ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HCM
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THỦ ĐỨC
KHOA TIẾNG ANH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY PHÁT ÂM TIẾNG ANH
Họ tên tác giả: PHẠM NGUYỄN HOÀI PHƯƠNG
Chức vụ: giảng viên tiếng Anh
Thành phố Hồ Chí Minh-tháng 5/2015
MỤC LỤC
Trang
I. Phần mở đầu ..................................................................................................................1
1.1 Lý do chọn đề tài ……………………….......................................................................1
1.2. Mục đích của đề tài.......................................................................................................2
1.3. Tổng quan vấn đề cần nghiên cứu….............................................................................2
1.4 Phạm vi và đối tượng của đề tài.....................................................................................3
1.5 Phương pháp nghiên cứu................................................................................................3
II. Phần Nội dung………………………………................................................................4
2.1. Cơ sở lý luận …….........................................................................................................4
2.1.1 Định nghĩa phát âm .....................................................................................................4
2.1.2 Lý do học phát âm........................................................................................................4
2.1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát âm..................................................................4
2.1.4 Nguyên tắc dạy phát âm...............................................................................................6
2.1.5 Một số kỹ thuật dạy phát âm........................................................................................6
2.1.5.1 Dạy âm……………………………………………………………………………...6
2.1.5.2 Dạy trọng âm……………………………………………………………………….15
2.1.5.3 Dạy ngữ điệu……………………………………………………………………….18
2.2. Thực trạng……..............................................................................................................20
2.3. Bài học kinh nghiệm..............................................................…....................................23
III. Kết luận và kiến nghị...................................................................................................26
3.1. Kết luận..........................................................................................................................26
3.2. Kiến nghị........................................................................................................................27
Tài liệu tham khảo.................................................................................................................29
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong lĩnh vực dạy và học ngôn ngữ, mặc dù phát âm được xem là phần rất
quan trọng nhưng trên thực tế việc dạy và học phát âm thường ít được giáo viên lẫn
học viên quan tâm đúng mức. Như khi học tiếng Anh, học sinh thường khơng được
rèn luyện phát âm chính xác trong q trình học phổ thơng nên gặp khơng ít khó
khăn khi nghe và nói tiếng Anh với người nước ngồi. Việc uốn nắn và sửa lỗi phát
âm cho các em khi học cao đẳng hay đại học cũng rất hạn chế khi các em đã quen
với cách phát âm không chuẩn ngay từ lúc mới bắt đầu học ngoại ngữ. Đối với giáo
viên dạy ngôn ngữ, nếu thiếu kiến thức về ngữ âm học, đặc biệt là ngữ âm học cấu
âm, và việc nắm vững phương pháp dạy phát âm khiến cho họ cảm thấy giờ dạy
phát âm nặng nề, khơng hứng thú; thậm chí một số giáo viên tìm cách rút ngắn
hoặc bỏ qua giai đoạn luyện phát âm cho người mới bắt đầu học. Hơn nữa, tâm lý
chung của nhiều học sinh là muốn phát âm đúng một ngoại ngữ nào đó nhưng lại
khơng muốn mất nhiều thời gian và công sức vào việc luyện phát âm. Đây cũng là
một vấn đề nan giải cho giáo viên khi dạy phát âm tiếng Anh. Với thực tế như vậy,
việc đầu tư vào kỹ thuật dạy phát âm và xây dựng tài liệu giảng dạy sinh động dựa
trên công nghệ là việc làm cần thiết đối với giáo viên ngoại ngữ. Đặc biệt, môn
luyện phát âm tiếng Anh là một trong những mơn học bắt buộc nằm trong chương
trình giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành mà sinh viên được tiếp cận ngay từ năm
học đầu. Thực tế, không chỉ sinh viên khơng chun mà sinh viên chun ngành
cũng gặp khó khăn khi phát âm tiếng Anh. Trước những khó khăn mà sinh viên
thường gặp khi phát âm tiếng Anh thông qua quá trình giảng dạy và sinh hoạt câu
lạc bộ tiếng Anh, người viết muốn đề xuất những kỹ thuật dạy phát âm tiếng Anh
để các giờ dạy phát âm trở nên sinh động hiệu quả hơn.
1
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
1.2 Mục đích của đề tài
Với một số kỹ thuật dạy phát âm tiếng Anh cơ bản, đề tài đem lại những mục
đích như sau:
- Trước tiên, đề tài chia sẻ một số kinh nghiệm giảng dạy phát âm cho các giáo
viên tiếng Anh để những giờ dạy và học phát âm sinh động hiệu quả hơn.
- Thứ hai, đề tài giúp cho sinh viên tại trường cao đẳng công nghệ Thủ Đức
không những sinh viên chuyên ngành tiếng Anh mà các sinh viên không
chuyên khắc phục những hạn chế khi phát âm tiếng Anh và phát âm tiếng
Anh một cách tự tin chính xác hơn.
- Cuối cùng, đề tài cung cấp những thông tin cần thiết giúp các nhà quản lý
thiết kế chương trình thích hợp nhằm đáp ứng nhu cầu học tập cho sinh viên.
1.3 Tổng quan vấn đề cần nghiên cứu
Đề tài về dạy phát âm là một đề tài mới tại trường cao đẳng công nghệ Thủ
Đức. Đây cũng là đề tài thu hút được sự quan tâm lớn của các giáo viên tiếng Anh
trong khoa vì tính cấp thiết và mới mẻ. Phát âm là một phần rất quan trọng trong
việc dạy và học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng. Nó địi hỏi có sự rèn
luyện nghiêm túc của người học và sự sáng tạo nhiệt tình của người dạy. Vì đa
phần sinh viên khơng được rèn luyện về phát âm trong q trình học phổ thơng nên
rất khó để giáo viên chỉnh sửa khi các em phát âm khơng chính xác. Các em bị ảnh
hưởng bởi tiếng mẹ đẻ rất nhiều khi phát âm tiếng Anh. Tất nhiên, giáo viên khơng
địi hỏi các em phải phát âm chuẩn như trong máy đọc hay như người bản ngữ đọc
nhưng đỏi hỏi các em phải phát âm tương đối chính xác để người nghe có thể hiểu
mình muốn nói điều gì. Vì phát âm khơng tốt nên sinh viên thường ngại giao tiếp
tiếng Anh với người bản ngữ và gặp khó khăn trong kỹ năng nghe tiếng Anh. Dù
không học môn phát âm nhưng các sinh viên không chuyên cũng được giáo viên
dạy phát âm khi dạy từ vựng mới. Phát âm là phần khó khăn chung của cả sinh viên
chuyên ngành tiếng Anh và sinh viên không chuyên khi học tiếng Anh. Thông qua
2
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hồi Phương
việc tìm hiểu thực trạng dạy học phát âm, người viết mong muốn những giờ học
phát âm trên lớp trở nên sinh động và hiệu quả hơn với một số kỹ thuật dạy tích lũy
trong q trình giảng dạy và nghiên cứu tài liệu được đúc kết. Sinh viên sẽ ghi nhớ
bài học tốt hơn, cải thiện việc phát âm thiếu chính xác để tự tin hơn trong giao tiếp.
1.4. Phạm vi và đối tƣợng của đề tài
Do hạn chế về thời gian, không gian và quy mô nghiên cứu nên đề tài được
viết trong phạm vi trường cao đẳng Công Nghệ Thủ Đức, áp dụng cho sinh viên
chuyên ngành tiếng Anh tại khoa Anh.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số kỹ thuật dạy phát âm tiếng Anh.
Dựa trên một số tài liệu về kỹ thuật dạy phát âm tiếng Anh và kinh nghiệm giảng
dạy môn phát âm tiếng Anh, người viết sẽ nêu ra một số kỹ thuật dạy phát âm tiếng
Anh thích hợp đem lại hiệu quả.
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận:
Để thực hiện được đề tài, người nghiên cứu đã thu thập, đọc và phân tích tổng hợp
những tài liệu lý luận và phương pháp lý luận có liên quan đến những vấn đề như: kỹ
thuật dạy phát âm bằng cách sử dụng giáo cụ trực quan, ngôn ngữ cơ thể, phần mềm phát
âm, video clip dạy phát âm. Trên cơ sở đó, hệ thống hóa, khái quát hóa những vấn đề lý
luận làm cơ sở lý thuyết cho đề tài.
3
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1 Định nghĩa phát âm:
Theo từ điển về giảng dạy ngôn ngữ và ngữ học ứng dụng, “phát âm là cách
tạo ra một hay nhiều âm nào đó” (“pronunciation is the way a certain sound or
sounds are produced”, Richards, J.C. & Platt, Heidi (1992: 296)). Phát âm nhấn
mạnh nhiều hơn đến cách tiếp nhận âm thanh bởi người nghe.
2.1.2 Lý do học phát âm
Phát âm đóng vai trị quan trọng trong việc học tiếng Anh vì một số lý do.
Thứ nhất, phát âm gắn với hai kỹ năng nghe và nói. Phát âm là cái mà người ta chú
ý nhất khi bạn nói tiếng Anh. Phát âm tốt giúp người nói diễn đạt ý tưởng của mình
một cách tự tin và giúp người nghe dễ dàng hiểu được những gì mình đang nghe.
Và một điều nữa là, cho dù bạn sử dụng đúng ngữ pháp người nghe có thể khơng
hiểu bạn muốn nói gì nếu bạn phát âm sai. Do vậy, phát âm có ảnh hưởng lớn đến
việc giao tiếp giữa người nói và người nghe.
2.1.3 Những yếu tố ảnh hƣởng đến việc phát âm tiếng Anh
Kenworthy (1987) đã nêu ra 6 nhân tố ảnh hưởng đến phát âm của người học, đó
là: tiếng mẹ đẻ, tuổi tác, việc tiếp xúc với tiếng Anh, khả năng phát âm bẩm sinh,
tính cách và động cơ học tập.
a. Sự chuyển di của tiếng mẹ đẻ:
Do tiếng mẹ đẻ của người học có ảnh hưởng đến việc phát âm Tiếng Anh nên
người dạy cần có một sự hiểu biết nhất định về hệ thống âm của tiếng mẹ đẻ của
người học để có thể tiên đốn những khó khăn cũng như thuận lợi trong việc người
học phát âm Tiếng Anh hầu có thể hướng dẫn và sửa chữa cho người học đọc được
các âm khó - phần lớn những âm này khơng có trong hệ thống âm thanh của tiếng
4
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
mẹ đẻ. Người Việt học Tiếng Anh thường gặp khó khăn trong việc đọc các âm đầu
từ như: /ð/ và / θ /, và các âm cuối từ như: /z/, /s/ và / η /. Các âm / t∫/, / dʒ / cũng là
những âm khó đối với người Việt học Tiếng Anh. Do ảnh hưởng của cách phát âm
trong tiếng Việt, rất nhiều người Việt khi học tiếng Anh thường bỏ quên các âm
cuối như /s/, /d/, /k/, /g/, /l/, /z/, /v/, /s/, /f/. Ngoài ra, trọng âm, ngữ điệu làm thay
đổi ngữ nghĩa của từ và câu cũng là những vấn đề mà người Việt không quen trong
hệ thống âm vị và ngữ điệu của tiếng Anh. Có thể nói, cách phát âm tiếng Anh rất
khác với tiếng Việt do khơng có sự đồng bộ giữa cách viết và cách phát âm của một
từ.Trong tiếng Việt, chữ cái a luôn được đọc là /ɑ/ trong khi tiếng Anh chữ cái a có
thể được đọc theo 4 cách khác nhau: đọc là /ɑ:/ trong từ car, /ei/ trong cake, /æ/
trong can, và /eə/ trong care. Vì vậy, những khác biệt giữa cách viết và cách phát
âm các từ tiếng Anh gây nhiều khó khăn cho các học viên người Việt. Ngồi ra,
Tiếng Việt là ngơn ngữ đơn lập khơng biến hình và có thanh điệu. Đặc điểm này
của tiếng Việt gây cản trở rất lớn trong quá trình học tiếng Anh, một ngơn ngữ đa
âm tiết với những đặc tính phức tạp về trọng âm, ngữ điệu. Trong tiếng Anh, những
từ hai âm tiết trở lên ln có một âm tiết được phát âm khác biệt hẳn so với những
âm tiết còn lại về độ dài, độ lớn, độ cao.
b. Tuổi của người học: Người học càng nhỏ tuổi thì càng dễ bắt chước và ghi nhớ
từ hơn người lớn tuổi. Theo nghiên cứu, những trẻ em dưới 12 tuổi học nói Tiếng
Anh sẽ ít bị ảnh hưởng của giọng nói tiếng Việt hơn là những người học lớn tuổi
hơn.
c. Việc tiếp xúc với Tiếng Anh: Cần phải tính đến cả thời gian lẫn mức độ tiếp xúc
với Tiếng Anh. Người học càng có nhiều thời gian tiếp xúc với Tiếng Anh thì càng
phát âm tốt hơn. Người học cũng sẽ đạt được nhiều tiến bộ hơn nếu được tiếp xúc
với mẫu phát âm tốt hoặc được giải thích cặn kẽ về hệ thống âm và cách phát âm
Tiếng Anh.
5
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
d. Khả năng phát âm bẩm sinh của người học: Nhiều người học có khả năng
bẩm sinh trong việc bắt chước và nói được một cách dễ dàng những âm thanh xa lạ
với họ. Những người học như thế sẽ tiến bộ nhanh hơn những người khơng có khả
năng tương tự.
e. Thái độ và cảm nhận: Thái độ của người học đối với thứ tiếng đang học cũng là
một yếu tố ảnh hưởng đến việc học phát âm. Thái độ học tập của người học càng
tốt thì việc phát âm càng tốt vì họ cố gắng bắt chước cho giống cách nói của người
bản ngữ.
f. Động cơ học tập của người học và sự quan tâm của họ đối với việc phát âm tốt:
Đây là một yếu tố rất quan trọng trong việc dạy phát âm. Nếu người học có động cơ
phát âm tốt thì họ sẽ đầu tư nhiều thì giờ hơn và nỗ lực hơn trong việc học phát âm.
Từ đó họ sẽ có nhiều tiến bộ hơn.
2.1.4 Nguyên tắc dạy phát âm:
Nguyên tắc:
Về nguyên tắc dạy phát âm, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huệ cũng nêu ra những nguyên
tắc cơ bản đem lại hiệu quả dù dạy bất cứ ngôn ngữ nào:
- Dạy phát âm phải gắn liền với việc luyện nghe, vì học viên chỉ phát âm đúng
khi nghe đúng.
- Ngơn ngữ dùng để giải thích về ngữ âm phải thật giản dị, dễ hiểu.
- Có hình ảnh minh họa trực quan, sinh động.
- Bài tập luyện phát âm phải vui, có nghĩa, có tính giao tiếp.
- Cần vận dụng kiến thức của ngôn ngữ học đối chiếu, chú ý luyện những lỗi
phát âm thường gặp do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ của học viên.
Trong các nguyên tắc nêu trên, nguyên tắc “dạy phát âm phải gắn liền với
việc luyện nghe” là nguyên tắc quan trọng nhất. Giáo viên cần chú trọng
luyện khả năng nhận biết và phân biệt các âm cho học sinh khi luyện âm.
6
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
2.1.5 Một số kỹ thuật dạy phát âm
Khi dạy phát âm, giáo viên chú ý vào 3 nội dung trọng tâm của phát âm là: Sounds
(Âm), stress (trọng âm) và intonation (ngữ điệu).
2.1.5.1 Dạy âm: teaching sounds
Âm tiếng Anh gồm nguyên âm (vowel) và phụ âm (consonant). Harmer (1991) và
Doff (1988) đưa ra một số cách dạy:
- Giáo viên đọc mẫu trước âm cần dạy một cách rõ ràng và cho thấy cách đọc âm
đó như thế nào trong những từ khác nhau. Sau đó cho sinh viên lặp lại theo cả lớp
hoặc từng cá nhân.
- Đối với những âm khó đọc, thường khơng tồn tại trong tiếng mẹ đẻ thì giáo viên
nên miêu tả cách phát âm như thế nào bằng video clip hoặc bằng hình ảnh trực
quan.
- Đối với những âm đọc gần giống nhau thì giáo viên cho sinh viên so sánh sự khác
nhau giữa hai âm đó.
- Giáo viên miêu tả đặc điểm của âm bằng cách sử dụng video clip cho sinh viên
nghe và xem hoạt động cấu âm của âm sẽ thu hút sinh viên chú ý nhiều hơn.
Tóm lại, khi dạy âm, giáo viên cần ghi nhớ một số kỹ thuật quan trọng, đó là: Kỹ
thuật luyện (drilling technique), Các bài tập và trò chơi, Giáo cụ trực quan.
Kỹ thuật luyện “Drilling technique”: gồm “choral drills” – luyện đọc đồng
thanh và “individual drills” luyện đọc theo cá nhân. Kỹ thuật này gắn liền với
việc lặp lại và tạo cho sinh viên phát âm đúng và chính xác. Dựa vào kỹ thuật
này, giáo viên có thể thiết kế nhiều dạng bài tập và hoạt động dạy âm vừa mang
tính chuyên dụng vừa mang tính tích hợp.
7
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hồi Phương
Ví dụ: khi dạy âm /θ/:
Giáo viên: „th‟ – „th‟
Giáo viên: Think, thank you
Giáo viên: Look-tongue between your teeth. Let the air go through: „th‟
Giáo viên: Everyone „th‟ (đọc đồng thanh cả lớp)
Giáo viên: Tom, can you say it? (đọc cá nhân)
Các bài tập và trò chơi về dạy âm:
Minimal pairs: Cặp từ tối thiểu
1
2
will
well
Listen, and say the number: 1 or 2.
Giáo viên: well
Sinh viên: two
Giáo viên: will
Sinh viên: one
Giáo viên: will
Sinh viên: one
Giáo viên cho sinh viên lắng nghe từng cặp từ tối thiểu (minimal pairs), sau đó sinh
viên nói /viết “S” (Same) nếu 2 từ được đọc giống nhau và nói /viết “D”
(Different) nếu chúng được đọc khác nhau.
will
well
met
meet
8
well
well
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
Bài tập về luyện các cặp từ tối thiểu giúp sinh viên phân biệt những âm gần giống
nhau và những âm khó phát âm. Các bài luyện như thế này thường bắt đầu từ cấp
độ từ sau đó mới đến cấp độ câu.
Missing words
Say a word to fill the gap.
a) A boy and a………………
b) First, second and ……………….
c) A pigeon is a kind of……………….
Now listen to some more sentences, and say the missing words.
Giáo viên đọc từng cụm từ và câu. Sinh viên đoán từ cần điền.
Tương tự, giáo viên đọc một chuỗi từ qua một lần và sinh viết lại những phụ âm
còn trống của mỗi từ. (gate, late, mate, fate, date, rate and Kate)
__ate __ate __ate __ate __ate __ate __ate
Making sentences
Make three sentences. In each sentence, use one word from group 1
and one word from group 2.
Group 1
Group 2
last
fast
calm
dark
black
glad
marvellous
farm part
bad
jam
car
rabbit
party
hat
man
Giáo viên cho sinh viên làm theo từng cặp, mỗi cặp đặt 3 câu dựa trên hai nhóm từ
giáo viên đưa ra. Những từ này được sử dụng để luyện tập hai nguyên âm là /ɑ:/ và
/æ/. Nếu cần, giáo viên đặt mẫu trước một câu. Ví dụ: She drives a black car.
Giáo viên yêu cầu mỗi cặp nói một câu của mình. Giáo viên lưu ý đến phát âm của
hai nguyên âm trên.
Tongue twisters: Các cụm từ khó đọc
9
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
Giáo viên có thể cho sinh viên luyện tập đọc các cụm từ khó đọc hoặc phát âm
nhưng chứa cùng một phụ âm đầu.
Ví dụ 1: She sells sea shells by the seashore.
Ví dụ 2: Peter Piper picked a peck of pickled peppers.
Ngồi các dạng bài tập trên, giáo viên có thể áp dụng bài tập về phát âm đơn giản,
vui nhộn có kết hợp cả kỹ năng tiếp nhận và sản sinh. Các bài tập mang tính giao
tiếp giúp sinh viên cảm thấy hứng thú và ghi nhớ lâu. David F. Dalton (1997) đã
đưa một số bài tập phát âm thú vị như:
Sau khi dạy cho sinh viên các nguyên âm dài và ngắn thơng qua nghe nói, giáo viên
có thể kiểm tra nhận thức và khả năng phân biệt các âm của sinh viên theo cách
dưới đây.
Bài tập A:
Bƣớc 1:
- Giáo viên viết lên bảng các từ có chứa âm cần dạy và các số tương ứng như sau:
PORT PIT
PAT
PERT PET POT PUTT PUT PART PEAT
0
2
3
1
4
5
6
7
8
9
Sự khác biệt duy nhất giữa các từ này là nguyên âm. Như trong ví dụ trên, từ đầu
cho đến từ cuối có cùng một phụ âm „p‟ trong khi đó 0, 3, 8, và 9 là tương ứng với
nguyên âm dài và các từ còn lại tương ứng là nguyên âm ngắn.
Bƣớc 2 :
- Sau đó giáo viên đọc mẫu từng từ và cho cá nhân lặp lại theo. Nguyên âm có thể
được đọc tách biệt và quy trình này lặp lại đảm bảo sinh viên khơng gặp vấn đề gì
khó khăn.
10
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
Giáo viên đọc một số từ, sinh viên nghe và viết các số tương ứng với từ vừa được
đọc. Sau đó sinh viên sẽ được kiểm tra và so sánh những gì vừa viết. Quy trình tự
động này đưa đến một kết luận rằng những gì sinh viên nghe được và những gì
thực tế là dễ nhầm lẫn. Khi giáo viên nói từ số 9 (peat) thì sinh viên lại nghe từ số
1(pit), họ nhầm lẫn giữa nguyên âm ngắn / I / và nguyên âm dài / i: /. Giáo viên đưa
ra phản hồi và cho lặp lại âm dễ nhầm.
Thực hành theo cách khác, giáo viên cho sinh viên này đọc, sinh viên khác cho biết
số tương ứng với từ vừa được đọc.
Bài tập B
- Giáo viên có thể cho sinh viên chơi trò nhận ra số điện thoại:
Giáo viên yêu cầu sinh viên cho biết số điện thoại bằng cách nghe giáo viên đọc
các từ đã ghi trên bảng. Giáo viên yêu cầu sinh viên trong lớp đọc và các sinh viên
khác cho biết số điện thoại của mình. Các sinh viên có thể làm việc theo nhóm,
thảo luận với nhau trước khi nói kết quả.
Giáo viên sẽ giải thích lại những chỗ sinh viên thường nghe nhầm, chỉ ra cách phân
biệt và cách phát âm đúng. Trò chơi này giúp sinh viên nghe và nhận diện đúng các
nguyên âm và cả phụ âm, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của một bài luyện tập
phát âm là phải vui và có tính giao tiếp. Giáo viên có thể thay cho việc nhận biết số
điện thoại bằng việc nhận biết giá cả, số nhà.
Sử dụng giáo cụ trực quan dạy âm
Dùng đũa hoặc bút chì để kiểm tra sự khác nhau giữa âm /l/ và /r/
Giáo viên dùng hai môi chứ không dùng răng để giữ 1 chiếc đũa hoặc 1 chiếc bút
chì. Giáo viên nói “right‟ mà khơng để đũa chạm vào lưỡi, nói „left‟, đẩy đũa ra
khỏi miệng ngay từ phụ âm đầu. Tiếp tục với những từ khác, ưu tiên âm /r/ đứng
trước âm /l/ như „really‟ và „world‟. Giáo viên có thể cho sv xem video clip về
cách phân biệt 2 âm này thông qua website sau:
11
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
/>Sử dụng mảnh giấy
Giáo viên để một mảnh giấy thẳng đứng và thả lỏng cách mơi khoảng vài cm. Sau
đó giáo viên đọc vài cặp từ tối thiểu (minimal pairs) có chứa âm bật như
(„bill‟/‟pill‟, „till/dill‟, „kill/gill‟). Những âm bật vô thanh như /p/, /t/, /k/ sẽ làm
mảnh giấy rung vì luồng hơi bật ra. Đây là cách để nhận biết những âm bật hơi.
Đặt ngón tay ở cổ họng để cảm nhận cặp âm vô thanh (voiceless sounds) và
hữu thanh (voiced sounds)
Giáo viên cho sinh viên đặt một hoặc hai ngón tay ở bên ngoài cổ họng khi phát âm
những âm hữu thanh thì sinh viên sẽ cảm nhận được độ rung thanh quản. Những
âm hữu thanh như: /z, d, g, l, m, n, v../, và toàn bộ các nguyên âm. Đối với các âm
vô thanh trong tiếng Anh: /p/, /k/, /f/, /t/, /s/, /θ/, /ʃ/, /tʃ/ thì sinh viên sẽ không cảm
nhận được độ rung thanh quản mà chỉ là những tiếng động nhẹ như tiếng gió, tiếng
xì xì, tiếng bật.
Sử dụng bàn tay làm răng trên và lƣỡi để miêu tả
Giáo viên để bàn tay trái nằm ngang với mặt đất, lịng bàn tay hướng xuống. Bẻ
cong các ngón tay như làm răng của hàm trên. Để bàn tay phải nắm chặt bên dưới
bàn tay trái, lòng bàn tay hướng xuống làm lưỡi. Với cách sử dụng bàn tay để miêu
tả như trên, sinh viên sẽ cảm thấy bài học thật sinh động, gần gũi và dễ nhớ.
Vẽ nhanh trên bảng hoặc sử dụng tranh ảnh
Giáo viên có thể vẽ nhanh trên bảng hoặc sử dụng tranh miêu tả các cơ quan phát âm
tiếng Anh.
12
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hồi Phương
Hình 1: cơ quan phát âm tiếng Anh
Sử dụng bảng nguyên âm màu sắc
Đây là một bức tranh với màu sắc gần giống với hình dạng nguyên âm (từ trước ra
sau và từ cao xuống thấp. Sinh viên sẽ nói màu sắc sau đó khám phá từ vựng mới
đi kèm. Green tea có chứa nguyên âm /i:/, red dress có chứa âm /e/, black cat có
chứa âm /ỉ/, cup of mustard có chứa âm /ʌ/, orange door chứa âm /ɔ/.
Hình 5: Bảng nguyên âm màu và bảng nguyên âm thông thường
Website và phần mềm để sinh viên tự học
Giáo viên có thể giới thiệu một website về học phát âm của đại học Iowa như:
/>13
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hồi Phương
Hình 2: Giao diện phần mềm về ngữ âm học: các âm trong tiếng Anh.
Ngồi ra, giáo viên có thể giới thiệu một phần mềm về phát âm rất hiệu quả mà
sinh viên có thể tự học, tự rèn luyện tại nhà như phần mềm: Pronunciation Power.
Với giao diện đồ họa sinh động thể hiện vòm miệng khi phát âm các từ và câu sinh
viên cứ theo đó quan sát mà học sao cho đúng. Ngồi ra, phần mềm cịn có các bài
tập để sinh viên rèn luyện và ôn tập những gì đã học. Sinh viên cũng có thể thu âm
giọng nói của mình để kiểm tra xem phát âm của mình thế nào. Sinh viên có thể
download phần mềm này tại website: />
Hình 3: Giao diện Sơ đồ vịm miệng về cách phát âm
14
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hồi Phương
Hình 4: Các bài tập luyện âm trong phần mềm Pronunciation Power
2.1.5.2
Dạy trọng âm: Teaching stress
Giáo viên giải thích cho sinh viên hiểu thế nào là một âm tiết (syllable). Nếu cần,
giáo viên nên đặt một vài câu ngắn và cho sinh viên đếm số âm tiết trong câu.
Ví dụ: He / came / yes / ter / day. (5 âm tiết)
She‟s / ve / ry / nice. (4 âm tiết)
Giáo viên cũng nên giải thích cho sinh viên là phần lớn các từ có hai hay nhiều âm
tiết thì có một âm tiết có nhấn (stressed syllable), có hai hoặc nhiều âm tiết không
nhấn (unstressed syllable). Thông thường, nguyên âm trong những âm tiết không
nhấn trọng âm được phát âm là /ə/ hoặc /I/, được gọi là âm giảm nhẹ (reduced
sound).
Ví dụ: Asia, apart: the „a‟ is pronounced as /ə/; between, wanted: the „e‟ is
pronounced as /I/.
15
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
Giáo viên cũng giải thích khi chúng ta nối các từ trong câu thì nhiều ngun âm
giảm nhẹ vì những từ hồn chỉnh là khơng nhấn trọng âm.
Ví dụ: I ate bread and cheese. / aI et „bred ənd t∫i:z /
Look at us. / luk ət ʌs /
Các nguyên âm trong liên từ và giới từ thường được giảm nhẹ. Đọc giảm nhẹ
nguyên âm theo cách này là một đặc điểm của văn nói tiếng Anh. Giáo viên cũng
nên khuyến khích sinh viên sử dụng cách nói này khi nói tiếng Anh.
Trong những từ có từ hai âm tiết trở lên thì trọng âm (stress) sẽ rơi vào một trong
hai âm tiết đó và âm tiết có trọng âm sẽ được phát âm mạnh hơn, to hơn, dài hơn
các âm tiết khác. Âm tiết có trọng âm này rất quan trọng bởi người nói tiếng Anh
dựa vào trọng âm để phân biệt từ và các cụm từ mà họ nghe.
Sinh viên cũng cần biết tiếng Anh là một ngôn ngữ nhấn theo thời gian (stresstimed language) - nghĩa là lượng thời gian dành cho các âm tiết có trọng âm là bằng
nhau. Các âm tiết khơng có trọng âm sẽ được nói nhanh hơn.
Ví dụ: Take John.
Take it to John.
Có hai âm tiết khơng nhấn là „it to‟ sẽ được nói nhanh hơn để lấp khoảng trống
giữa hai âm tiết có nhấn trọng âm là „Take John‟.
Mặc dù có một số nguyên tắc về việc xác định trọng âm trong từ nhưng tiếng Anh
là một ngơn ngữ có rất nhiều ngoại lệ nên khi học tiếng Anh người học nên ghi nhớ
trọng âm của từ cũng như nhớ cách viết của từ đó. Tra từ điển có thể giúp người
học biết được chính xác trọng âm của từ.
Ngồi trọng âm trong từ tiếng Anh cịn có trọng âm của câu. Nghĩa là một số từ
trong chuỗi lời nói được phát âm mạnh hơn so với những từ còn lại.
Những từ được nhấn mạnh trong chuỗi lời nói thường là những từ miêu tả nghĩa
một cách độc lập và chứa nội dung như: danh từ (shirt, flower, people…), động từ
16
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hồi Phương
chính (do, eat, read, travel...) trạng từ (rapidly, fluently, correctly…), tính từ
(lovely, nice, beautiful…), từ để hỏi (what, why, who…).
Những từ không được nhấn trong chuỗi lời nói là những từ chức năng như: giới từ
(in, on, at…), mạo từ (a, an, the), trợ động từ (must, can, have…), đại từ (he, she
it…), từ nối (and, but, or…), đại từ quan hệ (which, what, when…), động từ phủ
định được rút gọn (can‟t, isn‟t…).
Để dạy trọng âm, Doff (1988) cũng đưa ra một số kỹ thuật dạy như sau:
Sử dụng giọng nói:
- Đọc to và kéo dài những âm tiết có đánh dấu trọng âm.
-Thể hiện mỗi âm tiết có nhấn bằng một âm thanh; ví dụ: a kilo of sugar = deDA-de-de-DA-de.
Sử dụng điệu bộ:
- Sử dụng cánh tay như một nhạc trưởng trong một ban nhạc, đối với những
âm tiết có nhấn sẽ có điệu bộ mạnh hơn.
- Vỗ tay hoặc vỗ lên bàn, vỗ to hơn ở những âm tiết có nhấn.
Sử dụng bảng:
- Viết dấu chấm hoặc dấu gạch ngang. Ví dụ: a kilo of sugar: ._.._.
- Gạch dưới âm tiết có nhấn. Ví dụ: a kilo of sugar
- Viết các chữ cái của âm tiết có nhấn đậm hơn. Ví dụ: a kilo of sugaro
- Vẽ vịng trịn nhỏ cho âm tiết khơng nhấn và vịng trịn to hơn cho âm tiết có
nhấn. Ví dụ: a kilo of sugar: o0oo0o
- Dùng dấu móc lửng trước âm tiết được nhấn mạnh. Ví dụ: a „kilo of „sugar.
Dùng dây chun để nhìn và cảm nhận trọng âm từ và trọng âm câu:
17
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hồi Phương
Hình 6: Sử dụng dây chun miêu tả trọng âm
Giữ dây chun như hình vẽ bên trên. Kéo dây chun ở những từ và âm tiết có nhấn
trọng âm khi bạn nói. Hoạt động này giúp sinh viên nhận thức được sự đều đặn của
nhịp điệu và những khác biệt trong ngữ điệu giữa tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ vì có
thể cảm nhận và nhìn thấy sự khác biệt cùng lúc. Sinh viên có thể sử dụng dây chun
khi đối thoại theo từng cặp. Ngoài miêu tả trọng âm, giáo viên có thể sử dụng dây
chun để giúp sinh viên rèn luyện phần ngữ điệu trong đoạn hội thoại.
2.1.5.3
Dạy ngữ điệu: Teaching Intonation
Ngữ điệu rất quan trọng trong việc thể hiện ý nghĩa và đặc biệt là thể hiện cảm xúc
(ngạc nhiên, giận dữ, hoài nghi, biết ơn). Tuy nhiên các mẫu ngữ điệu khá là phức
tạp nên tốt hơn là cho sinh viên tiếp thu một cách tự nhiên là học chúng một cách ý
thức. Ngữ điệu trong tiếng Anh không phức tạp như vấn đề trọng âm ngữ. Đây là
đặc điểm chúng ta không thể thấy trong từ điển nhưng có thể luyện được khi nghe
và thực hành các bài hội thoại. Khi nghe nhiều các phát ngôn trong cuộc sống hàng
ngày, người học tiếng Anh có thể nhận thấy rằng, trong tiếng Anh người nói
thường có xu hướng lên giọng ở trọng âm chính của câu và xuống giọng ở cuối câu
đối với những câu trần thuật, câu yêu cầu hay câu hỏi bắt đầu bằng từ để hỏi.
Để dạy nói tiếng Anh ở mức độ thấp, giáo viên chỉ cần sinh viên ghi nhớ hai mẫu
ngữ điệu cơ bản là: rising tone (lên giọng) và falling tone (xuống giọng).
Lên giọng: được sử dụng trong câu hỏi có /khơng và để thể hiện sự ngạc nhiên,
hồi nghi. Giọng lên cao rõ ràng ở những âm tiết có nhấn.
18
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
Really?
Is he your friend?
Do you want some tea?
Xuống giọng: được sử dụng trong những câu thông thường, câu mệnh lệnh hoặc
câu hỏi bắt đầu bằng WH. Hơi lên giọng ở đầu câu và sau đó xuống giọng ở từ
quan trọng được nhấn.
A ticket to London,please.
What‟s your name?
Giáo viên có thể sử dụng một số kỹ thuật để dạy ngữ điệu trong câu:
Sử dụng bảng: vẽ mũi tên lên bảng để đánh dấu lên giọng hay xuống giọng.
A: who‟s that?
A: Can I borrow some money?
B: It‟s George.
B: No!
Sử dụng điệu bộ: chuyển động tay và cánh tay nhƣ ngƣời nhạc trƣởng để
đánh dấu những âm tiết có nhấn mạnh.
Kỹ thuật xâu chuỗi ngƣợc (back- chaining technique): Một cách giúp sinh
viên sử dụng ngữ điệu tự nhiên là luyện tập câu theo từng phần, bắt đầu từ cuối
câu và dần tiến đến đầu câu. Lý do bắt đầu đọc từ cuối câu là vì âm tiết có nhấn
cuối câu quyết định mẫu ngữ điệu tồn câu.Ví dụ: living here / been living here /
have you been living here / How long have you been living here?
Giáo viên: Living here. Living here. Everybody.
Sinh viên: Living here.
Giáo viên: Been living here.
Sinh viên: Been living here.
Giáo viên: Have you been living here.
19
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
Sinh viên: Have you been living here.
Giáo viên: How long have you been living here?
Sinh viên: How long have you been living here?
2.2 Thực trạng
Qua thực tế giảng dạy học phần luyện phát âm và ngữ âm của khoa tiếng
Anh tại trường cao đẳng công nghệ Thủ Đức, người nghiên cứu đã rút ra một số
thuận lợi cũng như khó khăn.
2.2.1 Thuận lợi:
Thứ nhất, đa số các sinh viên khoa Anh ý thức được tầm quan trọng của môn
học phát âm nên có thái độ học tập tích cực, tham gia đến lớp thường xuyên, đóng
góp vào bài giảng để lớp học sinh động. Hơn nữa, với động cơ học tập tốt nên sinh
viên cũng cố gắng tự rèn luyện phát âm.
Thứ hai, giáo trình được sử dụng trong giảng dạy phát âm là English
Pronunciation in use by Mark Hancock intermediate. Đây là một giáo trình được
thiết kế rõ ràng, chi tiết và hệ thống nên rất thuận lợi cho giáo viên khi giảng dạy và
sinh viên cũng có thể tự học tại nhà. Nội dung bài học trong giáo trình khá đơn
giản, vui nhộn, sinh viên được tiếp cận nhiều giọng nói tiếng Anh với ngữ điệu tự
nhiên, thú vị. Sinh viên được hệ thống kiến thức đã học về phát âm và được khám
phá những kiến thức mới về âm, trọng âm và ngữ điệu.
Thứ ba, khi được trang bị kiến thức về ngữ âm, sinh viên đã thể hiện được sự
tự tin trong giao tiếp và khả năng nghe tiếng Anh cũng cải thiện. Sinh viên cũng
nhận ra những lỗi phát âm thường mắc phải và cố gắng khắc phục để có thể phát
âm chuẩn hơn có thể.
2.2.2 Khó khăn:
20
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
Ảnh hƣởng của tiếng mẹ đẻ:
Khơng ít sinh viên bị ảnh hưởng bởi tiếng mẹ đẻ khi phát âm tiếng Anh nên
nhìn cách viết của một từ thế nào là phát âm như trong tiếng Việt vậy. Có thể kể
đến những từ mà hầu như các sinh viên mắc phải dù là những từ rất quen thuộc
như: interesting (có 3 âm tiết, thường các em đọc thành 4 âm tiết), comfortable
(nhấn trọng âm ở âm tiết đầu, mẫu tự a đọc là /ə/ khơng phải /eI/). Có khơng ít sinh
viên mắc những lỗi khi phát âm như bỏ sót âm cuối hoặc âm giữa từ, đọc nhầm lẫn
giữa âm này với âm khác hoặc đọc dư âm cuối như đọc thêm âm /s/ hay /z/ cuối từ
hoặc giữa từ. Ngoài ra, sinh viên cịn mắc những lỗi sai thơng thường như:
- Khơng nhấn đúng trọng âm của những từ có cách viết giống nhau nhưng loại
từ khác nhau như: desert (n) và desert (v), present (n) và present (v), record
(n) và record (v), export (n) và export (v).
- Không nối âm giữa các từ trong câu như nối phụ âm với nguyên âm, phụ âm
với phụ âm như: not at all, got on a bus, slept in a chair, he asked her her
name (âm /h/ khơng phát âm có thể đọc nối được)
- Không đọc câu, đoạn đối thoại theo đúng ngữ điệu, lên giọng xuống giọng
tùy hứng: không lên giọng ở câu hỏi có/khơng, khơng lên giọng ở câu hỏi có
từ để hỏi (wh-questions).
- Lỗi Việt hóa một số âm trong tiếng Anh: /ʃ/, /dʒ/, /θ/, /ð/, /ʒ/, /ỉ/ vì những âm
này khơng có trong tiếng Việt.
-
/ʃ/ thường được phát âm thành /s/
-
/θ/ thường được phát âm thành /t/ hay /th/
-
/ð/ thường được phát âm thành /z/ hay /d/
-
/ʒ/
và /dʒ/ bị thay thế bởi /z/
- /æ/ bị nhầm lẫn với /e/
- /p/, /t/, /k/ thường không đọc bật hơi.
Những lỗi sai này lặp đi lặp lại rất khó sửa.
Về độ tuổi:
21
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
Độ tuổi của sinh viên là từ 18-20. Đây là độ tuổi khơng dễ để sinh viên có
thể bắt chước cách phát âm một cách trọn vẹn của người bản ngữ như trẻ nhỏ. Có
những từ phát âm chưa đúng đã ăn sâu trong tâm trí của sinh viên nên khó thay đổi.
Nhiều sinh viên cũng rất dễ quên cách phát âm của từ ngay khi mới học tại lớp
xong.
Việc tiếp xúc với Tiếng Anh
Các em cũng có cơ hội tiếp xúc với người bản ngữ nhưng không nhiều, chỉ ở
một số mơn học nhất định như nghe nói tiếng Anh hay môn phát âm với thời lượng
khoảng 2-3 tiết một tuần với người bản ngữ. Do vậy, để tiếp xúc nhiều với tiếng
Anh các sinh viên phải tự rèn luyện thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng báo đài, internet và vân vân. Một số em cũng chủ quan khi không rèn luyện
tại nhà nên dễ quên kiến thức.
Khả năng phát âm bẩm sinh của ngƣời học
Chỉ một số ít sinh viên có được khả năng phát âm bẩm sinh như khả năng bắt
chước giọng nói của người bản ngữ và khả năng ghi nhớ cách phát âm nhanh và
lưu lại trong bộ nhớ lâu. Đa số các sinh viên rất dễ quên cách phát âm, trọng âm,
ngữ điệu dù mới được dạy xong tại lớp.
Thái độ và cảm nhận
Một số sinh viên do khơng có khả năng bắt chước và ghi nhớ cách phát âm nên
sinh ra chán nản và không nổ lực rèn luyện hàng ngày để cải thiện cách phát âm
của mình và e ngại khi được yêu cầu đọc to từ hay câu trong lớp.
Động cơ học tập
Tuy đa số các sinh viên có động cơ học tập khá tốt nhưng cũng có một số em tỏ
ra khơng quan tâm đến phát âm nhiều mà chú trọng vào việc nâng cao các kỹ năng
tiếng Anh như nghe, nói, đọc, viết. Thực tế, phát âm làm nền tảng giúp cho sinh
viên phát huy kỹ năng nghe và nói tiếng Anh. Có nắm vững quy tắc phát âm thì
mới nghe và nói tốt nhưng không phải sinh viên nào cũng ý thức được điều này.
22
Sáng kiến kinh nghiệm – Phạm Nguyễn Hoài Phương
Ngoài những khó khăn kể trên, có thể kể đến những khó khăn khác mang tính
khách quan như giáo trình, phương tiện dạy học và vân vân.
Tuy giáo trình được thiết kế rõ ràng và hệ thống nhưng nhiều dạng bài tập được
lặp lại dễ gây nhàm chán cho sinh viên. Do đó giáo viên cần phải đa dạng trong
phương pháp giảng dạy, thiết kế và lựa chọn thêm bài tập, hoạt động mang tính
sáng tạo, tạo hứng thú trong học tập cho sinh viên.
Phương tiện dạy học cũng còn một vài hạn chế khi micro ở một số phịng
học có chất lượng âm thanh chưa tốt lắm, loa gắn laptop mới được áp dụng một số
phịng.
2.3 Bài học kinh nghiệm
Về phía giáo viên:
+ Cần hiểu rõ chức năng và nhiệm của phân mơn luyện phát âm để có hình thức tổ
chức và phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Môn luyện phát âm là một môn học
làm nền tảng cho môn học về kỹ năng nghe nói.
+ Cần nắm vững nguyên tắc dạy phát âm là gắn liền với việc luyện nghe cho sinh
viên. Do đó giáo viên cần chuẩn bị mẫu nghe chuẩn xác với chất lượng âm thanh
tốt. Thông thường giáo viên cho luyện phát âm theo giọng Anh và giọng Mỹ, và
đối chiếu hai giọng này.
+ Tự trau dồi chun mơn nghiệp vụ, có kiến thức ngữ âm phong phú, phát âm rõ
ràng, ngơn ngữ giải thích chuẩn xác, diễn đạt cách thức phát âm mạch lạc.
+ Cần có kiến thức về ngơn ngữ so sánh đối chiếu giữa tiếng Anh với tiếng Việt để
biết được những ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ lên việc phát âm tiếng Anh của sinh
viên, giúp sinh viên khắc phục những lỗi sai thường gặp khi phát âm như:
- Cho sinh viên luyện tập theo cặp từ đối với những âm mà sinh viên thường
đọc nhầm lẫn như trong tiếng Việt: /ʃ/, /dʒ/, /θ/, /ð/, /ʒ/, /æ/.
23