TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NUỚC
-----------***------------
NGUYỄN THỊ THANH QUẾ
MSSV: 1853801014137
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN
CÔNG DÂN TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH
COVID-19 TẠI VIỆT NAM
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 - 2022
Giảng viên hướng dẫn: ThS. PHAN NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NUỚC
-----------***------------
NGUYỄN THỊ THANH QUẾ
MSSV: 1853801014137
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN
CÔNG DÂN TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH
COVID-19 TẠI VIỆT NAM
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 - 2022
Giảng viên hướng dẫn: ThS. PHAN NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu
do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Phan Nguyễn Phương
Thảo. Khóa luận này đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú
thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu trách nhiệm hồn tồn về lời cam đoan này.
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Quế
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Số thứ
tự
Tên viết tắt
1
Covid-19
2
3
4
5
WHO
LHQ
ASEAN
EU
6
UPR
7
Quyết định số 07/2020/QĐTTg
8
Quyết định số 447/QĐ-TTg
9
Quyết định số 173/QĐ-TTg
10
Công văn số 45/TANDTCPC
11
Công văn số 925/STPPBGDPL
12
Chỉ thị 15/CT-TTg
13
Chỉ thị 16/CT-TTg
Tên đầy đủ
Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới
của virus corona
Tổ chức y tế Thế giới
Liên Hợp Quốc
Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á
Liên minh Châu Âu
Cơ chế rà sốt định kỳ phổ quát còn được
gọi là Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát
Quyết định số 07/2020/QĐ-TTg ngày
26/02/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều
của quyết định số 02/2016/QĐ-TTg ngày
28 tháng 01 năm 2016 của thủ tướng Chính
phủ về việc quy định điều kiện công bố
dịch, công bố hết dịch bệnh truyền nhiễm
Quyết định số 447/QĐ-TTg ngày
01/04/2020 về việc công bố dịch Covid-19
Quyết định số 173/QĐ-TTg ngày
01/02/2020 về việc công bố dịch viêm
đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút
Corona gây ra
Công văn số 45/TANDTC-PC ngày
30/03/2020 về xét xử tội phạm liên quan
đến phịng, chống dịch bệnh Covid-19
Cơng văn số 925/STP-PBGDPL của Sở Tư
pháp TP. Hà Nội ngày 05/4/2020 quy định
chi tiết mức phạt đối với 13 hành vi vi
phạm các quy định về phòng, chống Covid19
Chỉ thị 15/CT-TTg ngày 27/03/2020 của
Thủ tướng Chính phủ về quyết liệt thực
hiện đợt cao điểm phòng, chống dịch Covid
-19
Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của
Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện
pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
Chỉ thị 19/CT-TTg ngày 24/4/2020 củaThủ
tướng Chính phủ ban hành về tiếp tục thực
Chỉ thị 19/CT-TTg
hiện các biện pháp phòng, chống dịch
Covid-19 trong tình hình mới
Quyết định số 4689/QĐ-BYT ngày
Quyết định số 4689/QĐ 6/10/2021 về việc ban hành chẩn đoán và
BYT
điều trị Covid-19
Quyết định 3900/QĐ-UBND ngày
16/11/2021 về Quy định tạm thời các biện
Quyết định 3900/QĐ-UBND
pháp “Thích ứng an tồn, linh hoạt, kiểm
sốt hiệu quả dịch Covid-19” trên địa bàn
Cơng văn 2994/UBND-ĐT ngày
07/9/2021 về tiếp tục tăng cường biện pháp
Công văn 2994/UBND-ĐT
kiểm soát trong thời gian thực hiện giãn
cách xã hội
Quyết định 170/QĐ -TTg về việc thành lập
Ban chỉ đạo quốc gia phịng, chống dịch
Quyết định 170/QĐ-TTg
bệnh viêm đường hơ hấp cấp do chủng mới
của vi rút Corona gây ra
Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 ngày
Nghị quyết số 406/NQ19/10/2021 về một số giải pháp hỗ trợ
UBTVQH15
doanh nghiệp, người dân chịu tác động của
dịch Covid-19
Nghị định số 92/2021/NĐ-CP ngày
Nghị định số 92/2021/NĐ27/10/2021 quy định chi tiết thi hành Nghị
CP
quyết số 406/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội
Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày
Nghị định số 57/2020/NĐ25/5/2020 của Chính phủ điều chỉnh thuế
CP
xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Nghị quyết 1148/2020/UBTVQH14 ngày
21/12/2020 của Uỷ ban Thường vụ Quốc
Nghị quyết
hội về giảm 30% mức thuế bảo vệ môi
1148/2020/UBTVQH14
trường đối với nhiên liệu bay trong cả năm
2021
Thông tư số 112/2020/TT-BTC ngày
29/12/2020 quy định mức thu một số khoản
Thơng tư số 112/2020/TTphí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn
BTC
cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh
xã hội ứng phó với dịch Covid-19
Thông tư số 47/2021/TT-BTC ngày
Thông tư số 47/2021/TT24/6/2021 quy định mức thu một số khoản
BTC
phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn
25
Thông tư 12/2021/TT-BTC
26
Thông tư số 40/2021/TTBTC
27
Nghị định 15/2022/NĐ-CP
28
Công văn số 2601/VPCPKGVX
29
Nghị định số 117/2020/NĐCP
cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch
Covid-19
Thông tư 12/2021/TT-BTC ngày 8/02/2021
quy định mức thu, khai, nộp phí sử dụng
kết cấu hạ tầng đường sắt
Thơng tư số 40/2021/TT-BTC ngày
01/06/2021 hướng dẫn thuế giá trị gia tăng,
thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối
với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh
Nghị định 15/2022/NĐ-CP ngày
28/01/2022 quy định chính sách miễn,
giảm thuế theo Nghị quyết 43/2022/QH15
Cơng văn số 2601/VPCP-KGVX ngày
03/04/2020, về việc thực hiện Chỉ thị số
16/CT-TTg về phòng, chống dịch Covid-19
Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày
28/9/2020 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN
CÔNG DÂN VÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG
DÂN ................................................................................................................................. 7
1.1. Khái quát về quyền con người, quyền công dân .................................................. 7
1.1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân ................................................ 10
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người ........................................................................ 10
1.1.1.2. Khái niệm quyền công dân ......................................................................... 12
1.1.2. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền cơng dân ................................ 15
1.1.3. Các nhóm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp
2013 ............................................................................................................................ 17
1.2. Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân ............................................. 19
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người, quyền công dân ................................. 20
1.2.2. Cơ chế bảo đảm quyền con người, quyền công dân ...................................... 22
1.2.3. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân ...................... 25
1.2.4. Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh dịch
Covid-19...................................................................................................................... 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 TẠI VIỆT
NAM, NGUYÊN NHÂN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ............................................ 37
2.1. Thực trạng của vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong bối
cảnh đại dịch Covid-19 tại Việt Nam ......................................................................... 37
2.1.1. Những kết quả đạt được của vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tại Việt Nam ................................................. 40
2.1.2. Những hạn chế của vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
bối cảnh đại dịch Covid-19 tại Việt Nam .................................................................. 49
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế về vấn đề bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong bối cảnh đại dịch Covid - 19 tại Việt Nam ........................... 67
2.2. Đề xuất hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch Covid - 19 tại Việt Nam ............... 72
2.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật ....................................................................... 72
2.2.2. Các giải pháp khác .......................................................................................... 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 79
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................... 80
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của nhân loại, là giá trị chung của
các dân tộc. Ngày nay, quyền con người, quyền công dân được xem là thước đo sự tiến
bộ và trình độ văn minh của xã hội khơng phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển
kinh tế và bản sắc văn hóa. Về lý luận cũng như thực tế, quyền con người, quyền công
dân là những quyền khơng thể thiếu để cá nhân có thể tồn tại và phát triển bình thường
với tư cách là một thành viên của cộng đồng xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất
định1. Chính vì những giá trị ấy mà Đảng và Nhà nước ta luôn nỗ lực để hoàn thiện cũng
như nhất quán đường lối, chủ trương, chính sách về bảo đảm quyền con người, quyền
cơng dân.
Đặc biệt, trong tiến trình phát triển của đất nước, Việt Nam đã xác định con người
là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời con người cũng chính là chủ thể của
chiến lược phát triển2. Đây là sự kết tinh của quá trình nhận thức cũng là thành quả của
công cuộc đấu tranh, hi sinh xương máu của rất nhiều thế hệ người Việt Nam nói riêng
và thế giới nói chung. Vì thế, Nhà nước ta đã xây dựng những chính sách và khn khổ
pháp lý phù hợp nhằm đạt được thành tựu nhất định. Tuy nhiên, để đạt được những mục
tiêu mà Đảng và Nhà nước đã và đang nổ lực phấn đấu thì việc bảo đảm quyền con
người, quyền công dân được xem là mục tiêu cơ bản, trước nhất, vì thế Nhà nước ta ln
coi trọng việc hoạch định chính sách, pháp luật về bảo đảm các giá trị quyền con người,
quyền công dân.
Ngày 11/3 (tối 11/3 theo giờ Việt Nam), Tổ chức Y tế Thế giới đã chính thức tuyên
bố sự bùng phát của dịch viêm đường hô hấp cấp (Covid-19) do chủng mới của virus
Corona (SARS-CoV-2) gây ra là đại dịch toàn cầu3. Truyền thông quốc tế dẫn lời phát
biểu trong buổi họp báo tại Geneva của Tổng Giám đốc WHO Tedros Adhanom
Ghebreyesus nêu rõ WHO đã chính thức coi sự bùng phát của dịch bệnh Covid -19 hiện
nay là “đại dịch toàn cầu”4. Covid-19 đã bùng phát tại Trung Quốc hồi tháng 12/2019,
tính tới tối 11/3 (theo giờ Việt Nam), dịch đã xuất hiện tại 121 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Tới nay, dịch bệnh đã cướp đi sinh mạng của 4.389 người, khiến 122.289 người mắc
Nguyễn Hà Giang (2022), “Bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, Xem thêm tại:
truy cập ngày 21/6/2022.
2
Lương Thanh Cường (2015), “Cơ quan hành chính Nhà nước với việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền
cơng dân”, Tạp chí Quản Nhà nước, Số 239, tr.50.
3
Báo điện tử Chính phủ (2020), “WHO tuyên bố Covid-19 là đại dịch toàn cầu”,
Xem thêm tại: truy cập
ngày 21/6/2022.
4
Theo WHO, đại dịch toàn cầu là một căn bệnh bùng phát và lây lan trên phạm vi toàn thế giới.
1
2
bệnh, song cũng có trên 67.000 người được điều trị thành cơng và khỏi bệnh. Do đó,
theo WHO thì Covid-19 vượt lên trên cả các dịch bệnh gây chết người như Ebola ở
Congo, Zika năm 2016, và Ebola năm 2014 ở Tây Phi. Những dịch bệnh này đều được
xem là trường hợp khẩn cấp quốc tế. Chính vì thế, WHO đề nghị các Chính phủ phải
khẩn trương, nhanh chóng ngăn chặn virut này.
Covid-19 đã làm chậm tiến trình của những kế hoạch, khiến cho những thách thức
vốn dĩ đã rất khó khăn trở nên khó khăn hơn, cụ thể như: nó làm hạn chế khả năng tổ
chức các cuộc đàm phán để giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn, khiến cho những xung đột
trở nên khơng có hồi kết. Vì thế, Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres đã cho
rằng: “Covid-19 đã củng cố hai chân lý cơ bản về quyền con người. Thứ nhất, vi phạm
nhân quyền gây hại cho tất cả chúng ta. Thứ hai, quyền con người là phổ biến và bảo vệ
tất cả chúng ta”5. Cũng liên quan đến vấn đề trên, ngay trong ngày khai mạc, Tổng Thư
ký Liên Hợp Quốc António Guterres cho rằng bình đẳng về tiếp cận đối với vaccine
phịng Covid-19 là vấn đề quyền con người cấp bách, phải được bảo đảm, u cầu Chính
phủ các nước, các cơng ty dược phẩm và các đối tác cần có trách nhiệm hỗ trợ Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO) nhằm sớm đạt được mục tiêu tiêm vaccine cho 70% người dân
trên toàn thế giới. Tổng thư ký LHQ cũng kêu gọi các nước khi ban hành các chính sách
xã hội cần dựa trên mục tiêu đảm bảo quyền và cơ hội cho tất cả mọi người; tập trung
vào xóa đói, giảm nghèo, đầu tư cho giáo dục, bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em; ứng
phó với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học. Cao ủy
Nhân quyền LHQ Michelle Bachelet cũng đã kêu gọi cộng đồng quốc tế tập trung quan
tâm đến các khía cạnh quyền con người trong bối cảnh đại dịch Covid-196. Có thể thấy
rằng, Covid-19 là dịch bệnh rất nguy hiểm nhưng nó nguy hiểm hơn nếu tất cả các quốc
gia chỉ lo chống dịch mà quên đi việc bảo vệ, bảo đảm các giá trị tốt đẹp của quyền con
người, quyền công dân.
Vậy nên, trong bối cảnh nào đi nữa thì vấn đề bảo đảm các giá trị quyền con người,
quyền công dân cũng đều quan trọng, đặc biệt bối cảnh dịch bệnh hết sức nguy hiểm,
tính mạng, sức khỏe con người đang trong tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” thì việc bảo
đảm quyền con người, quyền cơng dân càng phải tăng cường. Chính vì thế, tác giả đã
lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 tại Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp Cử nhân.
2. Tình hình nghiên cứu
António Guterres (2020), “Thế giới đối mặt với đại dịch vi phạm nhân quyền sau sự kiện Covid-19”, Xem thêm
tại: truy cập ngày 21/6/2022.
6
Báo điện tử Chính Phủ (2022), “Liên Hợp Quốc kêu gọi quan tâm đến các khía cạnh quyền con người trong dịch
Covid - 19”, Xem thêm tại: truy cập ngày 21/6/2022.
5
3
Đề tài “Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 tại Việt Nam” là đề tài mới, chưa được nghiên cứu. Qua tìm hiểu thì tác giả
nhận thấy có một số bài viết của các tác giả khác có liên quan đến đề tài như:
Về sách, giáo trình:
Khoa luật đại học quốc gia Hà Nội – Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền
công dân (2011), Tư tưởng về quyền con người, Nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội; Đinh
Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Mai
Hồng Qùy (2014), Quyền con người trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb.
Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Hồ Chí Minh. Mai Hồng Qùy (2014), Quyền con
người trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt
Nam, Hồ Chí Minh; Chu Phương Uyên (2015), Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân trong hiến pháp Việt Nam, Hồ Chí Minh; Trần Ngọc Đường (2004),
Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (2009), Giáo
trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Đinh
Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Lại
Thị Thanh Bình (2020), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc
gia sự thật, Hà Nội; Nguyễn Văn Động (2004), Các quyền hiến định về xã hội của công
dân ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý
(2014), Quyền con người trong Hiến pháp 2013 – Quan điểm mới, cách tiếp cận mới và
các quy định mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Gudmundur Alfredsson, Asbjorn
Eide (2011), Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948 – Mục tiêu chung của nhân loại,
Nxb. Lao động – xã hội; Nguyễn Thị Kim Ngân (2018), Cơ chế thực hiện điều ước quốc
tế về quyền con người, Nxb. Lao động, Hà Nội; Nguyễn Tất Viễn (2020), Bảo đảm quyền
con người trong hoạt động tư pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Cao Đức Thái (2010), Giáo
dục quyền con người – một vấn đề lý luận và thực tiễn bức thiết, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
Về khóa luận tốt nghiệp:
Phạm Thị Cẩm Ngọc (2021), Xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19
và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh7; Trương Chiến Lũy (2002), Vấn đề nhân quyền trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn, Luận văn cử nhân, Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Cơng trình nghiên cứu này đã cho thấy những vướng mắc còn tồn tại trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trước những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
đại dịch. Từ đó, đề xuất hồn thiện những quy định về xử phạt vi phạm hành chính có liên quan đến vấn đề bảo
đảm quyền con người, quyền công dân.
7
4
Về đề tài nghiên cứu khoa học: Phan Nhật Thanh, Nguyễn Thị Ngọc Mai, Đặng
Thị Thu Trang (2014), Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người của Việt Nam, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
Về bài viết đăng trên tạp chí:
Trần Linh Huân (2020), Bảo vệ quyền lợi của người bị nhiễm Covid-19 theo quy
định của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 07); Cao Vũ Minh
(2021), Lý, tình trong vụ tiêu hủy 13 chú chó ở Cà Mau, Tạp chí Pháp luật và đời sống;
Nguyễn Đăng Dung, Bùi Tiến Đạt (2011), Cải cách chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân trong Hiến pháp theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 8 (193); Nguyễn Cảnh Dương (2015), Quyền con người trong
Hiến pháp 2013 – những thay đổi để phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí quản
lý nhà nước – số 234(7/2015); Đào Thị Tùng (2017), Bảo đảm quyền con người trong
văn kiện Đại học XVII của Đảng, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 256; Lê Mai Thanh
(2015), Nghĩa vụ quốc tế và trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền
cơng dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12; Nguyễn Thanh Tuấn (2019), Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân,
Tạp chí Quản lý nhà nước.
Từ những cơng trình nghiên cứu trên, cho thấy, vấn đề bảo đảm quyền con người,
quyền công dân được rất nhiều tác giả nghiên cứu, dưới nhiều góc nhìn đa dạng và phạm
vi nghiên cứu khác nhau. Tuy mỗi cơng trình có cách tiếp cận từ các khía cạnh khác nhau
nhưng hầu hết đều hướng tới sự hoàn thiện của pháp luật nhằm bảo vệ, bảo đảm các giá
trị quyền con người, quyền của công dân.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để sáng làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu thì trong quá trình nghiên cứu tác giả có sử
dụng phương pháp quan điểm lịch sử cụ thể, phương pháp biện chứng của Chủ nghĩa
Mác Lê nin, kết hợp với Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề quyền con người, quyền cơng
dân, ngồi ra tác giả còn sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp nhằm trình bày, phân tích một cách chi tiết, cụ
thể vấn đề, sau đó bằng phương pháp tổng hợp thì sẽ kết luận lại vấn đề và đưa ra kiến
nghị phù hợp. Từ đó, giúp người đọc dễ hiểu hơn.
Phương pháp so sánh và phương pháp đối chiếu, nhằm tìm ra sự giống và khác
nhau để từ đó thể hiện quan điểm cũng như chốt lại vấn đề.
4. Mục tiêu nghiên cứu
5
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn làm rõ những vấn đề lý luận, pháp
lý về quyền con người, quyền công dân, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong bối cảnh dịch Covid-19. Đặc biệt, dịch bệnh Covid-19 được xem là phép thử
cho những nỗ lực và cố gắng trong vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân ở
các quốc gia. Vì thế, thông qua phần thực trạng tại Việt Nam (kết quả đạt được và hạn
chế) thì tác giả sẽ đề xuất hồn thiện quy định pháp luật cũng như đóng góp thêm giải
pháp nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công
dân tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi là bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong đại dịch Covid-19 tại Việt Nam. Có nghĩa là tác giả chỉ
tập trung phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế của việc bảo đảm quyền con
người, quyền công dân tại nước ta trong đợt dịch vừa rồi, từ đó đề xuất để hoàn thiện
hơn vấn đề này.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân là một vấn đề mang tính khái
quát và đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu, với mong muốn hoàn thiện quy định pháp
luật nhằm hướng tới mục tiêu chung. Tuy nhiên, mỗi tác giả lại có cách tiếp cận và
nghiên cứu khác nhau. Mặt khác, bảo đảm quyền con người, quyền công dân không phải
là một vấn đề bất biến theo thời gian. Do đó, trong bối cảnh dịch bệnh có nhiều biến
động thì vấn đề bảo đảm quyền cũng sẽ có sự linh hoạt, thích ứng. Vì thế, tác giả đã thực
hiện việc nghiên cứu đề tài này từ góc độ lý luận đến thực tiễn, nhằm xem xét sự phù
hợp, sự khơng phù hợp của những chính sách, đường lối mà Đảng và Nhà nước đã đặt
ra. Từ đó, đề xuất để góp phần hồn thiện vấn đề này.
Mặt khác, kết quả của việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tăng thêm tài liệu
tham khảo cho những người có nhu cầu nghiên cứu về vấn đề này hoặc xa hơn là sẽ đóng
góp một phần nhỏ trong việc góp ý kiến hoàn thiện pháp luật nhằm đạt được mục tiêu
mà Đảng, Nhà nước luôn hướng đến.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục thì nội dung
đề tài gồm có hai chương:
6
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền công dân và vấn đề
bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Chương 2: Thực trạng vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong bối
cảnh đại dịch Covid-19 tại Việt nam, nguyên nhân và hướng hoàn thiện
7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN
CÔNG DÂN VÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG
DÂN
1.1. Khái quát về quyền con người, quyền công dân
Quan niệm vấn đề quyền con người, dù quan niệm nó có thể khác nhau qua những
thời kì lịch sử, nhưng vấn đề này đã xuất hiện trong thời kỳ Hy Lạp, La Mã cổ đại thông
qua hai Bộ luật đó là bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1700 trước công nguyên) dưới
tên gọi là quyền tự do ngôn luận, quyền sở hữu tài sản8. Và Bộ luật Manu (khoảng 200
trước công nguyên) về quyền được bảo vệ của trẻ em, phụ nữ; quyền tài sản9. Cho thấy,
từ những năm trước cơng ngun thì vấn đề quyền con người đã được ghi nhận một cách
sơ khai và đã được bảo vệ từ rất sớm. Đây vừa thể hiện tư tưởng tiến bộ vừa là một dẫn
chứng điển hình của nguyên tắc pháp quyền.
Tiếp bước thời kì trước về vấn đề nhân quyền, ngay sau khi tuyên bố độc lập khỏi
thuộc địa Anh thì Mỹ đã thơng qua Tun ngơn độc lập năm 1776 và đạo luật nhân
quyền. Trong đó, bản Tuyên ngôn mang ảnh hưởng của triết học khai sáng và của Cách
mạng Anh năm 1688. Nội dung của nó phản ảnh rõ nét tư tưởng của John Locke (triết
gia người Anh ở thế kỷ XVI), với ơng thì có ba quyền cơ bản không được tước đoạt ở
con người đó là quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu. Nhiều ý tưởng khác của ông
cũng đã được Jefferson đưa vào bản Tun ngơn, cụ thể như sự bình đẳng, hạn chế quyền
lực Nhà nước, quyền được thay đổi chính quyền khi nó khơng cịn phù hợp10. Và đến
năm 1789 thì Pháp cũng đã thơng qua Tun ngơn Nhân quyền và Dân quyền Pháp. Tại
lời nói đầu của Tuyên ngôn này đã khẳng định “Sự không hiểu biết, sự lãng quên hay sự
coi thường quyền con người là nguyên nhân duy nhất của những nỗi bất hạnh chung,
của tệ hủ bại các Chính phủ”. Có thể thấy, bản Tun ngôn đã khẳng định sự thiêng
liêng, vô giá của quyền con người.
Cũng vấn đề trên, ngay tại phần mở đầu Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1945 đã
ghi nhận “tôn trọng và tuân thủ những giá trị quyền con người toàn cầu và các quyền tự
do cơ bản của con người, khơng phân biệt chủng tộc, giới tính, ngơn ngữ hoặc tôn giáo”.
Điều này một lần nữa xác định “quyền con người” đã được ghi nhận và thừa nhận rộng
rãi, từ đó nêu lên trách nhiệm phải tuân thủ, phải tơn trọng các giá trị quyền con người,
mặt khác cịn thể hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử khi đảm bảo các quyền này.
Bên cạnh đó, tại hai điều khoản đầu tiên của Tuyên ngôn đã ghi nhận: “Mọi người đều
Khoa luật đại học quốc gia Hà Nội – Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền công dân (2011), Tư tưởng
về quyền con người, Nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội, tr.47, 49, 59.
9
Khoa luật đại học quốc gia Hà Nội – Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền công dân (2011), Tư tưởng
về quyền con người, Nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội, tr. 59.
10
Khoa Luật đại học quốc gia Hà Nội– Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền công dân (2011), Tư tưởng
về quyền con người, Nxb.Lao động – xã hội, Hà Nội, tr.114.
8
8
bình đẳng bởi vì họ có bản chất phẩm giá của con người”. Cho thấy tư tưởng về quyền
con người của những năm về sau đã có sự kế thừa tư tưởng của những năm trước đó, ở
chỗ họ cho rằng sự bình đẳng này xuất phát từ “phẩm giá con người”.
Theo một số nghiên cứu chỉ ra rằng: Tư tưởng về quyền con người bắt nguồn từ
hai học thuyết lớn, đó là: học thuyết pháp quyền tự nhiên và học thuyết các quyền pháp
lý. Với học thuyết “pháp quyền tự nhiên”, tiêu biểu là các tác giả như Zeno (333 – 264
TCN), Thomas Hobbes (1588 – 1679)... Thì quyền con người được sử dụng với ý nghĩa
là những đặc quyền tự nhiên, cái vốn có của con người, cái vốn có mà trời đất đã sinh
cho con người11. Từ chỗ xác định bản chất của quyền con người là quyền tự nhiên, các
học giả theo trường phái “pháp quyền tự nhiên” đã cho rằng: “Quyền tự nhiên của con
người là được sử dụng quyền lực của chính mình để bảo đảm cuộc sống của chính mình,
và do đó, được làm bất cứ điều gì mà mình cho là đúng đắn và hợp lý”12. Kết hợp hai ý
trên của học thuyết, quyền con người được hiểu là những đặc quyền tự nhiên, vốn có và
vì lẽ đó nên con người được sử dụng quyền lực, được dùng mọi cách để bảo vệ cho quyền
của họ, khơng ai có thể chi phối, tác động hay tước bỏ đi quyền này. Học thuyết này có
điểm hay ở chỗ là đề cao quyền con người bằng cách cho rằng quyền này là trời đất, tạo
hóa đã ban cho chính mỗi con người nên quyền này không ai được chi phối hay tác động.
Lý thuyết này làm cho quyền con người được tôn trọng một cách tự nhiên nhất mà không
cần khuôn khổ pháp lý cho nó hay đặt ra trách nhiệm phải tơn trọng, đề cao quyền này.
Nó cũng giống như những vị vua thời kì trước - họ được xem là “con trời”, nên việc họ
là vua được xem là một điều tất nhiên, không ai chối cãi được.
Cũng cần phải hiểu rằng “quyền tự nhiên” này muốn phát huy giá trị thì cần phải
đặt trong mối quan hệ với cộng đồng với xã hội, chỉ khi sống trong cộng đồng thì mới
có sự tác động, gắn kết giữa những thành viên với nhau. Từ đó mới đặt ra quyền và nghĩa
vụ của mỗi cá nhân, mỗi con người trong cộng đồng. Chứ chỉ một cá nhân sống biệt lập
ở ngoài xã hội, ngồi cộng đồng thì họ sẽ thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ với ai và có
lẽ lúc này “quyền con người” mãi mãi là một thứ gì đó trừu tượng và ngồi tầm mong
đợi của họ. Do đó, để học thuyết này mang lại giá trị thực sự thì quyền tự nhiên này cần
đặt trong mối quan hệ với cộng đồng, để lúc này con người được sống đúng với bản chất
của họ13.
Tuy nhiên, trái với quan điểm của học thuyết về quyền tự nhiên thì học thuyết về
các quyền pháp lý (legal rights) hình thành ở thế kỷ XVII – XVIII tiêu biểu là các tác
Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.58.
Mai Hồng Qùy (2014), Quyền con người trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam, Hồ Chí Minh, tr.14.
13
Trong tác phẩm Luận cương về Phoi ơ bắc, Các Mác đã cho rằng: “Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó thì bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”. Và xã hội hiện nay chính là xã hội của con người, của nhân dân và xã hội đó được tạo ra từ các
mối quan hệ giữa người với người trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… Do đó, học thuyết pháp quyền
tự nhiên chỉ thực sự có giá trị khi đặt con người trong mối quan hệ xã hội.
11
12
9
giả như Edmund Burke (1729 – 1797), Jeremy Bentham (1748 – 1832)… thì họ cho rằng
quyền con người khơng phải là những gì bẩm sinh vốn có mang tính tự nhiên của con
người. Mà học thuyết này cho rằng quyền con người phải do Nhà nước quy định và pháp
điển hóa thành các quy phạm pháp luật, bắt buộc mọi người phải tuân theo14. Có thể
thấy, với những nhà nghiên cứu theo học thuyết các quyền pháp lý thì họ không xem
quyền con người là một cái bẩm sinh vốn có, bởi vì nếu thừa nhận bẩm sinh vốn có thì
rất khó đặt ra cơ chế bảo vệ những quyền này, mà khi khơng có cơ chế thì sẽ khơng thể
đặt ra chế tài khi bị xâm phạm quyền. Và nếu coi quyền này là quyền tự nhiên, không
cần đặt ra cơ chế bảo vệ thì chỉ khi mọi người sống trong xã hội mà mọi thứ bình đẳng
với nhau, ai cũng được an tồn, ấm no, hạnh phúc thì khi đó quyền này sẽ được coi là
quyền tự nhiên mà không cần phải do Nhà nước quy định và pháp điển hóa để bắt buộc
mọi người phải tuân theo nữa. Nhưng học thuyết này lại được hình thành từ những năm
của thế kỷ XVIII, đây là lúc mà xã hội cịn nhiều biến động, do đó để bảo vệ những
quyền này thì cần đặt trong một khn khổ pháp lý nhất định.
Tóm lại, hai học thuyết này có sự khác nhau về quan điểm, cụ thể là học thuyết về
quyền tự nhiên cho rằng quyền con người là quyền tự nhiên, bẩm sinh, vốn có của con
người, trong khi đó học thuyết về các quyền pháp lý, cho rằng quyền con người không
là quyền tự nhiên, bẩm sinh vốn có mà nó do Nhà nước quy định, pháp điển hóa. Sự khác
biệt này hồn tồn có thể, bởi hai học thuyết này được nghiên cứu trong hai khoản thời
gian khác nhau nên sẽ bị chi phối bởi quan điểm lịch sử cụ thể khác nhau15. Nhưng tựu
chung lại là cả hai học thuyết đều ghi nhận quyền con người, đều thể hiện quan điểm để
bảo vệ quyền này. Do đó, khơng thể kết luận học thuyết nào hợp lý và học thuyết nào
chưa hợp lý mà phải kết hợp những điểm hợp lý của hai học thuyết lại để đưa ra một kết
luận mang tính tối ưu hơn.
Vì thế, theo tác giả, quyền con người là quyền tự nhiên, là cái vốn có của mỗi con
người nhưng quyền này đồng thời cũng nên chịu sự chi phối từ những yếu tố khác chẳng
hạn như pháp luật để từ đó phát huy đúng giá trị của nó.
Mai Hồng Qùy (2014), Quyền con người trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam, Hồ Chí Minh, tr.19.
15
Quan điểm lịch sử cụ thể được hiểu là: “Khi xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ lịch sử căn bản, xem
sự vật, hiện tượng đó đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào;
đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào” – V.I.Lê Nin. Do đó,
đối với từng thời điểm lịch sử khác nhau thì với cùng một vấn đề cách tiếp cận và kết quả sẽ có sự khác nhau.
14
10
1.1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Nhân quyền (hay quyền con người – human rights) là một phạm trù đa diện16, do
đó có nhiều định nghĩa khác nhau17. Chính vì đây là một phạm trù đa diện nên khái niệm
này được tiếp cận với nhiều góc độ, nhiều phương diện khác nhau. Do đó, để làm rõ khái
niệm quyền con người thì tác giả sẽ làm rõ khái niệm “quyền” và “con người”.
Theo đó, con người được Hồ Chí Minh quan niệm là một chỉnh thể, thống nhất về
trí lực, tâm lực, thể lực, đa dạng bởi các mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội và các mối
quan hệ xã hội18. Nên Người đã cho rằng con người là có tính xã hội, là con người xã
hội, thành viên của một cộng đồng xã hội. Còn “con người” theo Chủ nghĩa Mác Lê nin
được hiểu là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng
giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội”19. Điểm chung giữa hai quan niệm trên là đều
cho rằng con người mang đặc tính của xã hội, đây là điểm chung mà khơng ai có thể phủ
nhận khi nghiên cứu về con người.
Về “quyền”, đây là thuật ngữ có nội hàm rất đa dạng, phức tạp được hiểu dưới
nhiều góc độ khác nhau. Theo tác giả Hoàng Phê, “quyền” là điều mà pháp luật hoặc xã
hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi hoặc những điều do địa vị hay
chức vụ mà được làm20. Với quan điểm của tác giả Hồng Phê thì quyền là cái phải được
“ban phát”, bởi lẽ theo ông, quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được
hưởng, được làm, được địi hỏi thì đó mới là quyền nhưng nếu pháp luật hoặc xã hội
khơng cơng nhận cho thì đồng nghĩa là người đó khơng có quyền. Có thể thấy, quan
điểm này ở một khía cạnh nào đó, khơng được tồn diện. Bên cạnh đó, ơng cịn cho rằng
quyền có thể có trong trường hợp nhờ có địa vị hay chức vụ mang lại, quan điểm này lại
làm cho người đọc hiểu rằng nếu một người mà họ là thường dân - họ khơng mang trên
mình một chức vụ, địa vị hoặc họ không được công nhận từ pháp luật hoặc xã hội, khi
đó họ khơng có quyền. Và quyền mà tác giả Hoàng Phê nhắc đến do địa vị hoặc chức vụ
mang lại mà được làm thì theo tác giả nếu dùng từ “quyền” để diễn đạt thì đã đủ để phản
ánh hay chưa, hay thay vào đó nên dùng “thẩm quyền” cho phù hợp hơn.
Phạm trù đa diện được hiểu bởi hai thuật ngữ “phạm trù” và “đa diện”. Trong đó, phạm trù là những khái niệm
rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện
tượng thuộc một lĩnh vực nhất định, còn đa diện được hiểu là nhiều mặt.
17
Chu Phương Uyên (2015), Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hiến pháp Việt Nam,
Hồ Chí Minh, tr.22.
18
Bộ Giáo dục đào tạo (2015), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.241.
19
Nguyễn Viết Thơng (2015), Giáo trình những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin, Nxb. Chính trị quốc
gia – Sự thật, Hà Nội, tr.169, 170.
20
Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, tr.85.
16
11
Theo Thomas Hobbes – nhà triết học người Anh nổi tiếng thì quyền bao gồm việc
tự do để hành động hay khơng hành động. Và với ơng thì “tự do” được hiểu là sự vắng
mặt của những trở ngại bên ngồi, những trở ngại đó thường tước đi một phần sức mạnh
của con người để làm điều ta muốn làm, nhưng khơng thể ngăn cản ta sử dụng sức mạnh
cịn lại của mình theo sự sai khiến của lý trí và sự suy xét của chính bản thân mình21.
Quan điểm này vừa thể hiện quyền là một cái gì đó rất tự nhiên giống như quan điểm
của học thuyết quyền tự nhiên, vừa đề cao khả năng của con người trước những trở ngại.
Từ đó, có thể thấy rằng quyền là những gì được phép làm. Do đó, theo tác giả,
quyền con người được hiểu một cách đơn thuần nhất là những gì con người được làm
trong một xã hội với sự tác động qua lại của các mối quan hệ.
Về khái niệm quyền con người, theo Từ điển Luật Black’s Law Dictionary, “quyền
con người” được hiểu là “những quyền tự do, quyền miễn trừ và lợi ích mà theo những
giá trị hiện đại, đặc biệt ở phạm vi quốc tế, tất cả mọi người đều có khả năng địi hỏi
những quyền đó trong xã hội mà họ đang sống”22. Quan niệm này coi quyền con người
là phạm trù khái qt vì nó được tạo bởi quyền tự do, quyền miễn trừ và lợi ích của chính
con người. Tuy nhiên, ở cụm từ “đặc biệt ở phạm vi quốc tế, tất cả mọi người đều có khả
năng địi hỏi những quyền đó trong xã hội mà họ đang sống” có thể hiểu là những quyền
này phải được ghi nhận trong pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế, con người mới có
quyền “địi hỏi những quyền đó” của chính họ. Vơ hình chung thì quan niệm này lại chỉ
ra rằng quyền con người bao gồm những quyền pháp luật quy định. Bên cạnh đó, pháp
luật được hiểu là sinh ra để điều chỉnh, để bảo vệ con người trong xã hội tức là pháp luật
được sinh ra để phục vụ con người chứ khơng phải con người sinh ra vì pháp luật. Cho
nên, khuyết điểm lớn nhất của quan điểm này là chỉ đặt quyền con người trong phạm vi
của pháp luật mà chưa có sự gắn kết với yếu tố tự nhiên.
Theo tác giả Allina Kaczorowska cho rằng quyền con người là những quyền vốn
có (inherent) ở tất cả mọi người, khơng những quyền này là vốn có, chúng cịn bất khả
nhượng, phổ biến, khơng thể phân chia, liên hệ với nhau và được áp dụng bình đẳng cho
mọi người23. Quan niệm trên đang xem xét quyền con người với tư cách là quyền tự
nhiên, cụ thể là quan điểm của tác giả này có phần giống với quan điểm của học thuyết
về quyền tự nhiên, xem quyền con người là những quyền vốn có ở tất cả mọi người.
Quan điểm này chưa có sự kết hợp giữa hai yếu tố là yếu tố tự nhiên và yếu tố pháp luật
mà chỉ mới hàm chứa yếu tố tự nhiên, như vậy, nó chưa mang lại sự tồn diện cho khái
niệm này. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng, quan niệm trên đã khẳng định quyền
con người được áp dụng bình đẳng với mọi người, đây là một trong những nguyên tắc
cơ bản, xuyên suốt về quyền con người. Theo tác giả Trần Ngọc Đường: “quyền con
Trích Thomas Hobbes (1652), “Leviathan (Thủy quái)”.
Bryan A Garner, Black’s Law Dictionary, Thompson West, tr.758.
23
Allina Kaczorowska (2010), Public International Law, Routledge, tr.499.
21
22
12
người vừa khẳng định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa
nhận thuộc tính xã hội – chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người thuộc một quốc
gia, một dân tộc”24. Theo giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người của Đại học
quốc gia Hà Nội, quyền con người cịn là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các
thỏa ước pháp lý quốc tế”25. Hai quan điểm trên đã có sự kết hợp giữa yếu tố tự nhiên
và yếu tố pháp luật, tuy nhiên ở quan điểm thứ hai “quyền con người được ghi nhận và
bảo vệ” thì lại làm cho người đọc hiểu là những nhu cầu, những lợi ích tự nhiên mà nếu
khơng được ghi nhận thì sẽ khơng được gọi là quyền con người.
Từ những quan điểm được các nhà nghiên cứu trình bày thì quyền con người là
thuật ngữ có các cách hiểu khác nhau, mỗi người đều có cách tiếp cận, hướng lý giải
riêng tạo nên sự đa dạng trong cách định nghĩa quyền con người, tuy nhiên giữa họ đều
điểm chung như sau:
Thứ nhất, quyền con người là quyền tự nhiên, quyền vốn có mỗi con người và nó
được xem là giá trị tự nhiên của mỗi một con người.
Thứ hai, quyền con người thường được ghi nhận bằng hình thức pháp lý nhất định
(pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế).
Thứ ba, quyền con người là một khái niệm tổng quát, trong đó chứa đựng nhiều
quyền cụ thể, độc lập với nhau và tựu chung lại tạo thành “quyền con người”.
Thứ tư, quyền con người là quyền của mỗi cá nhân từ đó hiểu là tất cả mọi người
đều được hưởng quyền này như nhau, khơng có sự phân biệt đối xử, để quyền này được
tồn tại đúng nghĩa thì giữa các cá nhân phải chịu sự chi phối từ cộng đồng và xã hội, bởi
lẽ một cá nhân không thể sống tách biệt, nó cũng như quan điểm “Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội”26.
1.1.1.2. Khái niệm quyền công dân
Về khái niệm “công dân” (citizen), theo Từ điển Merriam-Webster online thì cơng
dân là một khái niệm xuất hiện từ thế kỷ XIV, có nghĩa là “một cá nhân (hợp pháp) thuộc
về một quốc gia và có các quyền và sự bảo vệ của quốc gia đó”27. Theo Từ điển
Cambridge online, công dân “là thành viên của một quốc gia cụ thể và có các quyền bởi
Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.12 – 25.
25
Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (2009), “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người”, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.42.
26
Phạm Văn Sinh, Phạm Quang Phan (2015), “Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê nin”,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.172.
27
Xem thêm tại: truy cập ngày 21/6/2022.
24
13
được sinh ra tại đó hoặc bởi được trao cho các quyền”28. Cịn theo Bách khoa tồn thư
Stanford Encyclopedia of Philosophy, “công dân là thành viên của một cộng đồng chính
trị, người mà được hưởng các quyền và thừa nhận các nghĩa vụ của thành viên”29. Như
vậy, có thể thấy khái niệm công dân thường gắn liền với một quốc gia cụ thể. Cách hiểu
này có phần giống với học thuyết về các quyền pháp lý về khái niệm quyền con người,
trong đó học thuyết này khơng coi quyền con người là quyền bẩm sinh vốn có, mang
tính tự nhiên mà quyền con người là do Nhà nước quy định, pháp điển hóa thành các quy
phạm pháp luật và bắt buộc mọi người phải tuân theo.
Quyền công dân là một khái niệm đã bắt đầu xuất hiện từ thời Hy Lạp, La Mã và
trải qua nhiều biến đổi, với ý nghĩa cốt lõi là thể hiện tình trạng thành viên trong một
cộng đồng chính trị tự trị30.
Về khái niệm quyền công dân, theo từ điển Black’s Law Dictionary: “quyền công
dân (Citizenship) thể hiện địa vị pháp lý của công dân (Citizen)”31. Quan niệm này coi
quyền công dân là những quyền và tự do mà một quốc gia dành cho công dân nên thơng
qua quyền này thì sẽ biết được địa vị pháp lý của họ như thế nào. Mặt khác, T.H.
Marshall32, người đã dành rất nhiều thời gian cho các cuộc tranh luận về quyền công dân
xã hội, cho rằng: ‘quyền công dân là một trạng thái dành cho những người là thành viên
đầy đủ của một cộng đồng. Tất cả những người sở hữu quyền cơng dân đều bình đẳng
với nhau về quyền và nghĩa vụ công dân”33. Quan niệm này cũng xem xét quyền công
dân gắn với một cộng đồng (quốc gia) và nó cũng có điểm chung với quan điểm trên là
quyền công dân là những quyền mà quốc gia dành cho cơng dân của mình. Hai định
nghĩa trên đều khẳng định vai trò, địa vị pháp lý của công dân thông qua quyền công dân
tại một cộng đồng, tuy nhiên, nhìn chung cả hai định nghĩa cịn khá mơ hồ và khơng đề
cập đến đối tượng được hưởng quyền này cũng như điều kiện mà một chủ thể cần đáp
ứng để có được địa vị pháp lý đó34. Hơn nữa, chỉ có duy nhất định nghĩa của T.H.
Marshall có chỉ ra đối tượng được hưởng quyền này là con người thơng qua cụm từ
“những người”, cịn định nghĩa của từ điển Black’s Law Dictionary thì vẫn chưa xác
định được rõ ràng đối tượng được hưởng là con người hay một thực thể khác không phải
con người. Bên cạnh đó, C. Mác (1818 - 1875) và Ph. Ăng-ghen (1820 - 1895) cho rằng,
quyền công dân chẳng qua chỉ là những quyền của thành viên xã hội công dân, nghĩa là
28
Xem thêm tại: truy cập ngày 21/6/2022.
Xem thêm tại: truy cập ngày 21/6/2022.
30
Xem thêm: truy cập ngày 21/6/2022.
31
Xem thêm tại: Black’s Law Dictionary (Special Deluxe Fifth Edition, 1984), tr.222.
32
Nhà xã hội học người Anh, được chú ý nhờ bộ sưu tập tiểu luận có ảnh hưởng của ơng, trong đó phải kể đến
Citizens and Social Class, tạm dịch: Công dân và Tầng lớp xã hội.
33
TH. Marshall (1950), “Citizenship and Social class”, tr.46. Xem thêm tại:
/>truy cập ngày 21/6/2022.
34
Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền 1948.
29
14
của con người vị kỷ tách khỏi bản chất cộng đồng người35. Theo các ông, những vấn đề
thực tế về nhân quyền chỉ xuất hiện khi hình thành chủ nghĩa tư bản và từ đó, nhân quyền
“khơng chỉ tồn tại trên lý luận nữa”36. Chủ nghĩa tư bản đã “quy con người, một mặt,
thành thành viên của xã hội công dân, thành cá nhân vị kỷ, độc lập, và mặt khác, thành
công dân của nhà nước, thành pháp nhân”37. Các ông khẳng định: “Pháp luật phải lấy
xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội,
... mà không phải là do ý muốn tùy tiện của một cá nhân”38. Cho thấy, ở quan điểm trên
thì Mác khơng tách biệt quyền con người và quyền công dân mà đặt chúng trong mối
quan hệ thống nhất nhau ở quyền con người, trong đó bao hàm cả quyền cơng dân, đó là
sự phản ánh tổng thể nhu cầu của con người hiện thực trong điều kiện tồn tại xã hội, tồn
tại Nhà nước39. Tuy nhiên, trong quan niệm của mình, Mác cũng có sự tách biệt tương
đối về quyền con người và quyền công dân, xem đây là hai bộ phận khác nhau trong
cùng một thể thống nhất. Mác cho rằng: “Quan sát cái gọi là nhân quyền và hơn thế nữa
quan sát nhân quyền dưới hình thức thực chất của chúng, thì một phần nhân quyền là
quyền chính trị, là tham gia vào cộng đồng chính trị và tham gia nắm giữ quyền lực
chính trị Nhà nước. Phần khác của bản chất nhân quyền là quyền tự do của con người
về đặc quyền tín ngưỡng, tơn giáo được thừa nhận trực tiếp, đó cũng là một trong những
quyền cơ bản của con người - quyền công dân”.
Từ những quan điểm được các nhà nghiên cứu trình bày thì quyền cơng dân cũng
là thuật ngữ có các cách hiểu khác nhau, mỗi người đều có cách tiếp cận, hướng lý giải
riêng tạo nên sự đa dạng trong cách định nghĩa quyền công dân, tuy nhiên giữa họ đều
điểm chung như sau:
Thứ nhất, coi quyền công dân không phải là quyền tự nhiên, vốn có của con người
mà quyền này là do Nhà nước quy định, Nhà nước ban cho.
Thứ hai, quyền công dân thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với quốc gia.
Thứ ba, quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm khơng hồn tồn
đồng nhất, được bảo vệ bởi các đối tượng, tổ chức khác nhau. Theo đó, quyền cơng dân
được ghi nhận bằng hình thức pháp lý là pháp luật quốc gia. Quyền công dân là thể hiện
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 2, tr. 176.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 2, tr. 187.
37
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 1, tr. 557.
38
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 332 – 333.
39
Nguyễn Việt Sỹ (2019), “Quan điểm của chủ nghĩa mác về “quyền con người” và việc thực hiện quyền con
người ở nước ta hiện nay”,
Xem thêm tại:
/>ilibrary/truongchinhtrisite/trangchu/nghiencuukhoahoc/hoithaokhoahoc/mnvmbnmvmvbnmnvmbv, truy cập ngày
22/6/2022.
35
36
15
địa vị pháp lý của cá nhân đó nên quyền này mang giá trị đặc thù, chỉ áp dụng trong
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia và có thể thay đổi theo thời gian.
Vì thế, quyền cơng dân là một thuật ngữ mang tính xác định, gắn liền với mỗi quốc
gia và được hệ thống pháp luật của chính mỗi quốc gia ghi nhận nên mỗi quốc gia sẽ có
sự khác nhau về cách hiểu của thuật ngữ này. Theo tác giả thì quyền cơng dân là các
quyền mà pháp luật ghi nhận và dành cho một chủ thể xác định là công dân. Theo pháp
luật Việt Nam, công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam40. Nên quyền công
dân theo pháp luật Việt Nam là khả năng mà công dân thực hiện các hành vi mà pháp
luật khơng cấm theo nhận thức và ý chí của họ. Đơn cử như: cơng dân có quyền tự do
ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình41, có quyền tự do
đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước42…
1.1.2. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi nhưng không đồng
nhất. Bởi lẽ, quyền công dân (citizen’s rights) là một thuật ngữ xuất hiện cùng cách mạng
tư sản. Cách mạng tư sản đã đưa con người từ địa vị những thần dân trở thành những
công dân (với tư cách là những thành viên bình đẳng của một nhà nước) và pháp điển
hóa các quyền tự nhiên của con người dưới hình thức các quyền cơng dân43. Theo Tun
ngơn Quốc tế Nhân quyền 1948 thì quyền con người là quyền vốn có của tất cả mọi
người, khơng phân biệt chủng tộc, giới tính, dân tộc, ngơn ngữ, tơn giáo. Ngoài ra, , theo
Từ điển Luật Black’s Law Dictionary thì “quyền con người” được hiểu là “những quyền
tự do, quyền miễn trừ và lợi ích mà theo những giá trị hiện đại, đặc biệt ở phạm vi quốc
tế, tất cả mọi người đều có khả năng địi hỏi những quyền đó trong xã hội mà họ đang
sống”.Theo hai định nghĩa trên, có thể hiểu rằng bất kỳ người nào sinh ra đều có quyền
con người, nói cách khác, một chủ thể hiển nhiên có quyền con người nếu chủ thể đó là
con người, nó khác với quyền cơng dân vì các quyền cơng dân chỉ phát sinh khi tồn tại
mối quan hệ giữa cá nhân đó với Nhà nước và được Nhà nước hợp pháp hóa trở thành
cơng dân. Do đó, khơng phải chủ thể nào là người thì hiển nhiên có quyền cơng dân.
Mặt khác, quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền công dân. Bởi lẽ, quyền
cơng dân chỉ có khi cá nhân đó được xác định là công dân, tức là họ thuộc về một Nhà
nước nhất định. Căn cứ xác định công dân một Nhà nước là dựa vào quốc tịch. Chẳng
hạn như, ở Việt Nam theo Hiến pháp 2013 tại Điều 17 thì: “Cơng dân nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”, có thể thấy lúc bấy giờ thì
khái niệm cơng dân lại có một mối quan hệ mật thiết với khái niệm quốc tịch, mà theo
quy định tại Điều 1 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014):
Khoản 1 Điều 5 Luật quốc tịch 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014).
Điều 25 Hiến pháp 2013.
42
Điều 23 Hiến pháp 2013.
43
Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.40.
40
41
16
“Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối
với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đối với cơng dân Việt Nam”. Do đó, khi cá nhân đó được xác định là cơng dân thì lúc
này họ được hưởng những quyền và đồng thời phải thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh các
nghĩa vụ của một người công dân. Mặt khác, tại Điều 18 Hiến pháp 2013 có quy định
như sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngồi là bộ phận khơng tách rời của cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và
tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây
dựng quê hương, đất nước”. Quy định trên lại một phần nào thể hiện mối quan hệ gắn
bó, chặt chẽ giữa Nhà nước Việt Nam với cơng dân Việt Nam.
Trong khi đó, quyền con người thì bao hàm cả những người khơng là cơng dân
(người nước ngồi, người khơng quốc tịch). Thường thì các quyền con người xuất phát
trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau giữa các Nhà nước, các điều ước quốc tế mà họ đã ký hoặc
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế. Theo Nguyễn Đăng Dung quyền con người,
quyền cơng dân có mối quan hệ: “Nếu như các quyền con người thể hiện ở quyền cơng
dân thì quyền cơng dân phải là những quyền vốn có của con người mà nhà nước phải
thừa nhận vì quyền con người là những quyền tự nhiên vốn có của con người”44.
Cũng nhằm bàn về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền cơng dân thì Trần
Ngọc Đường cũng thể hiện quan điểm như sau:
“Việc sử dụng khái niệm quyền con người với nội dung chính trị - pháp lý đầy đủ
để phản ánh giá trị cá nhân con người trong mối quan hệ với một Nhà nước nhất định
như vậy sẽ là chiếc cầu nối giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế, bảo đảm hiệu
lực thực thi của các quyền con người mạnh mẽ hơn bằng hệ thống pháp luật trong nước
và cả hệ thống pháp luật quốc tế, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế. Như vậy, khái niệm quyền con người không loại trừ khái niệm
quyền công dân và cũng khơng thay thế được nó. Ngược lại, khái niệm quyền công dân
không thể chứa đựng cả khái niệm quyền con người. Trong ý nghĩa pháp lý khái niệm
quyền công dân hẹp hơn, không khái quát tất cả các quyền của cá nhân con người được
Nhà nước thừa nhận và bảo vệ bằng pháp luật trong nước cũng như pháp luật nước
ngoài”45.
Quan điểm C. Mác như sau: “quyền cơng dân là những quyền chính trị, những
quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên xã hội cơng dân, cịn quyền con
Nguyễn Đăng Dung, Bùi Tiến Đạt (2011), “Cải cách chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong
Hiến pháp theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8 (193), tháng 4/2011.
45
Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về Quyền con người, quyền cơng dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.138.
44
17
người là những đặc quyền chỉ có con người mới có với tư cách là con người”46. Bên
cạnh đó, Mác từng nói là quyền con người, quyền cơng dân ln nằm trong một chỉnh
thể thống nhất và trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Như vậy, khái niệm “quyền
con người” và “quyền công dân” là hai khái niệm không đồng nhất với nhau, chúng có
mối quan hệ với nhau.
1.1.3. Các nhóm quyền con người, quyền cơ bản của cơng dân theo Hiến pháp
2013
Về mặt cấu trúc, Hiến pháp 2013 có 120 điều và chia thành 11 chương, trong đó
chương quyền con người, quyền công dân được quy định chủ yếu ở Chương II với tên
gọi là quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và gồm 36 điều luật.
Về mặt vị trí, Hiến pháp 2013 đã chuyển Chương “Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của cơng dân từ vị trí thứ năm trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001)
lên vị trí thứ hai, chỉ ngay sau chương I về chế độ chính trị. Với vị trí trang trọng này,
Hiến pháp 2013 đã cho thấy sự nhận thức mới về vai trò quan trọng của chế định này và
nó cũng cho thấy sự bắt kịp xu thế của các nước trên thế giới về vấn đề coi trọng nhân
quyền của nước ta.
Quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp 2013 có thể chia
thành 3 nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất, quyền con người, quyền cơ bản của công dân về dân sự
Lĩnh vực dân sự được hiểu là lĩnh vực hoạt động của con người nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất, tinh thần của họ. Lĩnh vực hoạt động này được đặc trưng bởi tính tự
nguyện, tự do ý chí và bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ. Cho nên, quyền dân
sự là quyền cơ bản, bẩm sinh gắn liền với cuộc sống của mỗi con người47. Do đó, tất cả
mọi người đều sẽ được hưởng quyền này. Nhóm quyền này bao gồm các quyền sau:
quyền khơng được trục xuất và giao nộp cho Nhà nước khác (Điều 17), quyền sống (Điều
19), quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự
và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (Điều 20), quyền
hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (Điều 20), quyền bất khả xâm phạm đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình (Điều 21), quyền bảo vệ danh dự và uy tín
của mình (Điều 21), quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi
thông tin riêng tư khác (Điều 21), quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 22), quyền
Lại Thị Thanh Bình (2020), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội,
tr.14, 15.
47
Mai Hồng Qùy (2012), Quyền con người trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam, Hồ Chí Minh, tr.23.
46