BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LÊ NHẬT HỒNG
BẢO HỘ NHÃN HIỆU ÂM THANH
THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
BẢO HỘ NHÃN HIỆU ÂM THANH
THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số chuyên ngành: 8380103
Người hướng dẫn khoa học : TS. NGUYỄN XUÂN QUANG
Học viên
: LÊ NHẬT HỒNG
Lớp
: 20CHDS_K34_NC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiễn sĩ
Nguyễn Xuân Quang. Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng một số thơng
tin từ các Bộ luật, Luật, nguồn sách, tạp chí, tài liệu, các trang thông tin điện tử, báo
mạng... được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về
nghiên cứu của mình.
Tác giả
Lê Nhật Hồng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ được viết tắt
STT Từ viết tắt
1
CPTPP
Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific
Partnership)
2
WIPO
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property
Organization)
3
USPTO
Cơ quan cấp bằng sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (United States
Patent and Trademark Office)
Hội đồng xét xử kháng cáo nhãn hiệu Hoa Kỳ (Trademark Trial
and Appeal Board)
4
TTAB
5
Luật SHTT Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi bổ sung bởi luật số
36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009, Luật số
2/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm 2019 và Luật số
07/2022/QH15 ngày 16 tháng 6 năm 2022.
6
TMEP
Sổ tay hướng dẫn nhãn hiệu về quy trình kiểm tra (Trademark
Manual of Examining Procedure)
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu đề tài .................................................................................8
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu ................9
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết ....................................................................11
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÃN HIỆU ÂM THANH ......12
1.1. Khái quát nhãn hiệu âm thanh ....................................................................12
1.1.1. Lược sử phát triển của nhãn hiệu âm thanh ............................................12
1.1.2. Định nghĩa nhãn hiệu âm thanh ..............................................................16
1.2. Đặc điểm nhãn hiệu âm thanh .....................................................................20
1.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh .............................................23
1.4. Thách thức trong việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh ....................................27
Kết luận chương 1 .................................................................................................30
CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU ÂM THANH .....31
2.1. Là dấu hiệu âm thanh theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ ...................31
2.2. Có khả năng phân biệt ..................................................................................37
2.1.1. Âm thanh có tính phân biệt cố hữu (inherently different or distinctive
sound) ................................................................................................................38
2.1.2. Âm thanh khơng có tính phân biệt cố hữu (non-inherently different of nondistinctive sound) ..............................................................................................42
2.3. Không thuộc các trường hợp không được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn
hiệu........................................................................................................................49
2.4. Được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ..................................52
Kết luận Chương 2. ...............................................................................................54
CHƯƠNG 3. THỦ TỤC ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU ÂM THANH VÀ
CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ NHÃN HIỆU ÂM THANH ....................................56
2.1. Hồ sơ đăng ký nhãn hiệu âm thanh .............................................................56
2.2. Bảo vệ nhãn hiệu âm thanh..........................................................................62
2.2.1. Các biện pháp bảo vệ nhãn hiệu âm thanh ..............................................63
2.2.2. Đăng ký quốc tế về nhãn hiệu âm thanh .................................................64
Kết luận chương 3 .................................................................................................68
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................70
Danh mục tài liệu tham khảo .................................................................................73
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển của lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung là biểu hiện của một xã hội
tiến bộ, phát triển, bởi các giá trị trí tuệ được đề cao, bảo vệ và thúc đẩy sự sáng tạo.
Các quốc gia trong đó có Việt Nam khơng ngừng có những nỗ lực trong việc ghi
nhận, sửa đổi, bổ sung các điều khoản nhằm hồn thiện hành lang pháp lý về Luật Sở
hữu trí tuệ. Sự đóng góp của lĩnh vực sở hữu trí tuệ đến kinh tế đóng một vai trị vơ
cùng quan trọng, bởi nó tạo cơ sở, động lực cho sự phát triển ấy. Khi đời sống xã hội
phát triển, con người ta lựa chọn cho mình những sản phẩm phù hợp với nhu cầu, khả
năng và mục đích của mình thay vì chỉ đáp ứng vấn đề “đủ ăn, đủ mặc” như trước
đây, các công ty, cơ sở sản xuất, kinh doanh lần lượt tạo dấu ấn cho riêng mình để
gây ấn tượng với người tiêu dùng không chỉ bởi chất lượng mà còn bởi những yếu tố
khác. Nhãn hiệu ra đời như một cơ sở pháp lý, thực tiễn để giúp người tiêu dùng phân
biệt được hàng hoá, dịch vụ của các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, đồng
thời giúp cho các chủ thể tạo ra sản phẩm, dịch vụ này có cơ hội để tạo hiệu ứng,
khẳng định được vị thế, nét đặc trưng của mình.
Bởi chính sự phát triển và nhu cầu ngày càng đa dạng của đời sống xã hội,
những dấu hiệu đơn thuần như chữ viết, hình ảnh khơng đủ để doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất, kinh doanh có thể sử dụng để tạo điểm khác biệt và đặc trưng cho sản phẩm,
dịch vụ của mình. Sức sáng tạo của con người cịn vượt xa hơn thơng qua các hình
thức khác mà người ta gọi là “phi truyền thống”1, chẳng hạn như dấu hiệu là mùi
hương, mùi vị và cả âm thanh. Thực tế cho thấy, hiệu ứng âm thanh ngày càng trở
thành yếu tố hữu hiệu để tạo nên sự phân biệt của người tiêu dùng với hàng hố, dịch
vụ, thậm chí là yếu tố thu hút khách hàng. Tốc độ phát triển của khoa học và công
nghệ đã dẫn đến việc truyền tải thơng tin thuận lợi hơn. Đây cũng chính là cơ hội
nhưng đồng thời là thách thức cho các doanh nghiệp khi phải liên tục đổi mới, sáng
tạo để người tiêu dùng ấn tượng, nhận diện thương hiệu của mình trên thị trường vơ
cùng đa dạng này. Các dấu hiệu âm thanh được sử dụng kết hợp với hình ảnh, chữ
1
Olga Morgulova (2017), Non-traditional trademarks Registration of aural and olfactory signs as trademarks
in accordance with the latest amendments of the European Trademark Regulation 2015/2424 and Trademark
Directive 2015/2436, Master Programme in Intellectual Property Law, Uppsala Universitet, p.10,11.
2
viết ngày càng phổ biến hơn, bởi nhìn chung nó tạo hiệu ứng hấp dẫn, kích thích khả
năng phân biệt về thính giác của con người.
Các Hiệp ước quốc tế ra đời đã có những sự chú trọng nhất định đối với việc
ghi nhận rộng rãi nhãn hiệu phi truyền thống, trong đó, đặc biệt là nhãn hiệu âm thanh.
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức
có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 14/01/2019 quy định “Không Bên nào được
yêu cầu, như một điều kiện để được đăng ký, là dấu hiệu phải nhìn thấy được, cũng
như khơng Bên nào được từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do rằng dấu hiệu
cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh”. Như vậy, việc thừa nhận hay nói cụ thể hơn là
tạo khung pháp lý về nhãn hiệu âm thanh là yêu cầu mà Việt Nam phải thực hiện để
tiệm cần với nền pháp lý quốc tế trong xu hướng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới vốn đặt sở hữu trí tuệ ở một vị trí quan trọng.
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2022 (Luật số 07/2022/QH15) đã
chính thức ghi nhận dấu hiệu âm thanh có thể được đăng ký bảo hộ dưới danh nghĩa
nhãn hiệu. Tuy nhiên, nội dung các quy định chỉ mới dừng lại ở việc là pháp luật sở
hữu trí tuệ có ghi nhận dấu hiệu âm thanh để bảo hộ mà chưa có một quy chế pháp lý
nào đặc thù liên quan nội dung này về điều kiện bảo hộ cũng như quy trình đăng ký.
Khác với những dấu hiệu truyền thống khác mà người tiêu dùng có thể nhận thức
được bằng thị giác, nhãn hiệu âm thanh đòi hỏi sự phân biệt về mặt tần suất, nhịp
điệu, cấu tạo âm thanh bởi thính giác của con người. Ngoài ra, việc đánh giá dấu hiệu
âm thanh cũng địi hỏi có các đặc trưng nhất định. Việc ghi nhận một cách chung
chung, đơn giản vơ hình chung đã tạo nên khó khăn cho cơng tác thẩm định hay trong
quá trình sáng tạo và đăng ký dấu hiệu âm thanh làm nhãn hiệu của các doanh nghiệp.
Như vậy, quy định này cũng chưa thực sự mang lại hiệu quả trong khi việc thực thi
Hiệp định CPTPP cần phải có sự thiện chí, xúc tiến đúng lộ trình. Mặt khác, với nhu
cầu của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập tồn cầu, tính cấp thiết của việc
hiệu quả hoá hành lang pháp lý điều chỉnh nhãn hiệu âm thanh là vô cùng cấp bách.
Từ những nội dung trên, tác giả lựa chọn đề tài “Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh
theo pháp luật sở hữu trí tuệ” làm đề tài luận văn Thạc sĩ. Cơng trình sẽ khái qt
các vấn đề chung về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, quy định của pháp luật quốc tế, pháp
luật một số quốc gia và thực tiễn các tranh chấp có liên quan đến nhãn hiệu âm thanh
trên thế giới để từ đó có cái nhìn đa chiều, khách quan nhằm đưa ra những đề xuất
3
mang tính xây dựng để hồn thiện khung pháp lý của Luật Sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu
âm thanh về điều kiện bảo hộ cũng như quy trình đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu âm thanh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến nội dung đề tài, tại Việt Nam vẫn chưa có một cơng trình ở cấp
độ luận văn Thạc sĩ nghiên cứu chuyên sâu về nhãn hiệu âm thanh ở khía cạnh pháp
luật sở hữu trí tuệ có cập nhật Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí
tuệ, được thơng qua ngày 16 tháng 6 năm 2022. Tuy nhiên, có nhiều bài viết trên các
tạp chí chuyên ngành, Hội thảo khoa học có các đánh giá, bàn luận về nhãn hiệu âm
thanh nói riêng hay nhãn hiệu phi truyền thống nói chung, các cơng trình nghiên cứu
về nhãn hiệu phi truyền thống khác. Mỗi cơng trình nghiên cứu, đánh giá những khía
cạnh nhất định xoay quanh điều kiện bảo hộ dấu hiệu là âm thanh, cơ chế thẩm định
nó. Ở nước ngồi, nhiều cơng trình như sách, tạp chí khoa học chun ngành cũng có
nghiên cứu và phân tích nội dung này, trong đó đề cập đến những vụ việc tranh chấp
cụ thể, phương hướng giải quyết và cơ chế để công nhận một dấu hiệu là nhãn hiệu
âm thanh. Tuy nhiên, nhìn chung, vẫn chưa có một cơng trình nào tập trung phân tích
một cách đầy đủ, chun sâu, có tính hệ thống ở cấp độ một luận văn Thạc sĩ. Một số
cơng trình giá trị, liên quan đến nội dung đề tài có thể kể đến mang giá trị tham khảo
cao như sau:
Nhóm khố luận, luận văn, luận án
Liên quan đến vấn đề nhãn hiệu nói chung và cơ chế bảo hộ một dấu hiệu dưới
danh nghĩa nhãn hiệu, có thể kể đến cơng trình của tác giả Phan Ngọc Tâm (2011),
Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng – nghiên cứu so sánh pháp luật Liên minh châu Âu và
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Luận án cung cấp hệ thống kiến thức tham khảo quan trọng, nền tảng về nhãn hiệu,
về bản chất, đặc trưng của nhãn hiệu nói chung và một nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng.
Đây là tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả có cứ liệu xây dựng hoàn thiện phần
những vấn đề chung về nhãn hiệu âm thanh của mình.
Ngồi ra, ở cấp độ luận văn, cịn có cơng trình tiếng nước ngồi của tác giả
Olga Morgulova (2017), Non-traditional trademarks Registration of aural and
olfactory signs as trademarks in accordance with the latest amendments of the
European Trademark Regulation 2015/2424 and Trademark Directive 2015/2436,
Master Programme in Intellectual Property Law, Uppsala Universitet. Dù luận văn
4
không nghiên cứu chuyên sâu về nhãn hiệu âm thanh, nhưng dựa vào các phân tích
bản chất của loại nhãn hiệu phi truyền thống – trong đó có nhãn hiệu âm thanh, đặc
biệt cơng trình làm nổi bật vấn đề pháp lý đáng quan tâm về nhãn hiệu âm thanh đó
là quy trình thẩm định và đăng ký. Tác giả lấy bối cảnh của nền pháp lý của Liên
minh châu Âu để làm rõ, đi sâu và phân tích khía cạnh này. Giá trị tham khảo quan
trọng của cơng trình nằm ở sự đánh giá, quan điểm, góc nhìn của tác giả về nền pháp
luật sở hữu trí tuệ khá phát triển – châu Âu.
Đề cập đến các kiến thức về nhãn hiệu nói chung, sách chuyên khảo của Trường
Đại học Luật TP.HCM (2018), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, NXB. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam đã trang bị nền tảng lý luận cho việc xây dựng các cơ
sở lý thuyết liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu, đến điều kiện để công nhận một dấu hiệu
là nhãn hiệu và cơ chế thẩm định cũng như bảo hộ nó. Tác giả tập trung tham khảo
và vận dụng để tăng giá trị của phần nghiên cứu chung của chương 1 và chương 2.
Liên quan đến các bình luận, đánh giá về nhãn hiệu nói chung khơng thể không
kể đến tài liệu tham khảo quan trọng của Trường Đại học Luật TP.HCM (2018), Sách
tình huống Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (tái bản lần thứ nhất, sửa đổi bổ sung),
NXB.Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Sách cung cấp các bản án và bình luận của
các chuyên gia về từng vụ việc tranh chấp sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, trong đó có
tranh chấp về nhãn hiệu. Mặc dù khơng có các bản án về tranh chấp nhãn hiệu âm
thanh, nhưng giá trị tham khảo của bài viết nằm ở cách đánh giá, bình luận về các các
điều kiện để một dấu hiệu được công nhận là một nhãn hiệu, khả năng phân biệt của
nó và góc nhìn của chun gia về yếu tố trên. Qua đó, tác giả vận dụng làm cơ sở
khoa học cho các nhận định của mình về dấu hiệu tạo nên nhãn hiệu âm thanh theo
pháp luật sở hữu trí tuệ.
Bàn về bản chất của nhãn hiệu, có thể kể đến tác giả Gordon V. Smith (1997),
Trademark Valuation, John Wiley & Sons, INC. Sách là tổng hợp các nghiên cứu,
phân tích khoa học về bản chất của nhãn hiệu, để cho thấy giá trị của một nhãn hiệu
đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, với nền kinh tế thị trường
vốn năng động, sáng tạo. Giá trị tham khảo của sách nằm ở sự phân tích tổng thể,
khách quan cả yếu tố pháp lý và kinh tế về bức tranh tổng thể nhãn hiệu, cho thấy
được tầm quan trọng của việc phát triển nhãn hiệu, sáng tạo nó qua các hình thức
khác nhau như hình ảnh, âm thanh, mùi hương,… Tác giả tham khảo các nội dung
này làm cơ sở nền tảng xây dựng nên khung lý thuyết chung về nhãn hiệu âm thanh.
5
Liên quan đến hệ thống pháp luật một số quốc gia, tác giả chú trọng tài liệu của
Tobias Cohen Jehoram, Constant van Nispen, Tony Huydecoper (2010), European
Trademark Law – Community Trademark Law and Harmonized National Trademark
Law, Kluwer Law International, Wolters Kluer Law & Business. Sách là khái quát và
các phân tích chuyên sâu về hệ thống pháp luật nhãn hiệu ở châu Âu. Trong quá trình
nghiên cứu, tác giả làm rõ lịch sử phát triển của nhu cầu sử dụng các dấu hiệu từ
truyền thống đến phi truyền thống để làm nhãn hiệu, tạo sự phân biệt của người tiêu
dùng với hàng hoá, dịch vụ. Tài liệu này là nguồn tham khảo quan trọng về hệ thống
pháp luật châu Âu liên quan đến vấn đề nhãn hiệu, qua đó, tác giả có cứ liệu giá trị
để tổng hợp, phân tích kinh nghiệm pháp luật các quốc gia.
Ngoài ra, tham khảo về bản chất của nhãn hiệu dưới góc độ pháp luật sở hữu
trí tuệ khơng thể khơng kể đến sách tham khảo của tác giả Richard Stim (2020),
Patent, Copyright &Trademark – An Intellectual Property Desk Reference (16th
Edition), NoLo Law for all. Sách cung cấp kiến thức cơ bản về nhãn hiệu dưới góc
độ pháp luật sở hữu trí tuệ. Tầm quan trọng của nhãn hiệu trong xu thế của nền kinh
tế thị trường năng động đã thúc đẩy sự sáng tạo khơng ngừng của các chủ thể kinh tế,
địi hỏi họ phải có những sự đầu tư, tạo điểm nhấn, nét đặc trưng của hàng hố, dịch
vụ do mình cung ứng trên thị trường, giúp người tiêu dùng phân biệt được các loại
hàng hoá, dịch vụ. Nhãn hiệu cũng là một trong số các công cụ hữu hiệu để đáp ứng
điều đó. Với mức độ phát triển của cơng nghệ thông tin và truyền thông, các dấu hiệu
phi truyền thống ra đời như âm thanh, mùi hương, mùi vị trở nên phổ biến và thu hút
người tiêu dùng hơn, tạo hiệu quả cạnh tranh hơn so với các dấu hiệu truyền thống.
Sách đã làm rõ được yếu tố này, đồng thời cho thấy nhu cầu cần thiết có cơ chế pháp
lý về sở hữu trí tuệ riêng cho các loại dấu hiệu đặc trưng này. Tác giả sử dụng tài liệu
để làm cơ sở tham khảo cho phần khái quát chung của luận văn về nhãn hiệu âm
thanh.
Nhóm tạp chí
Nhiều bài viết cũng có những nghiên cứu, đánh giá, phân tích cụ thể về nhãn
hiệu phi truyền thống nói chung, nhãn hiệu âm thanh nói riêng. Các cơng trình đều là
những nguồn tài liệu tham khảo quan trọng, ở nhiều khía cạnh khác nhau để tác giả
vận dụng phân tích chuyên sâu về nhãn hiệu âm thanh. Có thể kể đến các bài viết có
giá trị tham khảo lớn cho đề tài luận văn như sau:
6
Nghiên cứu một cách cụ thể về nhãn hiệu âm thanh có thể kể đến tác giả Nguyễn
Tùng Lâm (2017), “Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh theo pháp luật Hoa Kỳ - kinh nghiệm
cho Việt Nam”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 3/2017. Bài viết chủ yếu tập trung trình
này, phân tích các quy định của pháp luật Hoa Kỳ về nhãn hiệu âm thanh, đưa ra một
số tranh chấp liên quan để làm rõ bản chất nhãn hiệu âm thanh, từ đó tác giả bài viết
cũng kiến nghị những bổ sung, sửa đổi của pháp luật sở hữu trí tuệ nhằm thích ứng
với xu hướng trong tương lai. Bài viết này là tài liệu tham khảo giá trị cho tác giả
trong quá trình nghiên cứu về bản chất nhãn hiệu âm thanh và pháp luật Hoa Kỳ về
nội dung này.
Bên cạnh đó, một nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Hạnh (2021), “Bảo
hộ nhãn hiệu âm thanh - Kinh nghiệm quốc tế và những đề xuất cho Việt Nam”, Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 9/2021. Bài viết thể hiện các phân tích cơ sở, tính cần thiết
của bảo hộ nhãn hiệu âm thanh nói riêng và bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống nói
chung, tác giả cũng chỉ ra các loại âm thanh được bảo hộ, đồng thời phân tích điều
kiện để một dấu hiệu âm thanh được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiêu, đưa ra các
đề xuất về mặt thẩm định, quy trình nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Bài
viết là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng cho tác giả khi xây dựng chương 1 những
vấn đề chung về nhãn hiệu âm thanh, đồng thời tác giả cũng tham khảo một quan
điểm mới về các điều kiện để đề xuất bảo hộ nhãn hiệu âm thanh khi mà Luật SHTT
sửa đổi, bổ sung năm 2022 chính thức có hiệu lực.
Ngồi ra cịn có bài viết của tác giả Đỗ Thị Đức (2016), “Một số vấn đề về đăng
ký nhãn hiệu âm thanh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8. Bài viết tập trung bàn
về cơ sở để đánh giá nhãn hiệu âm thanh từ đó làm nền tảng cho việc thẩm định một
dấu hiệu âm thanh trở thành nhãn hiệu. Qua đó, tác giả bài viết cũng làm rõ quy trình
để đăng ký nhãn hiệu âm thanh, nó khác biệt và có nhiều điểm đặc thù so với quy
trình thẩm định các dấu hiệu truyền thống khác. Tác giả bài viết còn đầu tư nghiên
cứu pháp luật một số quốc gia về quy trình đăng ký, từ đó đưa ra các gợi mở cho việc
hồn thiện khung pháp lý của Việt Nam nếu gia nhập các hiệp ước quốc tế trong
tương lai. Đây là tài liệu tham khảo quan trọng, hỗ trợ nguồn quan điểm cá nhân,
phân tích về nhãn hiệu âm thanh, là cơ sở cho tác giả có các đánh giá khoa học về
bản chất nhãn hiệu âm thanh, quy trình hợp lý để thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu
âm thanh.
7
Liên quan đến nhãn hiệu phi truyền thống nói chung, có thể kể đến bài viết
“Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống theo pháp luật Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Phước Quý Quang, Trần Ngọc Tuấn (2019), Tạp chí
Nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế, số 7. Nghiên cứu là sự phân tích về các
quy định của pháp luật Hoa Kỳ về các tiêu chí, dấu hiệu để một nhãn hiệu được bảo
hộ, trong đó có các dấu hiệu phi truyền thống. Đặc biệt, nghiên cứu có sự phân tích,
so sánh giữa pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ về các quy định
liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu, từ đó đưa ra các kiến nghị về việc bảo vệ nhãn hiệu
phi truyền thống, bao gồm: nhãn hiệu mùi hương, nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu
màu, nhãn hiệu hình ảnh trên giao diện điện tử, dấu hiệu ba chiều trong pháp luật Việt
Nam.
Cùng đề tài còn có bài viết “Bảo hộ nhãn hiệu khơng truyền thống” của tác giả
Nam Hoa (2007), Tạp chí Khoa học pháp lý, số 27 (106). Bài viết tập trung làm rõ
vấn đề bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Theo đó, bài viết khái quát tình trạng bảo vệ nhãn
hiệu âm thanh tại một số quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Mexico, Trung Quốc,
Brazil, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Từ đó, tác giả tổng hợp đưa ra các điều
kiện để một nhãn hiệu âm thanh được bảo hộ.
Nhóm giáo trình, sách chun khảo
Các bài viết tạp chí của tác giả nước ngồi tiêu biểu có thể kể đến như sau:
Các bài viết học thuật nước ngoài cũng đề cập và chú trọng các nghiên cứu với
nhãn hiệu âm thanh nói riêng hay nhãn hiệu phi truyền thống nói chung, có thể kể
đến một số bài viết như sau:
Liên quan đến nhãn hiệu phi truyền thống, tác giả nhận thấy bài viết của
Kenneth L. Port (2011), On Nontraditional Trademarks, Northern Kentucky Law
Review mang lại giá trị tham khảo lớn. Bài viết phân tích q trình phát triển các
nhãn hiệu phi truyền thống, trong đó, đặc biệt chú trọng tính quan trọng, phổ biến và
hiệu ứng tích cực mà nhãn hiệu âm thanh mang lại. Ngồi ra, dưới góc độ kinh tế, các
nhãn hiệu phi truyền thống chứa đựng tiềm năng cho việc xây dựng và khẳng định
thương hiệu. Dưới góc độ pháp lý, tác giả bài viết đặc biệt chú trọng đến các quy định
để xác định một dấu hiệu phi truyền thống trở thành nhãn hiệu và quy trình thẩm định
đơn đăng ký đảm bảo tính chính xác, hiệu quả nhất. Qua đó, tác giả trang bị cơ sở lý
luận về nhãn hiệu phi truyền thống nói chung và nhãn hiệu âm thanh nói riêng.
8
Ngồi ra, cịn có bài viết của tác giả Lisa P. Lukose (April-June 2015), Nontraditional trademarks: a critique, Journal of the Indian Law Institute, Vol. 57, No.
2. Dù đứng dưới góc độ chung nhất nghiên cứu về nhãn hiệu phi truyền thống, tuy
nhiên, trong nội dung bài viết cũng tập trung đề cập đến nhãn hiệu âm thanh, bình
luận mặt tích cực và hạn chế của loại nhãn hiệu này. Qua đó, tác giả có những cái
nhìn tồn diện hơn về nhãn hiệu âm thanh, đưa ra những phân tích khách quan, có cơ
sở và các kiến nghị thuyết phục hơn.
Bên cạnh đó, bài viết của tác giả Martin Lindstrom (2005), Brand sense - Build
Powerful Brands through Touch, Taste, Smell, Sight, and Sound, A Division of Simon
& Schuster, Inc. cũng chứa đựng các nội dung mang giá trị tham khảo lớn. Trong nội
dung bài viết, tác giả đề cập đến tầm quan trọng của việc phải xây dựng uy tín, điểm
đặc biệt thu hút người tiêu dùng của một thương hiệu dựa trên nhãn hiệu phi truyền
thống, trong đó đặc biệt chú trọng nhãn hiệu âm thanh bởi tính hiệu quả và đặc sắc
của nó. Qua đó, tác giả có cơ sở để xác định được rằng, ghi nhận nhãn hiệu âm thanh
chính là phù hợp với xu hướng của sự phát triển, giá trị của việc hoàn thiện khung
pháp lý để quản lý cũng như tạo điều kiện cho nhãn hiệu âm thanh được phát triển.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở việc nghiên cứu các quy định của pháp luật, nhu cầu thực tiễn về
bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, đồng thời đánh giá các công trình có liên quan đến đề tài,
nhận thấy các cơng trình chưa phân tích một cách thống nhất, chun sâu liên quan
đến việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Do đó, thực hiện luận văn này, tác giả tập trung
làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, phân tích các vấn đề khái quát chung về việc bảo hộ nhãn hiệu âm
thanh, làm rõ khái niệm, bản chất của nhãn hiệu âm thanh, tính hợp quy luật của sự
phát triển khi ghi nhận nhãn hiệu âm thanh vào hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, phân tích các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về nhãn
hiệu nói chung và nhãn hiệu âm thanh nói riêng, về điều kiện để một dấu hiệu trở
thành nhãn hiệu và quy trình đăng ký cũng như cơ chế bảo hộ nó. Ngồi ra, tác giả
cũng so sánh, đối chiếu cũng như phân tích kinh nghiệm của pháp luật một số quốc
gia có nền pháp lý sở hữu trí tuệ phát triển như Hoa Kỳ, Australia, Liên minh Châu
Âu để từ đó làm rõ hơn về việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh.
9
Thứ ba, đề tài cũng dành sự tập trung cho việc nghiên cứu thực tiễn xét xử các
tranh chấp về nhãn hiệu âm thanh ở một số quốc gia, làm kinh nghiệm cho Việt Nam
trong giai đoạn đầu khi ghi nhận nhãn hiệu âm thanh được bảo hộ bởi pháp luật sở
hữu trí tuệ. Đồng thời, phân tích quy định về thủ tục, trình tự đăng ký nhãn hiệu âm
thanh.
Dựa vào các nội dung trên, tác giả đưa ra các tổng hợp, xây dựng cơ chế mang
tính đề xuất khung pháp lý về nhãn hiệu âm thanh làm tăng giá trị tham khảo của đề
tài luận văn Thạc sĩ.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nhãn hiệu âm thanh là nội dung mà Hiệp định CPTPP yêu cầu Việt Nam –
quốc gia thành viên không được từ chối việc bảo hộ trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ cũng có những sự
ghi nhận nhất định, nhưng quy định vẫn còn sơ khai, chưa có khung pháp lý cụ thể.
Do đó, luận văn tập nghiên cứu các khía cạnh pháp lý, bản chất của nhãn hiệu âm
thanh với phạm vi cụ thể như sau:
Về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về nhãn hiệu âm thanh nói
riêng và nhãn hiệu nói chung ở các văn bản quy phạm pháp luật sở hữu trí tuệ hiện
hành và thực tiễn xét xử.
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật Việt Nam và pháp
luật một số quốc gia có nền pháp lý sở hữu trí tuệ tiên tiến trên thế giới, có sự ghi
nhận về nhãn hiệu âm thanh để có các đối chiếu, rút ra kinh nghiệm trong q trình
nghiên cứu, từ đó tác giả đưa ra các kiến nghị mang tính xây dựng, hồn thiện pháp
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Về thời gian: Luận văn chỉ nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam tức pháp
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành, bao gồm Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa
đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022 và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Đồng thời,
khi nghiên cứu pháp luật nước ngồi, tác giả cũng tìm hiểu, phân tích pháp luật, vụ
việc thực tiễn khi các dấu hiệu âm thanh được ghi nhận thành nhãn hiệu.
10
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện cơng trình khoa học mang giá trị lý luận cao và giá trị thực tiễn,
tác giả kết hợp nhiều phương pháp một cách đa dạng, ở mỗi chương có sử dụng
phương pháp nghiên cứu chủ đạo, nền tảng, cụ thể bao gồm:
Một là, phương pháp phân tích. Tác giả vận dụng xuyên suốt phương pháp này
trong toàn bộ luận văn, từ việc làm rõ các khái niệm về nhãn hiệu âm thanh, bản chất
pháp lý của đối tượng nghiên cứu, đồng thời, nó còn được sử dụng để đánh giá các
quy phạm pháp luật, các vụ việc thực tiễn, phán quyết của Toà án liên quan đến giải
quyết vấn đề pháp lý. Từ phương pháp này, các lập luận của tác giả vững chắc hơn
và nội dung đề tài cũng được làm rõ và sâu sắc hơn.
Hai là, phương pháp so sánh. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở
Chương 1, phần làm rõ bản chất của nhãn hiệu âm thanh đặc trưng so với các nhãn
hiệu truyền thống cũng như phi truyền thống khác, mặt khác nó được vận dụng chủ
yếu khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài, tác giả làm rõ những bối cảnh của các nền
pháp luật từ đó cho thấy điểm tiến bộ, phù hợp và rút ra bài học kinh nghiệm cho việc
hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành.
Ba là, phương pháp hệ thống hoá lý thuyết, được sử dụng chủ yếu ở Chương
1. Thông qua việc nghiên cứu pháp luật nước ngoài, nghiên cứu về các vấn đề khái
quát chung liên quan đến nhãn hiệu âm thanh, tác giả đưa ra những đánh giá, sắp xếp
một cách có hệ thống liên quan đến đối tượng của đề tài, từ đó, thể hiện được rõ nét
bản chất của nhãn hiệu âm thanh, ý nghĩa khi bảo hộ nhãn hiệu âm thanh trong giai
đoạn hiện nay.
Bốn là, phương pháp tổng hợp. Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu ở
phần kết luận và kiến nghị sửa đổi của Chương 2. Sau khi phân tích, đánh giá, bình
luận, tác giả hệ thống và tổng hợp lại các vấn đề cốt lõi, giá trị, từ đó đưa ra các kiến
nghị dựa trên nội dung đó để hồn thiện các vấn đề về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh.
Năm là, phương pháp case study, được sử dụng ở Chương 2 (phương pháp
nghiên cứu vụ việc, bình luận án). Với phương pháp này, việc phân tích, tìm hiểu
11
những vấn đề thực tiễn về nhãn hiệu âm thanh được thực hiện thơng qua việc phân
tích những bản án, chủ yếu là các vụ việc tranh chấp ở các quốc gia, tác giả đánh giá,
bình luận về tính hợp lý của các phán quyết cũng như bản chất của các tranh chấp
trên, từ đó, đưa ra góc nhìn và cho thấy được toàn cảnh thực tiễn xét xử về bảo hộ
nhãn hiệu âm thanh, làm cơ sở cho các lập luận, kiến nghị có giá trị ứng dụng cao.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết
Bố cục của đề cương chi tiết:
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÃN HIỆU ÂM THANH
CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ NHÃN HIỆU ÂM THANH
CHƯƠNG 3. THỦ TỤC ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU ÂM THANH VÀ
CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ NHÃN HIỆU ÂM THANH
12
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÃN HIỆU ÂM THANH
1.1. Khái quát nhãn hiệu âm thanh
1.1.1. Lược sử phát triển của nhãn hiệu âm thanh
Sở hữu trí tuệ là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế tri thức hiện đại, được
ghi nhận minh thị trong các văn bản pháp luật từ rất sớm, với minh chứng là đạo luật
Venice 14742 và ngày càng được đề cao, củng cố, khẳng định vị trí cho đến hiện nay.
Đó là “qùn hợp pháp xuất phát từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghệ,
khoa học, văn học và nghệ thuật bao gồm quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế,
nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và chỉ dẫn địa lý, quyền tác giả, quyền liên quan”3.
Tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của nhãn hiệu góp phần mô tả đôi nét về
bản chất của nhãn hiệu âm thanh, cho thấy tính quy luật tất yếu của quá trình phát
triển của nhãn hiệu từ những dấu hiệu cơ bản nhìn thấy được mở rộng sang các đối
tượng phi truyền thống cảm nhận bằng tổng hoà các giác quan của con người.
Là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu cơng nghiệp ngày càng
trở nên thiết yếu trong nền kinh tế bởi “cơ chế bảo hộ sở hữu công nghiệp được thiết
lập nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ nảy sinh trong quá trình kinh doanh, trước
hết là trong hoạt động sản xuất và thương mại”4. Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm
nhiều đối tượng, chẳng hạn kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, chỉ dẫn địa lý, bí mật
kinh doanh, …5 trong đó nhãn hiệu được xem là “loại đối tượng” hỗ trợ kết nối giữa
doanh nghiệp và người tiêu dùng một cách hiệu quả nhất. Ý nghĩa của nhãn hiệu trong
nền kinh tế thị trường là vô cùng lớn. Nhãn hiệu được xem là dấu hiệu dùng để phân
biệt các loại hàng hóa dịch vụ. Do đó, trong thương mại, nhãn hiệu được sử dụng
giúp người tiêu dùng nhận biết, và đồng thời đây cũng là yếu tố giúp doanh nghiệp
tạo nên vị thế, khơng ngừng nâng cao uy tín của mình trên thị trường.
Đạo luật này ra đời năm 1474, trở thành văn bản pháp lý đầu tiên tạo cơ chế cho việc bảo hộ sáng chế tại
Italy.
Xem thêm: Claudia Angélica Córdova González, Mónica Guadalupe Chávez Elorza (2021), “Review of the
International Patent System: From the Venice Statute to Free Trade Agreements”, Mexican Law Review, p.68.
3
Trần Kiên (chủ biên) (2020), Sự xung đột giữa quyền con người và quyền sở hữu trí tuệ - Tiếp cận từ triết lý
pháp luật và thực tiễn pháp lý, NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 24.
4
ngày truy cập: 10/6/2022.
5
Khoản 4 Điều 4 Luật SHTT.
2
13
Pháp luật về nhãn hiệu phát triển suốt một chặng đường dài. Cụm từ “thương
hiệu” (brand) hay “nhãn hiệu” (trademark) đã tồn tại từ trong thế giới cổ đại. Cách
đây hơn 3.000 năm, những người thợ thủ công Ấn Độ đã từng khắc chữ ký lên các
tác phẩm nghệ thuật của họ trước khi gửi đến Iran. Các nhà sản xuất từ Trung Quốc
đã bán hàng hóa mang nhãn hiệu của họ ở khu vực Địa Trung Hải hơn 2.000 năm
trước, có thời điểm khoảng một nghìn dấu hiệu để phân biệt hàng hoá của các thương
nhân kinh doanh đồ gốm La Mã khác nhau đã được sử dụng, bao gồm cả dấu hiệu có
tên là “Fortis”, dấu hiệu này sau đó đã trở nên nổi tiếng đến mức nó bị sao chép và
làm giả6. Như vậy, ngay từ thời trung cổ, việc các thương nhân sử dụng ký hiệu của
riêng mình nhằm tạo cho người tiêu dùng nhận biết hàng hố, dịch vụ do mình cung
ứng đã xuất hiện, đây là nhu cầu tất yếu của chính các thương nhân và của chính
người tiêu dùng. Điều này cho thấy tính thiết của việc ghi nhận và cơ chế bảo hộ của
pháp luật trước những hành vi cố tình làm giả, xâm phạm đến quyền của người sở
hữu dấu hiệu đó. Như Thẩm phán Clifford – Tồ án Hoa Kỳ đã từng nói rằng các tịa
án ở tất cả các quốc gia văn minh trong nhiều thế kỷ đã dành sự bảo hộ cho nhãn hiệu
thương mại, đối tượng của sự bảo hộ đó khơng chỉ để đảm bảo cho cá nhân thành quả
của kỹ năng, ngành công nghiệp và doanh nghiệp của họ, mà cịn để bảo vệ cơng
chúng chống lại hành vi gian lận7. Do đó, vấn đề bảo hộ những dấu hiệu để phân biệt
hàng hoá, dịch vụ của các chủ thể được hệ thống pháp luật các quốc gia bắt đầu ghi
nhận như một quy luật tất yếu.
Lần đầu tiên việc bảo hộ nhãn hiệu được đề cập xuất phát từ vụ việc JG và
Samford vào cuối thế kỷ XVI. Theo đó, lập luận được đưa ra rằng việc sử dụng dấu
hiệu gắn trên vải kém chất lượng mà dấu hiệu đó đã được sử dụng bởi một nhà sản
xuất khác đã có danh tiếng lớn về vải của mình là hành vi khơng đúng8. Sau đó, những
vụ việc tranh chấp về tên gọi của dấu hiệu, về vấn đề sử dụng dấu hiệu, làm giả dấu
hiệu của các thương nhân tại Anh diễn ra gay gắt, chẳng hạn vụ việc Knott và
6
ngày truy cập: 18/6/2022.
7
Case: Manhattan Med. Co. v. Wood, 108 U.S. 218, 223 (1883). Dịch từ nguyên văn: “His trade-mark is both
a sign of the quality of the article and an assurance to the public that it is the genuine product of his
manufacture. It thus often becomes of great value to him, and in its exclusive use the court will protect him
against attempts of others to pass off their products upon the public as his. This protection is afforded not only
as a matter of justice to him, but to prevent imposition upon the public”.
8
J.H. Baker & S.F.C. Milsom (1986), Sources of English Legal History: Private Law to 1750, London:
Butterworths, p. 615–618.
14
Morgan9, theo đó, Tồ án đã ban hành lệnh cấm một công ty vận tải hành khách làm
dịch vụ giả mạo Công Ty London Conveyance của nguyên đơn, sử dụng dấu hiệu
gắn lên dịch vụ xâm phạm đến Công ty London Covayance. Hay vụ việc giữa Perry
và Truefitt10, các bên tranh chấp dấu hiệu “Medicated Mexican Balm” với “Truefitt's
Medicated Mexican Balm”. Kết luận chỉ ra rằng, một người không được bán hàng
hóa của chính mình với lý do rằng chúng là hàng hóa của người khác; người đó khơng
thể được phép thực hiện hành vi lừa dối như vậy. Người bán không thể được phép sử
dụng tên hay dấu hiệu nào khác mà họ có thể khiến người mua tin rằng hàng hóa mà
họ đang bán là sản phẩm của người khác. Đây được xem là hành vi lừa dối11.
Trước tính cấp thiết của thực tiễn nêu trên, lời kêu gọi công nhận nhãn hiệu
thương mại như tài sản lần đầu tiên xuất hiện vào cuối những năm 1850 như một phần
của chiến dịch tổng thể hơn về luật pháp nhằm tăng cường quyền của thương nhân
chống lại hành vi vi phạm bản quyền12. Năm 1862, một Dự luật gọi là “Sheffield Bill”
đã được đưa vào Hạ viện đề xuất rằng nhãn hiệu thương mại được công nhận rõ ràng
là “tài sản”. Khoản 9 quy định rằng nhãn hiệu thương mại đã đăng ký “sẽ được coi
là tài sản cá nhân của chủ sở hữu, và sẽ được chuyển giao theo các quy tắc thông
thường của pháp luật ảnh hưởng đến tài sản cá nhân”13. Tuy nhiên, văn bản này dần
ít được quan tâm do người ta lo ngại về vấn đề chuyển giao quyền với nhãn hiệu sẽ
làm mất đi tính chất chỉ dẫn nguồn gốc của nó14, song đây là văn bản tham khảo quan
trọng trong các thảo luận về tính pháp lý của nhãn hiệu sau này.
Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu được manh nha mở rộng trên phạm vi quốc tế vào
những năm 1858 khi mà các thương nhân Anh đã tìm kiếm sự trợ giúp của chính phủ
trong việc đạt được một số loại cơng nhận quốc tế về quyền của họ, theo đó mối quan
tâm hàng đầu của các thương nhân là ngăn chặn việc sử dụng các nhãn hiệu thương
mại của Anh ở nước ngoài, đặc biệt là ở Đức. Một vụ việc điển hình kể đến là một
thương nhân sản xuất thép Sheffield đệ trình lên Ngoại trưởng Bộ Ngoại giao, Bá
9
ngày truy cập: 19/6/2022.
ngày truy cập: 19/6/2022.
11
ngày
truy cập: 23/10/2022.
12
A. Ryland (1859), “The Fraudulent Imitation of Trade Marks”, Transactions of the National Association for
the Promotion of Social Science 229, p. 269.
13
Bill No 17 (February 18, 1862), Parliamentary Papers, Bills (Public) Vol. 5.
14
Ludlow & Jenkyns (2015), A Treatise on the Law of Trade-Marks and Trade-Names 2, Leopold Classic
Library, p.127.
10
15
tước Malmesbury đã tuyên bố rằng “luật pháp của Anh coi trọng và bảo vệ nhãn hiệu
(trade marks) là tài sản tư nhân”15. Kể từ đó, các Hiệp ước, đạo luật ở một số quốc
gia ra đời ghi nhận nhãn hiệu như một đối tượng cơ bản của quyền công dân. Chẳng
hạn, Hiệp ước Áo ngày 16 tháng 12 năm 1865 đã tuyên bố rằng các bên của Hiệp
định sẽ được hưởng như nhau sự bảo vệ đối với các quyền về tài sản trong nhãn hiệu
thương mại và các nhãn hiệu phân biệt khác16, trong khi Hiệp ước Hoa Kỳ 1877 trao
cho các đối tượng và công dân Hoa Kỳ các quyền tương tự như công dân Anh trong
mọi thứ liên quan đến tài sản trong nhãn hiệu thương mại17.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng pháp luật sở hữu trí tuệ bắt đầu
manh nha hình thành kể từ thời Pháp thuộc, đối với quyền tác giả được xác định hình
thành muộn nhất dưới thời Hậu Lê18. Sắc lệnh chứa đựng các quy phạm về sở hữu trí
tuệ áp dụng đầu tiên ở miền Nam năm 1864, sau đó phát triển cùng với tiến trình lịch
sử, đến Bộ luật dân sự năm 1995 (Phần thứ sáu) đã thể hiện sự ghi nhận một cách cụ
thể, rõ ràng có hệ thống các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ, cho đến khi Luật Sở hữu
trí tuệ đầu tiên năm 2005 ra đời đánh giá bước chuyển mình của nền pháp luật Việt
Nam khi hội nhập và tiệm cận với nền văn minh của thế giới trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ.
Ban đầu, nhãn hiệu được tạo thành từ những dấu hiệu mang tính “truyền
thống” như từ ngữ, biểu tượng, hoặc sự kết hợp của chúng để đảm nhận các chức
năng giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hoá, dịch vụ từ các nguồn cung ứng khác
nhau, tuy nhiên, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, sự phủ sóng mạnh
mẽ của Internet và các thiết bị kết nối, công nghệ hiện đại, những dấu hiệu cấu thành
nên nhãn hiệu trở nên đặc trưng hơn, phong phú và đa dạng hơn, để nhãn hiệu khơng
cịn chỉ được nhận biết bằng thị giác mà cịn các giác quan khác như thính giác, vị
giác, khướu giác. Do đó, thuật ngữ “nhãn hiệu phi truyền thống” (non-traditional hay
New types of marks) ra đời, trong đó, nhãn hiệu âm thanh được ghi nhận và bảo vệ.
Graeme B.Dinwoodie and Mark D.Janis (2008), Trademark Law and Theory – A Handbook of Contemporary
Research, Edward Elgar, p.19.
16
Trademark Dilution Revision Act of 2006, Pub. L. No. 109-312, 120 Stat.1730.
17
(1878) (C.1901) 80 Parliamentary Papers 439.
18
Trần Kiên (chủ biên) (2020), Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam dưới thời Pháp thuộc – Di sản lập pháp và án lệ,
NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.37.
15
16
1.1.2. Định nghĩa nhãn hiệu âm thanh
Dưới góc độ từ ngữ, “nhãn hiệu” (trademark) có nghĩa là dấu hiệu được dùng
trong thương mại19. Tiếp cận từ phương diện bản chất của nhãn hiệu, nhiều tác giả
đưa ra các khái niệm nhãn hiệu với những góc độ đánh giá khác nhau. Ông Edward
Smith - chuyên gia Cơ quan sở hữu trí tuệ Vương quốc Anh (UKIPO) xác định “các
nhãn hiệu thương mại truyền thống thường được coi là các nhãn hoặc các “dấu” gắn
theo hàng hóa hoặc dịch vụ”20. Theo Văn phòng bằng sáng chế và nhãn hiệu của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ (USPTO) thì một nhãn hiệu sẽ giúp người dùng xác định nguồn
gốc của hàng hóa hoặc dịch vụ họ sử dụng, cung cấp sự bảo vệ hợp pháp cho thương
hiệu của chủ thể cung cấp hàng hoá, dịch vụ và giúp người dùng đề phòng hàng giả
và gian lận. Đó là “bất kỳ từ, cụm từ, ký hiệu, thiết kế hoặc sự kết hợp của những thứ
này để xác định hàng hóa hoặc dịch vụ của bạn. Đó là cách khách hàng nhận ra bạn
trên thị trường và phân biệt bạn với các đối thủ cạnh tranh”21. Như vậy, nhãn hiệu
là một dấu hiệu - biểu tượng, tên, từ, biểu tượng hoặc sự kết hợp của chúng - được
nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp sử dụng để phân biệt một sản phẩm hoặc dịch vụ cụ
thể.
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
(Agreement on Trade – Related Aspects of IPR – TRIPS) cũng ghi nhận khái niệm
nhãn hiệu, theo đó “bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng
phân biệt hàng hố hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ
của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hố. Các dấu hiệu đó,
đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp
các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được
đăng ký là nhãn hiệu hàng hố”. Hiệp định cịn nhấn mạnh, các bên khơng được từ
chối đăng ký nhãn hiệu nhìn thấy được, cịn các dấu hiệu khác, đều có thể được đăng
ký miễn nó khơng trái với quy định của Cơng ước Paris 1967. Như vậy, phạm vi khái
niệm nhãn hiệu trong Hiệp định TRIPS khá rộng, bao hàm bất kỳ một dấu hiệu nào,
19
ngày truy cập: 23/10/2022.
ngày truy cập: 19/4/2022.
21
“What is the trademark”, ngày truy cập:
10/6/2022.
20
17
miễn rằng, nó đáp ứng được khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ, tức thực hiện được
chức năng cơ bản của một nhãn hiệu.
Tuy nhiên, đây là quy định chung của một văn bản ở cấp độ thoả thuận quốc
tế, mỗi quốc gia, giới hạn dấu hiệu được đăng ký được thể hiện bằng việc nhà lập
pháp sử dụng phương pháp liệt kê từng dấu hiệu để bảo hộ dưới danh nghĩa một nhãn
hiệu. Chẳng hạn, pháp luật Hoa Kỳ - quốc gia có nền pháp luật về sở hữu trí tuệ lâu
đời cũng ghi nhận khái niệm nhãn hiệu tại Điều 1127 Đạo Luật Lanham 1946
(Lanham Act), theo đó, “nhãn hiệu bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay hình
vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng mà được sử dụng trong thương mại và xin đăng ký
theo quy định của đạo luật Lanham để xác định và phân biệt hàng hóa của người đó,
bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng với hàng hóa được sản xuất hoặc được bán bởi
những người khác và chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa thậm chí cả khi không xác định
được nguồn gốc của hàng hóa đó”.
Theo Luật Nhãn hiệu Canada (Trademarks Act) quy định nhãn hiệu là “một
dấu hiệu hoặc sự kết hợp của các dấu hiệu được sử dụng hoặc đề xuất sẽ được sử
dụng bởi một người với mục đích phân biệt hoặc để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ
của họ với những người khác, hoặc (b) nhãn hiệu chứng nhận (certification mark)”.
Hay pháp luật Nhật Bản, nhãn hiệu là “những cái có thể cảm nhận được bởi mọi
người, đó là bất kỳ đặc tính, hình vẽ, dấu hiệu hoặc hình dạng hoặc màu sắc ba chiều,
hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của chúng; âm thanh, hoặc bất cứ thứ gì khác được xác
định bởi Nội các”22.
Ưu điểm của cách quy định này là nhằm hỗ trợ cơ quan quản lý kiểm soát được
loại dấu hiệu được đăng ký để thẩm định một cách chính xác. Sự phát triển nhanh
chóng của kinh tế với đa dạng các loại hàng hoá, dịch vụ, việc thẩm định tính phân
biệt của nhãn hiệu của là một thử thách cho các cơ quan này. Tuy nhiên, điều bất lợi
của cách liệt kê là phạm vi dấu hiệu được bảo hộ hẹp, nên đôi khi, pháp luật cần sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với quy luật của thực tiễn, chẳng hạn, những dấu hiệu phi
truyền thống ra đời như một quy luật tất yếu của sự phát triển đã cho thấy rằng, dấu
hiệu như dấu âm thanh hay mùi hướng, chúng cần được pháp luật các quốc gia ghi
nhận một cơ chế pháp lý để có thể tổn tại và được bảo hộ như các dấu hiệu truyền
thống khác trong một xã hội phát triển như hiện nay.
22
ngày truy cập: 19/7/2022.
18
Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam sử dụng phương pháp liệt kê để định nghĩa
về nhãn hiệu tại khoản 16 Điều 4 Luật SHTT, nhãn hiệu “là dấu hiệu dùng để phân
biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. “Dấu hiệu” ở đây được
hiểu là “hình dạng vốn có của hàng hóa hoặc do đặc tính kỹ thuật của hàng hóa bắt
buộc phải có”23. Dựa vào cách tiếp cận khác nhau, người ta chia nhãn hiệu thành
nhiều loại, xét về mặt lịch sử hình thành và phát triển của nhãn hiệu, nhãn hiệu bao
gồm nhãn hiệu truyền thống (traditional trademarks) và nhãn hiệu phi truyền thống
(non – traditional trademarks hay new types of trademarks).
Thuật ngữ “nhãn hiệu phi truyền thống” (New types of marks hay Non –
traditional trademark) đã được đề cập tại các Hội nghị của WIPO24. Song, định nghĩa
về nhãn hiệu phi truyền thống vẫn chưa được chính thức ghi nhận bởi một văn bản
có giá trị pháp lý nào. Các loại nhãn hiệu phi truyền thống được nghiên cứu bao gồm
các loại hình tiêu biểu sau đây: nhãn hiệu ba chiều (Three-Dimensional Marks), nhãn
hiệu màu sắc (Color Marks), nhãn hiệu hologram (Hologram mark), nhãn hiệu
chuyển động hoặc đa phương tiện (Motion or Multimedia Marks), nhãn hiệu vị trí
(Position Marks), nhãn hiệu cử chỉ (Gesture Marks), nhãn hiệu mùi hương (Olfactory
marks), nhãn hiệu âm thanh (Sound marks), nhãn hiệu hương vị (Taste marks), nhãn
hiệu nhận biết bằng xúc giác (Texture or feel marks)25.
Như vậy, nhãn hiệu âm thanh được xem là một loại của nhãn hiệu phi truyền
thống, là sản phẩm của khoa học công nghệ và được tạo điều kiện cơng nhận, bảo hộ
trong một xã hội có nền kinh tế hội nhập, phát triển văn minh. Vì là một dạng của
nhãn hiệu, thế nên nhãn hiệu âm thanh trước hết là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng
hoá, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức khác nhau. Dấu hiệu này đặc biệt hơn so với
các dấu hiệu truyền thống khác, bởi nó được tiếp thu và cảm nhận bằng thính giác
của con người.
Nhãn hiệu âm thanh bao gồm cơ chế liên quan đến việc nhận dạng, truyền tải
thông tin bằng cách sử dụng âm thanh để xây dựng mối liên hệ cảm xúc giữa người
Khoản 6 Điều 73 Luật SHTT.
“Standing committee on the law of trademarks, Industrial designs and Geographical indications”,
ngày truy cập: 08/8/2022.
25
Lê Nhật Hồng (2020), Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống theo quy định của Hiệp định CPTPP và hoàn thiện
pháp luật Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TP.HCM, tr.9-15.
23
24
19
phát và người nhận26. Nói cách khác, nhãn hiệu âm thanh là nhãn hiệu được kết nối
với thiết kế âm thanh. Tuy nhiên, thuật ngữ này không phải là mới, đặc điểm nhận
dạng âm thanh đã có từ hơn năm mươi năm. Big Ben (Tháp Elizabeth, tên cũ là Tháp
đồng hồ của cung điện Westminster) - tháp đồng hồ vĩ đại ở Westminster, đã trở thành
một địa danh khét tiếng của London. Bất cứ khi nào tiếng chuông trầm của nó được
sử dụng trong các chương trình truyền hình hoặc loạt phim, nó chỉ cố gắng phát ra tín
hiệu rằng câu chuyện xảy ra ở London, không phải ở nơi khác. Từ xa xưa, các nhạc
cụ cụ thể thường được gắn với những ý nghĩa cụ thể.
“Âm thanh” khác với “âm nhạc”. “Âm thanh” (The sound) được hiểu một
cách cơ bản rằng nó là bất kỳ “âm” nào phát ra và được cảm nhận bằng thính giác
của con người, đó là âm nói chung27, cịn “âm nhạc” là âm thanh được biểu đạt bằng
nhịp điệu để truyền tải tư tưởng, tình cảm28. Như vậy, âm thanh có phạm vi biểu đạt
rộng hơn và bao gồm cả âm nhạc, âm thanh không nhất thiết bao gồm các nhịp điệu
như âm nhạc mà có thể gồm bất kỳ “âm” nào mà con người cảm nhận được bằng
thính giác. Dấu hiệu âm thanh vẫn có thể xác định và giúp phân biệt một sản phẩm
hoặc dịch vụ thay vì phương tiện hình ảnh. Trong vụ việc Vertex Grp. LLC, 89
USPQ2d 1694, 1700 (TTAB 2009)29, các Thẩm phán đã xác định dấu âm bao gồm:
(1) một loạt các âm hoặc nốt nhạc, có hoặc khơng có từ; và (2) từ ngữ kèm theo âm
nhạc.
Nghiên cứu về khái niệm nhãn hiệu âm thanh, tác giả Đỗ Thị Diện cho rằng
nhãn hiệu âm thanh “được xác định và phân biệt là một sản phẩm hoặc dịch vụ thơng
qua âm thanh thay vì phương tiện trực quan”30. Theo WIPO, nhãn hiệu âm thanh
(sound marks) là nơi đại diện cho một giai điệu được thể hiện bằng hình ảnh các nốt
nhạc31. Tiếp cận từ bản chất của nhãn hiệu âm thanh, tác giả Bùi Thị Lệ Hằng đã xác
định nhãn hiệu âm thanh có thể được hiểu là nhãn hiệu được tạo ra từ bất kỳ dấu hiệu
26
Bronner, K., & Hirt, R. (2009), Audio Branding. Brands, Sound and Communication, Baden-Baden: Nomos,
Edition Reinhard Fischer, p.35.
27
Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá Việt Nam (1999), Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB.
Văn hố Thơng tin, tr.63.
28
Trung tâm Ngơn ngữ và Văn hố Việt Nam (1999), tldđ (27), tr.63.
Viện Ngôn ngữ học (2019), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Hồng Đức, tr.20.
29
ngày truy cập: 24/7/2022.
30
Đỗ Thị Diện (2021), “Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống trong quy định của điều ước quốc tế, pháp luật Hoa
Kỳ và Việt Nam”, ngày truy cập: 13/7/2022.
31
ngày truy cập: 20/7/2022.