. Chính vì vậy có quan điểm
cho rằng nếu như biện pháp tạm giam được xem là biện pháp ngăn chặn mang tính
nghiêm khắc nhất thì ngược lại biện pháp bảo lĩnh lại là biện pháp ngăn chặn ít
nghiêm khắc nhất. Có thể nói biện pháp bảo lĩnh là một biện pháp ngăn chặn tiến bộ
của pháp BLTTHS Việt Nam thể hiện được tính nhân đạo của Nhà nước ta nhất là
khi mà quyền con người, quyền công dân ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm
hơn từ cộng đồng quốc tế.
Thứ ba, biện pháp bảo lĩnh chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo. Biện
pháp bảo lĩnh chỉ áp dụng đối với một số đối tượng nhất định có nghĩa là biện

pháp này áp dụng theo đối tượng chứ không phải là áp dụng cho mọi đối tưởng vụ
án đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh chỉ có thể là bị can, bị cáo. Trong
nhóm các biện pháp ngăn chặn có biện pháp áp dụng được cho chủ thể này nhưng
lại không áp dụng được cho chủ thể khác và cũng có những biện pháp chỉ áp dụng
được đối với một số chủ thể nhất định trong đó có biện pháp bảo lĩnh. Theo quy
định của BLTTHS năm 2015 thì chỉ có bị can, bị cáo mới có thể trở thành đối
tượng bị áp dụng của biện pháp bảo lĩnh. Nghĩa là biện pháp bảo lĩnh chỉ có thể
được áp dụng đối với người bị khởi tố về hình sự (bị can) hoặc người đã bị tịa án
quyết định đưa ra xét xử (bị cáo). Ngồi bị can, bị cáo ra thì khơng có bất kỳ đối
tượng nào khác có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Không phải tất cả các


18
bị can, bị cáo thuộc đối tượng bị tạm giam đều có thể được áp dụng biện pháp
ngăn chặn bảo lĩnh mà chỉ bị can, bị cáo thuộc đối tượng bị tạm giam và có đủ các
căn cứ, điều kiện áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 109 và khoản 1 Điều 121
BLTTHS năm 2015 thì mới có thể được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh.
Thực tiễn cho thấy, bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn này phải là
phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ khai báo
thành khẩn… đồng thời có cá nhân hoặc tổ chức đứng ra nhận bảo lĩnh
Thứ tư, thẩm quyền áp dụng thuộc về các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
nhân dân, Tòa án. Thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định
cụ thể theo chức danh tư pháp để tránh cái tình trạng lập quyền và xây dựng
trách nhiệm cá nhân theo chức danh cá nhân khi một người đã ký lệnh thì
người đó phải chịu trách nhiệm cá nhân cho nên ai làm sai đâu người đó phải
chịu với các quy định phải hiểu rằng là việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
nó xâm phạm với lợi ích cá nhân con người cho nên khi người ta áp dụng về
thẩm quyền áp dụng họ phải chặt chẽ, phải xây dựng được trách nhiệm cá nhân.
Vì biện pháp bảo lĩnh là một trong những biện pháp cưỡng chế trong TTHS nên
việc quyết định áp dụng thuộc thẩm quyền của các cơ quan có thẩm quyền tố

tụng. chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh là những
người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án), khi xét thấy các căn cứ và điều kiện để áp dụng biện pháp
ngăn chặn bảo lĩnh đã đáp ứng theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể có thẩm
quyền ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, đề nghị cá nhân
hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh làm giấy cam đoan về nghĩa vụ bảo lĩnh của mình..
Những cơ quan này chỉ được thực hiện trong phạm vi quyền hạn và trách
nhiệm của mình nếu vượt quá phạm vi quyền hạn được giao cũng bị xử lý tùy
theo mức độ nhất định. Nếu áp dụng không đúng pháp luật về trình tự, thủ tục
sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo cũng như
ảnh hưởng đến cả quá trình tiến hành tố tụng và cả người có thẩm quyền áp
dụng. Do đó khi áp dụng biện pháp bảo lĩnh cơ quan tiến hành tố tụng phải
thận trọng, khách quan, xem xét đầy đủ các điều kiện, căn cứ áp dụng cũng như
các tình tiết, tài liệu của mỗi vụ án cụ thể để có thể định hướng xử lý cho mỗi
vụ án, mỗi bị can, bị cáo riêng biệt từ đó quyết định áp dụng những biện pháp
tố tụng cụ thể khác nhau một cách phù hợp.


19
Thứ năm, có sự xuất hiện của bên nhận bảo lĩnh. Theo quy định của
BLTTHS năm 2015 thì cá nhân hoặc tổ chức có thể đứng ra nhận bảo lĩnh cho
bị can, bị cáo. Cá nhân bảo lĩnh: đây là trường hợp hai hoặc nhiều người tự
nguyện đứng ra với tư cách cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo; cam kết
không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm họ sẽ có mặt theo giấy
triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh
thì người này phải là người thân thích của bị can, bị cáo (trường hợp này ít nhất
phải có hai người). Quy định này xuất phát từ lý do người thân thích là người
có điều kiện quản lý và giám sát bị can, bị cáo. Ngoài ra, người nhận bảo lĩnh
phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Đây là đặc điểm đặc trưng nhất giúp phân biệt biện pháp bảo lĩnh với các biện

pháp ngăn chặn khác trong TTHS. Sự xuất hiện của bên nhận bảo lĩnh là nhằm
giám sát việc thực hiện nghĩa vụ của bị can, bị cáo đồng thời cũng ràng buộc
trách nhiệm của chính cá nhân hoặc tổ chức đứng ra nhận bảo lĩnh. Nếu cá
nhân hoặc tổ chức đứng ra nhận bảo lĩnh mà để cho bị can, bị cáo vi phạm
nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị phạt tiền
theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ pháp lý của bên nhận bảo lĩnh sẽ phát
sinh kể từ khi có quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh từ phía cơ quan iến
hành tố tụng. Có thể nói sự tham gia của bên nhận bảo lĩnh là một trong những
yếu tố quyết định việc cơ quan tiến hành tố tụng có chấp nhận cho bị can, bị
cáo được áp dụng bảo lĩnh hay khơng.
Thứ sáu, mục đích của biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh là nhằm bảo đảm
không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử
đồng thời bảo biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh tạo điều kiện để bị can, bị cáo không
bị cách ly khỏi cộng đồng, xã hội cùng với đó là nhận được sự giúp đỡ, giám sát,
giáo dục từ phía gia đình, khơng bị hạn chế các quyền tự do, miễn sao việc thực
hiện các quyền đó khơng gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
Bảo lĩnh là một biện pháp ngăn chặn có ít tính nghiêm khắc, thể hiện
chính sách pháp BLTTHS nhân đạo của Nhà nước, thể hiện tính ưu việt, vượt
trội hơn các biện pháp khác hướng tới đề cao quyền con người. Với tư cách là
một biện pháp ngăn chặn, bảo lĩnh có vị trí, vai trò và, ý nghĩa ý nghĩa rất lớn


×