TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
F7G
GIÁO TRÌNH
VĂN HỌC TRUNG QUỐC
TS. NGUYỄN ĐÌNH HẢO – NGUYỄN THANH CHÂU
2005
Văn học Trung Quốc
-1-
MỤC LỤC
Mục lục .................................................................................................................- 1 CHƯƠNG I. VĂN HỌC THỜI TIÊN TẦN (1134 trước CN - 221 trước CN).......- 3 TIẾT 1 : KINH THI ..........................................................................................- 5 TIẾT 2 : SỞ TỪ ..............................................................................................- 14 TIẾT 3 : TẢN VĂN THỜI TIÊN TẦN ...........................................................- 26 1.3.1.- TẢN VĂN TRIẾT HỌC và LUẬN THUYẾT:................................- 26 1.3.2- TẢN VĂN LỊCH SỬ: .......................................................................- 42 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I.....................................................................- 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG I ...........................................................- 44 CHƯƠNG II. THƠ VĂN THỜI HÁN – NGỤY (206 trước - 220 sau CN).........- 45 TIẾT 1 : THƠ PHÚ.........................................................................................- 45 TIẾT 2 : TẢN VĂN ........................................................................................- 45 2.3.1.- Tư Mã Thiên (145-86 trước Tây lịch) và “Sử ký” : .........................- 45 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II....................................................................- 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG II..........................................................- 65 CHƯƠNG III. THƠ VĂN THỜI ĐƯỜNG TỐNG (618 - 1279) .........................- 66 TIẾT I : THƠ ..................................................................................................- 66 3.1.-THƠ ĐỜI ĐƯỜNG(618-907): .............................................................- 66 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III ..................................................................- 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG III ........................................................- 96 CHƯƠNG IV. TIỂU THUYẾT MINH THANH ................................................- 97 I.- BỐI CẢNH LỊCH SỬ ................................................................................- 97 II . TÌNH HÌNH VĂN HỌC ............................................................................- 99 1.Tiểu thuyết đời Minh ............................................................................. - 101 2. Tiểu thuyết đời Thanh (1644 – 1911) ................................................... - 102 III. ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỔ ĐIỂN TRUNG QUỐC ....................... - 103 IV. TIỂU THUYẾT CỔ ĐIỂN TRUNG QUỐC - TIỂU THUYẾT CHƯƠNG
HỒI VIỆT NAM. .......................................................................................... - 103 V. KẾT LUẬN .............................................................................................. - 104 TAM QUỐC CHÍ DIỄN NGHĨA.................................................................. - 105 I. Tác giả La Quán Trung (1330 – 1400).................................................. - 105 II. Tác phẩm Tam quốc chí diễn nghóa ..................................................... - 106 III.NGHỆ THUẬT .................................................................................... - 110 IV. ẢNH HƯỞNG CỦA TAM QUỐC CHÍ .............................................. - 111 TÂY DU KÝ ................................................................................................. - 113 I. Tác giả Ngô Thừa Ân (1500? – 1581?) ................................................. - 113 II. Tác phẩm Tây Du Ký ........................................................................... - 113 III. NGHỆ THUẬT CỦA TÂY DU KÝ .................................................... - 116 IV. ẢNH HƯỞNG CỦA TÂY DU KÝ ..................................................... - 117 HỒNG LÂU MỘNG..................................................................................... - 120 LIÊU TRAI CHÍ DỊ ...................................................................................... - 123 CÂU HỎI ÔN TẬP ....................................................................................... - 124 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. - 125 -
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
-2-
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
-3-
CHƯƠNG I. VĂN HỌC THỜI TIÊN TẦN (1134 TRƯỚC CN 221 TRƯỚC CN)
Tiên Tần là thời kỳ trước đời Tần, tức là từ khởi thủy cho đến trước khi Tần
Thủy Hoàng Đế thống nhất Trung Quốc(221 trước CN).
Về mặt lịch sử, sau thời gian truyền thuyết khá dài(khoảng 700 năm) với
các đời Tam Hoàng(Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông), Ngũ Đế gồm Hoàng Đế
(2696-2597 trước CN), Chuyên Húc, Đế Cốc, Đường Nghiêu(2357-2255 trước CN)
và Ngu Thuấn(2255- 2207 trước CN), lịch sử Trung Quốc thực sự khởi đầu với Tam
Đại là Hạ(2207-1784 trước CN), Thương - Ân(1783-1135 trước CN) và Chu(1134247 trước CN) trong đó triều Chu là thời kỳ có nhiều biến động nhất về lịch sử,
chính trị, kinh tế, tư tưởng và văn hóa.
Đời Chu chia làm 2 thời kỳ: thời kỳ thứ nhất Chu Vũ vương diệt Trụ, đóng
đô ở đất Phong, đất Cảo(miền Thiểm Tây bây giờ), mở đầu thời Tây Chu (1134770 trước CN). Đến đời vua thứ 12 U vương, bị rợ Hiểm Doãn và rợ Khuyển Nhung
đánh bại, khiến sau đó Chu Bình vương phải dời đô sang phía đông, đóng ở Lạc
Dương(Hà Nam), bắt đầu thời kỳ thứ 2 gọi là Đông Chu(770-247 trước CN). Đông
Chu lại được chia làm 2 thời kỳ nữa là Xuân Thu(722-479trước CN) và Chiến
quốc(479-221 trước CN), xã hội rối ren loạn lạc “đánh nhau để tranh đất giết người
đầy đồng; đánh nhau để tranh thành, giết người đầy thành”.
Từ khi dời đô sang đông, Nhà Chu suy yếu dần không đủ sức sai khiến chư
hầu. Đầu thời Đông Chu, số nước chư hầu còn chừng trên 100 trong đó có khoảng
15 nước lớn là Tấn, Tần, Tề, Ngô, Việt, Sở, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh, Lỗ,
Vệ và Trung Sơn. Có 5 nước hùng cường, kế tiếp nhau làm minh chủ, tức là ngũ bá:
Tề Hoàn công, Tấn Văn công, Tống Tương công, Sở Trang công và Tần Mục công.
Đến thời Chiến quốc , số chư hầu giảm xuống còn 12 trong đó có 7 nước mạnh gọi
là thất hùng tức Tần, Tề, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu và Yên tranh chấp, thôn tính nhau,
khi hợp tung, lúc liên hoành, cho đến năm 221 trước CN, Tần Thủy Hoàng diệt sáu
nước thống nhất Trung Quốc.
Chính bối cảnh lịch sử đầy biến động của đời Chu, đặc biệt là thời Xuân
Thu - Chiến quốc, đã nảy sinh sự hưng thịnh, phát triển của tư tưởng học thuật bách
gia chư tử và tản văn thời tiên Tần.
Về mặt văn học, có thể nói văn học thời tiên Tần chính là văn học đời
Chu(1134-247 trước CN). Bởi vì tuy có sách chép một số bài thơ tương truyền làm
vào các đời Hoàng Đế(2696-2597 trước CN)) như bài “Đạn ca”: Đoạn trúc, tục
trúc, phi thổ, trục nhục(Chặt tre, nối tre, ném đất, đuổi loài chim muông),
Nghiêu(2357-2255 trước CN) như bài “Kích nhưỡng ca”:Nhật xuất nhi tác, nhật
nhập nhi tức, tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực, đế lực hà hữu ư ngã tai! (Mặt trời
mọc thì làm việc, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi; đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn,
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
-4-
sức vua cần chi cho ta đâu !), Thuấn(2255-2207 trước CN) như bài “Nam phong
ca”:Nam phong chi huân hề, khả dó giải ngô dân chi uẩn hề. Nam phong chi thời
hề, khả dó phụ ngô dân chi tài hề(Gió nam mát hề, có thể khuây nỗi giận của dân ta.
Gió nam phải thời hề có thể tăng tài sản của dân ta) , nhưng thực ra không có bằng
chứng gì xác thực đủ tin. Còn đời Thương-Ân(1783-1135 trước CN), tuy văn tự đã
hình thành nhưng phải đến cuối đời này mới đạt đến trình độ có thể dùng để ghi
chép, trước thuật.
Năm thiên Thương tụng trong Kinh Thi là những bài thơ do người đời Chu
theo khẩu truyền mà ghi chép lại chứ không phải được ghi chép từ đời Thương-Ân.
Chỉ có mấy bài ca ngắn trong lời bói toán khắc trên xương trinh bốc được tìm thấy
tại làng Tiểu Đồn, huyện An Dương năm1899 và được xác định xuất hiện vào niên
đại n Thương là di tích đáng tin nhất của thi ca đời này. Ví dụ mấy câu thơ trong
lời bói đời thượng cổ sau đây:
Qúy mão bốc: Kim nhật vũ
Kỳ tự tây lai vũ?
Kỳ tự đông lai vũ?
Kỳ tự bắc lai vũ?
Kỳ tự nam lai vũ?
(Ngày quý mão bói: Hôm nay mưa. Mưa từ tây lại chăng? Mưa từ đông lại chăng?
Mưa từ bắc lại chăng? Mưa từ nam lại chăng?).
Bài thơ rất đơn giản, chất phác, dùng đại từ nghi vấn “kỳ” như thường thấy
trong Kinh Thi, có thể bắt nguồn cho bài dân ca nhạc phủ “Giang Nam khả thái
liên” rất phổ biến từ đời Hán về sau:
Giang Nam khả thái liên,
Liên diệp hà điền điền!
Ngư hý liên diệp gian:
Ngư hý liên diệp đông,
Ngư hý liên diệp tây,
Ngư hý liên diệp nam,
Ngư hý liên diệp bắc.
(Hãy đi hái sen bên bờ nam sông. Lá sen tươi tốt làm sao !Cá giỡn trong lá sen.Cá
giỡn phiá đông lá sen. Cá giỡn phiá tây lá sen. Cá giỡn phía nam lá sen. Cá giỡn
phía bắc lá sen).
Tuy nhiên, số lượng thi ca từ đời Ân Thương trở về trước qúa ít, chưa đủ để
tạo nên một nền văn học dù là cổ sơ.
Văn học thời tiên Tần có 3 thành tựu lớn: Kinh Thi, Sở từ(nổi bật nhất là”Ly
tao”của Khuất Nguyên) và Tản văn(triết học và lịch sử).
Kinh Thi là thành tựu thi ca miền Bắc Trung Quốc, đó là sáng tác của đại đa
số quần chúng, là những bài ca dao, dân ca của 15 “nước” (Chu Nam, Thiệu Nam,
Bội, Dung, Vệ, Vương, Trịnh, Tề, Ngụy, Đường, Tần, Trần, Cối, Tào và Bân) sinh
sống vùng lưu vực sông Hoàng Hà.
Sở từ là thành tựu thi ca miền nam Trung Quốc, chủ yếu là thi ca từ phú của
Khuất Nguyên, một nhà thơ yêu nước thiết tha, một nhà chính trị sáng suốt đồng
thời là một nhân cách lớn của nước Sở.
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
-5-
Tản văn triết học và tản văn lịch sử là thành tựu của cả 2 miền Nam Bắc Trung
quốc, trong đó triết học Khổng Mạnh thiết tha nhập thế là tư trào chính của miền
Bắc và Lão Trang nhàn dật lánh đời là tư trào chính của miền Nam.
Các sáng tác của miền Bắc mang tính hiện thực còn những sáng tác miền
Nam lại đậm nét trữ tình. Ba thành tựu này ít nhiều đều bị ngọn lửa phần thư năm
213 trước CN đời Tần Thủy Hoàng thiêu đốt (trừ sách về bói toán, nông nghiệp và y
dược), đến khi ngọn lửa đốt cung A Phòng do Hạng Vũ dấy lên thì thư tịch trước
thời Tần mới bị thiêu sạch, chỉ nhờ công lao khôi phục của các nhà nho đời Hán,
các tác phẩm này mới được lưu truyền đến nay.
TIẾT 1 : KINH THI
Kinh Thi là tập thơ cổ nhất của Trung Quốc. Nó là tổng tập những bài ca
dao, dân ca hay nhất, đẹp nhất của các dân tộc miền Bắc Trung Quốc tức 15“nước”
ở vùng lưu vực sông Hoàng Hà(Chu Nam, Thiệu Nam, Bội, Dung, Vệ, Vương, Trịnh,
Tề, Ngụy, Đường, Tần, Trần, Cối, Tào và Bân), được sáng tác trong khoảng thời
gian từ đầu Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu tức từ thế kỷ thứ 12 đến thế kỷ thứ 6
trước CN(1134-590 trước CN). Tác giả đại đa số thuộc tầng lớp quần chúng bình
dân( Phần Phong và một số bài trong phần Tiểu Nhã). Ban đầu những sáng tác này
chỉ được gọi là Thi(“Thi tam bách, nhất ngôn dó tế chi, viết tư vô tà” : Thi có 300
thiên, một lời nói có thể bao quát cả: đó là không nghó đến điều xằng bậy). Danh
xưng “kinh” xuất hiện từ đầu đời Hán(206 trước CN) khi các nhà Hán nho khôi
phục và xếp tác phẩm này vào hàng kinh điển(Thi, Thư, Dịch, Lễ và Xuân Thu) .
Đầu đời Hán có 4 bản Kinh Thi, nội dung đại thể giống nhau:
-Tề thi của Viên Cố, thất lạc vào đời Ngụy(220-265).
-Lỗ thi của Thân Bồi, thất lạc vào đời Tây Tấn(265-317).
-Hàn thi của Hàn Anh, thất lạc vào đời Bắc Tống(960-1127).
-Mao thi của Mao Hanh, hiện còn lưu hành.
Về nguồn gốc Kinh Thi, có 2 thuyết: thái thi và san thi. Thuyết thái thi giả
định từ sự kiện thiết lập nhạc phủ thự đời Hán Võ Đế, còn thuyết san thi do Tư Mã
Thiên đưa ra trong sách Sử Ký, thiên Khổng Tử thế gia. Về tên gọi, có khá nhiều:
Thi, Kinh Thi, Quốc phong, Thập ngũ quốc phong, Mao Thi…
Bản Kinh Thi hiện nay (tức Mao Thi) có 311 thiên (trong đó 6 thiên chỉ có
đề tựa nên thực tế gồm 305thiên, nói gọn là Thi tam bách), chia làm 3 phần:
-Phong( hay Quốc phong, Thập ngũ quốc phong) gồm những bài ca dao, dân
ca diễn tả các mặt sinh hoạt của đời sống người dân Trung Quốc thời thượng cổ.
Tổng cộng có160 thiên. Đây là phần có giá trị nhất của Kinh Thi -trong đó chủ đề
tình yêu nam nữ và ước vọng lứa đôi của quần chúng nhân dân lao động được thể
hiện sâu đậm nhất.
-Nhã (Đại nhã và Tiểu nhã), gồm những bài thơ do các nhà qúy tộc sáng tác
dùng để ca hát trong yến tiệc. Những bài dùng trong yến tiệc của thiên tử triều Chu
g là Đại nhã, có 31 thiên. Những bài dùng trong yến tiệc của chư hầu hoặc các
khanh, đại phu g là Tiểu nhã, có 80 thiên. Đặc biệt trong tiểu nhã có một số bài
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
-6-
thơ mang nội dung như phần phong, có lẽ khi khôi phục lại, các nhà nho đời Hán đã
thay thế vào.
-Tụng (Chu tụng, Lỗ tụng và Thương tụng), gồm những bài thơ ca ngợi thần
linh khi tế lễ hoặc khoa trương thịnh đức các triều đại, dùng trong miếu đường, có
40 thiên.
Kinh Thi là sản phẩm văn hóa của miền Bắc Trung Quốc và giá trị chủ yếu
của nó là giá trị hiện thực.
Về nội dung, Quốc phong là phần tinh túy có giá trị nhất của Kinh Thi, phản
ánh chính xác và sâu rộng sinh hoạt của người dân Trung Quốc thời thượng cổ, nổi
bật hơn cả là đời sống lao động nặng nhọc cần cù, đời sống chính trị bị áp bức bóc
lột và đời sống tình cảm hồn nhiên phong phú của đại đa số quần chúng nhân dân
lao động:
-Những bài miêu tả đời sống lao động nặng nhọc của nhân dân Trung Quốc
thời cổ sơ như làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm, nhuộm tơ cho đến săn bắn, chặt gỗ,
đục băng, dựng nhà…như : (Thất nguyệt –Bân phong), (Thập mẫu chi gian, Phạt
đàn –Ngụy phong) …Ở chủ đề này, người đọc thấy chủ yếu toát lên không khí lao
động vui vẻ nhộn nhịp và cảm giác của người lao động là sự nhẹ nhàng sảng khoái:
Mười mẫu ruộng kìa !
Thập mẫu chi gian hồ,
Người trồng dâu nhàn hạ,
Tang giả nhàn nhàn hề,
Cùng con trai trở về nhà chừ.
Hành dữ tử hoàn hề !
(Mười mẫu ruộng – Ca dao nước Ngụy)
(Thập mẫu chi gian – Ngụy phong)
Nhưng ở một số bài cũng đã manh nha thái độ phê phán, oán ghét tầng lớp
thống trị, bóc lột, ngồi mát ăn bát vàng, như bài “Phạt đàn”(Ngụy phong)ï:
Chặt gỗ đàn chan chát chừ,
Khảm khảm phạt đàn hề,
Đặt nó ở bờ sông cao.
Trí chi hà thủy can hề.
Nước sông trong và gợn sóng.
Hà thủy thanh thả liên y.
Chẳng cấy chẳng gặt,
Bất giá bất sắc,
Sao thu lúa nhiều đến 300 hộc chừ?
Hồ thủ hòa tam bách triền hề?
Chẳng săn chẳng bắt,
Bất thú bất liệp,
Hồ chiêm nhữ đình hữu huyền huyên hề? Sao thấy hiên anh có treo chồn chừ?
Anh quân tử kia, chớ ăn không chừ !
Bỉ quân tử hề bất tố san hề !
Khảm khảm phạt bức hề,
Trí chi hà chi trắc hề.
Hà thủy thanh thả trực y.
Bất giá bất sắc,
Hồ thủ hoà tam bách ức hề?
Bất thú bất liệp,
Hồ chiêm nhữ đình hữu huyền đặc hề?
Bỉ quân tử hề, bất tố thực hề !
Chặt gỗ nan hoa chan chát chừ,
Đặt nó ở bên bờ sông thấp.
Nước sông trong mà sóng thẳng.
Chẳng cấy chẳng gặt,
Sao thu lúa nhiều đến 300 ức chừ?
Chẳng săn chẳng bắt,
Sao thấy hiên anh có treo thú non chừ?
Anh quân tử kia, chớ có ăn không chừ !
Khảm khảm phạt luân hề,
Trí chi hà chi thần hề.
Hà thủy thanh thả luân y.
Chặt gỗ bánh xe chan chát chừ,
Đặt nó ở mé nước sông.
Nước sông trong và sóng cuốn tròn.
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
Bất giá bất sắc,
Hồ thủ hoà tam bách khuân hề?
Bất thú bất liệp,
Hồ chiêm nhữ đình hữu huyền thuần hề?
Bỉ quân tử hề, bất tố tôn hề !
-7Chẳng cấy chẳng gặt,
Sao thu lúa nhiều đến 300 vựa chừ?
Chẳng săn chẳng bắt,
Sao thấy hiên anh có treo chim béo chừ?
Anh quân tử kia, chớ ăn không chừ !
-Những bài miêu tả thái độ căm ghét của người dân đối với sự áp bức bóc lột
và phản kháng chiến tranh xâm lược thôn tính lẫn nhau giữa các nước thời Xuân
Thu-Chiến quốc do giai cấp thống trị gây ra như: (Thạc thử –Ngụy phong), (Bão vũ
–Đường phong), (Quân tử vu dịch – Vương phong), (Bá hề –Vệ phong), (Đông sơn
– Bân phong), (Thái vi – Tiểu nhã)…
Ở chủ đề thứ 2 này, người đọc có thể tìm thấy nhiều bài thơ có nghệ thuật
rất cao. Đây là nỗi lo lắng của người lính thú bị bắt đi hành dịch:
Chim kia bay đậu lùm gai,
Túc túc bão vũ,
Việc vua đầy rẫy biết ngày nào xong?
Tập vu bao hủ.
Lúa kê ai vãi xuống đồng,
Vương sự mị cổ,
Cha mẹ đói lòng biết lấy gì ăn?
Bất năng nghệ tắc thử.
Trời cao có biết hay chăng,
Phụ mẫu hà hộ ?
Chừng nào hết việc mà mong trở về?…
Du du thương thiên,
(Chim bão vũ)
Hạt kỳ hữu sở…
(Bão vũ)
Họ lo lắng là lẽ đương nhiên, vì ngày về của họ nếu may mắn có được, cũng
chỉ là nỗi xót xa với bao đau thương mất mát:
Ta đi núi Đông,
Ngã tồ Đông sơn,
Biền biệt không về.
Thao thao bất qui.
Ngày về từ Đông,
Ngã lai tự Đông,
Mưa rơi lất phất.
Linh vũ ký mông.
Từ phương Đông về,
Ngã Đông viết qui,
Lòng đau về Tây…
Ngã tâm Tây bi…
(Núi Đông)
(Đông sơn)
Hoặc :
Xưa ta ra đi,
Tích ngã vãng hỹ,
Dương liễu xanh rì.
Dương liễu y y .
Nay ta trở về,
Kim ngã lai tư,
Mưa rơi lất phất.
Vũ tuyết phi phi.
Đường xa diệu vợi,
Hành đạo trì trì,
Đã khát lại đói.
Thả khát thả cơ.
Trong lòng đau nhói,
Ngã tâm thương bi,
Ai biết đau thương?
Mạc tri ngã ai.
(Rau thái vi)
(Thái vi)
Liệu nỗi đau thương ấy có dịu bớt phần nào với hình ảnh người vợ tao khang
vẫn chung thủy chờ chồng? Hay lại thêm nỗi bất hạnh mòn mõi chờ đợi của những
mảnh đời “con sâu cái kiến”?
Từ ngày chàng trẩy sang đông,
Tự bá chi Đông,
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
-8-
Đầu em như thể cỏ bồng gió bay !
Nào không nước gội cho hay,
Biết vì ai đó, để gái này vuốt ve?
Trời mưa ! y trời sắp mưa !
Mặt trời đâu đã mọc ra đỏ hồng.
Hãy xin để thiếp nhớ chồng,
Đầu tuy có nhức nhưng lòng cũng cam.
(Chàng ơi!)
(Bá hề)
-Những bài miêu tả đời sống tình cảm hồn nhiên phong phú nhất là tình yêu
nam nữ và ước vọng lứa đôi như: (Quan thư, Quyền nhó, Đào yêu, Hán quảng – Chu
Nam), (Phiếu hữu mai, Tiểu tinh –Thiệu Nam), (Tónh nữ, Yến yến –Bội phong),
(Bách chu, Quân tử giai lão – Dung phong)…Ước vọng hạnh phúc lứa đôi của người
dân Trung Quốc thời cổ sơ thông qua chủ đề tình yêu nam nữ trong Kinh Thi được
thể hiện tinh tế từ sự gặp gỡ, thương nhớ, trằn trọc đến hẹn hò, hờn dỗi, ước mơ nên
duyên cầm sắt hoặc luyến tiếc xót xa, đỗ vỡ. Đó là ước vọng chân thực, là khát
vọng thiết tha, đồng thời cũng là sự đòi hỏi chính đáng quyền được sống hạnh phúc
của con người nói chung(Xem phần trích giảng).
Thủ như phi bồng.
Khởi vô cao mộc?
Thùy thích vi dung?
Kỳ vũ kỳ vũ,
Cảo cảo xuất nhật.
Nguyện ngôn tư bá,
Cam tâm thủ tật.
Nội dung Kinh Thi có tác động giáo dục rất lớn. Chính Khổng tử cũng nhận
định: “Tiểu tử, hà mạc học phù Thi? Thi khả dó hưng, khả dó quan, khả dó quần, khả
dó oán; nhó chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa chí ư điểu thú thảo mộc chi danh Dương hóa”(Các trò sao không học Thi? Nhờ Thi, ta có thể hưng khởi tâm trí, biết
quan sát, biết hợp quần, biết oán giận một cách chính đáng; gần thì biết thờ cha, xa
thì biết thờ vua, lại còn ghi chép tên nhiều giống chim muông cây cỏ - thiên Dương
Hóa).
Về nghệ thuật, phương thức biểu đạt của Kinh Thi rất đa dạng. Các thể phú,
tỉ, hứng được sử dụng hoặc riêng lẻ hoặc phối hợp một cách nhuần nhuyễn làm nội
dung bài thơ càng thêm nổi bật, tăng thêm tính gợi hình và gây cảm xúc mạnh nơi
người đọc. Các thủ pháp trùng chương điệp cú không những khiến nhạc điệu bài thơ
thêm dồi dào mà còn giúp nội dung ý tưởng được khắc họa tinh tế, sâu sắc. Ngoài
ra, tiết tấu đơn giản của lối thơ 4 chữ, sự sử dụng ngôn từ bình dị quen thuộc mà gợi
tả đã góp phần không nhỏ tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm.
Về phương diện văn học, ảnh hưởng của Kinh Thi rất lớn. Nó là kho tư liệu,
điển cố phong phú, là nguồn cảm hứng vô tận của thi nhân các đời, ở Trung Quốc
cũng như ở Việt Nam.
Ở Trung Quốc, không một thi só nào lại không đọc và không chịu ít nhiều
ảnh hưởng của Kinh Thi. Lý Bạch đã viết :
Đại nhã cửu bất tác,
Ngô ai cánh thùy trần?
(Đại Nhã đã lâu không chấn tác, nỗi niềm ai oán của ta rốt cuộc biết giải bày
cùng ai?).
Còn Đỗ Phủ thì chủ trương “Biệt tài ngụy thể thân Phong Nhã”(Riêng ta
không theo lối ngụy thể mà chỉ phát triển thơ Phong, Nhã).
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
-9-
Đặc biệt, ca dao, dân ca, thơ và nhạc phủ từ Lưỡng Hán đến Lục Triều chịu
ảnh hưởng trực tiếp Kinh Thi, cả về nội dung lẫn hình thức.
Ở nước ta, các thi gia xưa thường mượn chữ, mượn hình ảnh, mượn ý của
Kinh Thi để diễn đạt ý tưởng tâm tình, thậm chí xem Kinh Thi như một tác phẩm
mẫu mực, không ngớt lời ca ngợi: “Tứ ngôn độc Mao, ngũ ngôn độc Đào, thất ngôn
độc Tao”(Thơ 4 chữ thì đọc Mao thi, thơ 5 chữ thì đọc Đào Tiềm, thơ 7 chữ thì đọc
Ly Tao). Thật đúng là “Bất học Thi, vô dó ngôn”( Không học tập Kinh Thi, không
biết lấy gì mà nói cho văn vẻ - Luận Ngữ); “Nhân nhi bất vi Chu Nam, Thiệu Nam,
kỳ do chính tường diện nhi lập”(Người ta mà không đọc thơ Chu Nam, Thiệu Nam,
thì cũng giống như đứng quay mặt vào tường - Dương Hóa) ; “Tụng Thi tam bách,
thụ chi dó chính bất đạt, sứ ư tứ phương bất năng chuyên đối, tuy đa, diệc hề dó vi?”(
Đọc hết 300 thiên Thi, nhưng khi được trao việc chính trị làm không đạt, sai đi sứ
bốn phương không biết ứng đối lưu loát, thì tuy có đọc nhiều cũng chẳng ích gì -Tử
Lộ).
Trích giảng:
Chim thư cưu
I-Quan thư
Chim thư cưu hót vang,
Quan quan thư cưu,
Trên bãi sông.
Tại hà chi châu.
Người thục nữ dịu dàng yểu điệu,
Yểu điệu thục nữ,
Xứng đôi với chàng quân tử.
Quân tử hảo cầu.
Sâm si hạnh thái,
Tả hữu lưu chi.
Yểu điệu thục nữ,
Ngụ mị cầu chi.
Rau hạnh so le,
Ngã ngọn theo hai bên giòng.
Người thục nữ dịu dàng yểu điệu,
Thức ngủ ta cầu mong.
Cầu chi bất đắc,
Ngụ mị tư bặc(phục),
Du tai ! Du tai !
Triển chuyển phản trắc.
Cầu mong nàng không được,
Thức ngủ ta nhớ nhung.
i, nhớ thương hoài !
Ta trằn trọc khôn nguôi.
Sâm si hạnh thái,
Tả hữu thái chi,
Yểu điệu thục nữ,
Cầm sắt hữu chi.
Sâm si hạnh thái,
Tả hữu mạo chi.
Yểu điệu thục nữ,
Chung cổ lạc chi.
2.- Tónh nữ
Tónh nữ kỳ thù ,
Só ngã vu thành ngu.
i nhi bất kiến,
Tao thủ trì trù .
Rau hạnh so le,
Ta hái rau bên phải, bên trái.
Người thục nữ dịu dàng yểu điệu,
Ta gẩy đàn cầm đàn sắt mong có nàng.
Rau hạnh so le,
Ta hái rau bên phải bên trái về nấu chín.
Người thục nữ dịu dàng yểu điệu ,
Ta nổi chuông trống cho nàng vui.
Cô gái thùy mị
Cô gái dịu dàng xinh đẹp,
Đợi ta ở góc thành.
Yêu nàng mà không gặp mặt,
Ta vò đầu băn khoăn.
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 10 -
Tónh nữ kỳ luyến ,
Di ngã đan quản .
Đan quản hữu vó ,
Duyệt dịch nhữ mỹ.
Cô gái dịu dàng đáng yêu,
Tặng ta một cây bút son.
Cây bút son có vân rực rỡ,
Ta vui lòng vì mi đẹp.
Tự mục qui di ,
Tuân mỹ thả dị.
Phỉ nhữ chi vi mỹ,
Mỹ nhân chi di.
Từ ngoài đồng về, nàng tặng ta nhánh cỏ
Vừa đẹp vừa lạ.
Cỏ ơi, không phải là mi đẹp đâu
Mà vì là tặng vật của người đẹp.
3.- Hà quảng
Thùy vị hà quảng,
Nhất vỹ hàng chi.
Thùy vị Tống viễn,
Kỹ dữ vọng chi.
Sông rộng
Sông kia, ai bảo rộng gì?
Một cái cỏ sậy, ấy thì sang qua !
Tống kia, ai bảo rằng xa?
Kiễng chân một chút, ấy ta trông thấy rồi
Thùy vị hà quảng,
Tằng bất dung điêu.
Thùy vị Tống viễn,
Tằng bất sùng triêu.
Sông kia, ai bảo rộng gì?
Một chiếc thuyền nhỏ, ấy thì chật thôí !
Tống kia, ai bảo xa xôi?
Đi không đầy buổi, ấy đến nơi đó mà !
(Tản Đà dịch)
4.- Tử khâm
Thanh thanh tử khâm,
Du du ngã tâm.
Túng ngã bất vãng,
Tử ninh bất tự hề?
o chàng
o chàng xanh xanh,
Lòng ta nhớ hoài.
Nếu ta chẳng tới,
Chàng sao chẳng giải bày?
Thanh thanh tử bội,
Du du ngã tư.
Túng ngã bất vãng,
Tử ninh bất lai?
Chàng đeo ngọc xanh,
Lòng ta nhớ mãi.
Nếu ta không đi,
Chàng sao chẳng lại?
Khiêu hề ! Đạt hề !
Tại thành khuyết hề.
Nhất nhật bất kiến,
Như tam nguyệt hề.
Giỡn kìa ! Nhảy kìa !
Ở cửa thành kia.
Một ngày chẳng thấy,
Ba tháng cách chia.
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
( Vô Danh)
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 11 -
5.- Yến yến
Yến yến vu phi,
Si trì kỳ vũ.
Chi tử vu quy,
Viễn tống vu dã.
Chiêm vọng phất cập,
Khấp thế như vũ.
Chim én
Kìa trông con én nó bay,
Nó sa cánh này nó liệng cánh kia.
Cô kia bước chân ra về,
Ta tiễn mình về đến quãng đồng không.
Trông theo nào thấy mà trông,
Nước mắt ta khóc ròng ròng như mưa.
Yến yến vu phi,
Hiệt chi hàng chi.
Chi tử vu quy,
Viễn vu tương chi.
Chiêm vọng phất cập,
Trữ lập dó khấp.
Kìa trông con én nó bay,
Bay bổng nơi này bay xuống nơi kia.
Cô kia bước chân ra về,
Ta tiễn mình về chẳng quản đường xa.
Trông theo nào thấy đâu mà,
Một mình thơ thẩn đứng mà khóc thương.
Yến yến vu phi,
Hạ thượng kỳ âm.
Chi tử vu quy,
Viễn tống vu nam.
Chiêm vọng phất cập,
Thực lao ngã tâm.
6.- Phiếu hữu mai
Phiếu hữu mai,
Kỳ thực thất hề!
Cầu ngã thứ só,
Đãi kỳ cát hề.
Kìa trông con én nó bay,
Kêu lên tiếng này, kêu xuống tiếng kia.
Cô kia bước chân ra về,
Ta tiễn mình về, xa tiễn sang nam.
Lòng ta vơ vẩn ai làm,
Trông theo chẳng thấy cho thêm nhọc lòng
(Tản Đà dịch)
Cây mai rụng
Cây mai rụng,
Qủa bảy trên cành.
y ai là kẻ cầu mình,
Tính sao cho kịp ngày lành hỡi ai !
Phiếu hữu mai,
Kỳ thực tam hề!
Cầu ngã thứ só,
Đãi kỳ kim hề.
Cây mai rụng,
Trên cành qủa ba.
y ai là kẻ cầu ta,
Tính sao cho kịp, ắt là ngày nay.
Phiếu hữu mai,
Khuynh khuông kỵ chi.
Cầu ngã thứ só,
Đãi kỳ vị chi.
Cây mai rụng,
Nghiêng giỏ nhặt mai.
Cầu ta, ai đó hỡi ai !
Tính sao cho kịp, một lời bảo nhau !
(Tản Đà dịch)
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 12 -
7.-Quân tử vu dịch
Quân tử vu dịch,
Bất tri kỳ kỳ.
Hạt chí tai!
Kê thê vu thì.
Nhật chi tịch hỹ,
Dương ngưu hạ lai,
Quân tử vu dịch,
Như chi hà vật ưu?
Chàng chinh chiến phương xa
Chàng chinh chiến phương xa,
Ngày về nào hẹn ước.
Gà đến lúc lên chuồng,
Chàng bao giờ về được?
Trời chiều đà xẩm tối,
Dê trâu đã về tới.
Chàng còn chinh chiến xa,
Lòng thiếp sao chẳng rối?
Quân tử vu dịch,
Bất nhật bất nguyệt.
Hạt hữu kỳ hoạt,
Kê thê vu kiệt.
Nhật chi tịch hỹ,
Dương ngưu hạ quát,
Quân tử vu dịch,
Cẩu vô cơ khát.
Chàng chinh chiến phương xa,
Tháng ngày đi biền biệt.
Gà đã nằm ấm tổ,
Ngày chàng về nào biết.
Trời chiều bóng đã tà,
Dê trâu đã về hết.
Chàng còn chinh chiến xa,
Mong sao không đói rét.
8.- Bá hề
Bá hề ! Yết hề !
Bang chi kiệt hề.
Bá dã chấp thù,
Vị vương tiền khu.
Chàng ơi !
y ai tài giỏi như chàng,
Kể xem trong nước, thật hàng trượng phu.
Chàng nay chạy trước xe vua,
Lăm lăm cầm một cái thù trong tay.
Tự bá chi đông,
Thủ như phi bồng.
Khởi vô cao mộc,
Thùy đích vi dung.
Từ ngày chàng trẩy sang đông,
Đầu em như thể cỏ bồng gió bay !
Nào không nước gội cho hay,
Biết vì ai đó, để gái này vuốt ve?
Kỳ vũ ! Kỳ vũ !
Kiểu kiểu xuất nhật.
Nguyện ngôn tư bá,
Cam tâm thủ tật.
Trời mưa ! y trời sắp mưa !
Mặt trời đâu đã mọc ra đỏ hồng.
Hãy xin để thiếp nhớ chồng,
Đầu tuy có nhức, nhưng lòng cũng cam.
An đắc huyên thảo,
Ngôn thụ chi bối.
Nguyên ngôn tư bá,
Sử ngã tâm hối.
Ước gì được cỏ quên lo,
Đem về chái bắc để cho ta trồng.
Hãy xin để thiếp nhớ chồng,
Dẫu cho đau đớn trong lòng, quản bao !
(Tản Đà dịch)
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 13 -
9.- Bách chu
Phiếm bỉ bách chu,
Diệc phiếm kỳ lưu.
Cảnh cảnh bất mị,
Như hữu ẩn ưu.
Vi ngã vô tửu,
Dó ngao dó du.
Chiếc thuyền gỗ bách
Lênh đênh như chiếc thuyền trôi,
Chiếc thuyền gỗ bách, ai ơi, giữa giòng!
Muốn ngủ mà ngủ chẳng xong,
Vì sao khắc khoải như lòng có lo.
Lo này ai có hay cho,
Phải rằng không rượu chơi cho đỡ buồn.
Ngã tâm phỉ giám,
Bất khả dó nhự.
Diệc hữu huynh đệ,
Bất khả dó cứ.
Bạc ngôn vãng tố,
Phùng bỉ chi nộ.
Lòng ta chẳng phải là gương,
Muốn đem mà lường, hồ dễ được chăng?
Anh em có cũng gọi rằng:
Có anh em, chẳng chắc bằng vào ai.
Ta đi ta nói mấy lời,
Gặp cơn giận dữ của người anh em.
Ngã tâm phỉ thạch,
Bất khả chuyển dã.
Ngã tâm phỉ tịch,
Bất khả quyển dã.
Uy nghi lệ lệ,
Bất khả tuyển dã.
Chiếu kia cuốn dễ như không,
Lòng ta phải chiếu mà mong cuốn dần !
Đá kia thời có người lăn,
Lòng ta phải đá mà vần được sao !
Uy nghi chẳng kém chút nào,
Dễ ai kén chọn điều nào được ru !
Ưu tâm tiễu tiễu,
Uẩn vu quần tiểu.
Cấu mẫn ký đa,
Thụ vô bất tiểu.
Tónh ngôn tư chi,
Ngụ tịch hữu phiếu.
Nhật cư nguyệt chư,
Hồ điệt nhi vi.
Tâm chi ưu hỹ,
Như phỉ cán y.
Tónh ngôn tư chi,
Bất năng phấn phi.
Lòng ta áy náy lo phiền,
Nghó cho những lũ nhỏ nhen bực mình.
Nỗi riêng lắm nỗi thương tình,
Lại thêm nhiều sự bất bình lắm thay !
Một mình riêng nghó ai hay,
Đêm nằm sờ bụng, vỗ tay mà buồn.
Mặt trăng kia với mặt trời,
Sao mà mờ tối lần hồi như nhau?
Lòng ta xiết nỗi lo sầu,
Như áo không giặt mặc lâu thế này.
Một mình riêng nghó ai hay,
Bực mình khôn dễ mà bay được nào !
(Tản Đà dịch)
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
10.-Tiểu tinh
Tuệ bỉ tiểu tinh,
Tam ngũ tại đông.
Túc túc tiêu chinh,
Túc dạ tại công.
Thực mệnh bất đồng.
Tuệ bỉ tiểu tinh,
Duy Sâm dữ Mão.
Túc túc tiêu chinh,
Bão khâm dữ trù,
Thực mệnh bất do.
- 14 Phận lẽ mọn
ng sao nho nhỏ,
Mọc ở phía đông
Năm ông ba ông,
Nhấp nha nhấp nháy.
Kìa đâu lại thấy,
Sao Mão sao Sâm
m chăn chăm chắm đi đêm,
Nơi công khuya sớm thân em chực chầu.
Phận trời cho, thực chẳng như nhau.
(Tản Đà dịch)
TIẾT 2 : SỞ TỪ
Nếu Kinh Thi là thành tựu thi ca dân gian miền Bắc, có giá trị hiện thực cao
thì Sở từ là thành tựu thi ca miền Nam mang đậm dấu ấn cá nhân (nổi bật là Ly Tao
của Khuất Nguyên).Tác phẩm Ly tao xuất hiện từ giữa thế kỷ thứ 4 trước CN và
được công nhận là đỉnh cao của thi ca Trung Quốc, đạt tới bước phát triển rất lớn về
mặt chủ đề tư tưởng cũng như nghệ thuật thể hiện, nhất là sự sử dụng ngôn từ
phong phú và sức tưởng tượng dồi dào. Giá trị chủ yếu của Sở từ nói chung, của Ly
Tao nói riêng là chất trữ tình lãng mạn, thể hiện trí tưởng tượng phong phú bay bổng
của nhà thơ thiên tài Khuất Nguyên.
Sở từ là thi ca, từ phú của nước Sở - một nước ở lưu vực sông Trường giang,
tức là miền nam Trung Quốc- trong đó những tác phẩm nổi tiếng nhất là của hai
nhân vật có tâm sự gần giống nhau: Khuất Nguyên(343-278 trước CN) và Tống
Ngọc(290-222 trước CN).
-Khuất Nguyên(343-278 trước CN) và “Ly Tao”:
Húy là Bình, tự là Nguyên, hậu duệ của Sở Vũ vương. Là người”nghe rộng, chí hùng, rõ
việc trị loạn, giỏi về giấy tờ, vào thì cùng vua bàn việc nước, ban bố hiệu lệnh, ra thì tiếp đãi tân
khách, ứng đối chư hầu”(Sử ký, Khuất Nguyên liệt truyện - Tư Mã Thiên), rất được Sở Hoài vương
tin dùng.
Năm 25 tuổi(319 trước CN) được Sở Hoài vương tin dùng, phong chức Tả đồ.
Năm 318 trước CN, Khuất Nguyên đi sứ nước Tề, lập nên tung ước Tề - Sở, thực hiện biến
pháp khiến Sở trở thành nước hùng mạnh.
Năm 314 trước CN, nghe lời Thượng quan Đại phu Cận Thượng ganh tài gièm pha, Sở
Hoài vương không tin dùng Khuất Nguyên nữa, bỏ hợp tung, theo liên hoành, đày ông lên miền Bắc
sông Hán. Khuất Nguyên lo buồn, sáng tác thiên Ly Tao để giải bày tâm sự của một bề tôi cô trung
hết lòng vì dân vì nước.
Năm 312 trước CN, sau khi bị Trương Nghi lừa gạt phải thua trận, mất đất Hán Trung, mất
tướng Khuất Cái, Sở Hoài vương hối hận, lại tin dùng Khuất Nguyên, nối lại liên minh Tề-Sở, phong
ông làm Tam Lư Đại phu.
Năm 299 trước CN, lầm kế kết tình thông gia của Tần Chiêu vương, Sở Hoài vương vượt
cửa ải Vũ quan, bị giam ở Tần, rồi 3 năm sau mất tại đấy.
Năm 296 trước CN, đời Khoảnh Tương vương, Khuất Nguyên lại bị lưu đày xuống miền
Giang Nam.
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 15 -
Năm 278 trước CN, tướng Tần là Bạch Khởi đánh chiếm Sính đô, khai quật phần mộ tổ tiên
vua Sở. Lúc này Khuất Nguyên đã 66 tuổi, trải qua hơn 20 năm luân lạc, thấy cảnh quốc phá gia
vong, nhân dân đồ thán, ông rất phẫn khích bi ai, làm bài phú Hoài sa rồi tự trầm tại sông Mịch La
vào ngày mồng 5 tháng 5( tết Đoan ngọ).
Theo Ban Cố(Hán thư -Nghệ văn chí), Vương Dật(Sở từ chương cú) và Chu Hy(Sở từ tập
chú), tác phẩm của Khuất Nguyên gồm 25 thiên sau:
Ly tao(1 thiên), Thiên vấn(1 thiên), Viễn du(1 thiên), Bốc cư(1 thiên), Ngư phủ(1 thiên), Cửu
ca(11 thiên : Đông hoàng thái nhất, Vân trung thần, Tương quân, Tương phu nhân, Đại tư mệnh,
Thiếu tư mệnh, Đông quân, Hà bá, Sơn q, Quốc thương, Lễ hồn) và Cửu chương(9 thiên : Tích
tụng, Thiệp giang, Ai Sính, Trừu tư, Hoài sa, Tư mỹ nhân, Tích vãng nhật, Quất tụng, Bi hồi phong).
Qua thân thế và sự nghiệp của mình, Khuất Nguyên xứng đáng là một nhà thơ yêu nước
thiết tha, một nhà chính trị sáng suốt và là một nhân cách lớn.
“Ly tao” –tác phẩm tiêu biểu của Khuất Nguyên- gồm 374 câu, sáng tác
năm 314 trước CN khi Sở Hoài Vương nghe lời gièm pha của Thượng quan Đại phu
Cận Thượng, cách chức Tả đồ và đày ông lên miền bắc sông Hán. Bài thơ viết theo
thể “tao”, thể thơ do chính tác giả sáng tạo trên cơ sở dân ca nước Sở. Ly tao có
nghóa là mối lo buồn biệt ly( Ly tao giả, ly ưu dã -Sử Ký – Tư Mã Thiên), hoặc gặp
mối u sầu(Hán thư – Ban Cố). Hai cách giải thích này đều phù hợp với nội dung
giải bày tâm sự của nhà thơ yêu nước Khuất Nguyên.
Tác phẩm Ly Tao được nhà phê bình đời Minh Kim Thánh Thán xếp vào
hàng cổ điển gọi là lục tài tử(Nam Hoa Kinh của Trang Tử, Ly Tao của Khuất
Nguyên, Sử Ký cuả Tư Mã Thiên, Luật Thi của Đỗ Phủ, Thủy Hử của Thi Nại Am
và Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ). Về sau người đời thêm vào 2 tác phẩm nữa
thành bát tài tử là Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị và Hoa Tiên Ký – Khuyết Danh;
cũng có người cho là Tam Quốc Chí của La Quán Trung và Hồng Lâu Mộng của
Tào Tuyết Cần – Cao Ngạc.
Tác phẩm có thể chia làm 2 phần và một lời loạn : ( tức lời kết):
Phần 1: 184 câu đầu, chủ yếu là thực có pha lẫn ít nhiều hư cấu, tác giả tự
kể về mình, gồm 3 đoạn:
Đoạn 1 trình bày gia thế và chí hướng, hoài bão của tác giả lúc còn trẻ.
Đoạn 2 kể lại những lo lắng, dằn vặt ưu tư của tác giả về hậu qủa của đường
lối trị nước do nhà vua mù quáng và bọn nịnh thần xúc xiểm gây ra.
Đoạn 3 thể hiện tinh thần đấu tranh đến cùng cho lý tưởng, quyết không
thỏa hiệp với cái ác, cái xấu.
Phần 2: 186 câu kế tiếp, chủ yếu là hư cấu nhưng phát xuất từ cơ sở hiện
thực, gồm 4 đoạn:
Đoạn 1 hóa thân vào mộng tưởng để trình bày lý tưởng hoài bão trí quân
trạch dân của mình trước đền vua Thuấn.
Đoạn 2 diễn tả cuộc du hành vào thế giới hư ảo (3 lượt) để tìm “người bạn
lòng” nhằm thực hiện lý tưởng hoài bão ấy nhưng thất bại.
Đoạn 3 trở về hiện thực trong tâm trạng xót xa dằn vặt, mất phương hướng,
muốn buông xuôi, nhiều lần nghó đến cái chết.
Đoạn 4 lại du hành vào thế giới hư ảo nhưng vẫn thất bại.
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 16 -
Lời loạn: 4 câu cuối, tổng kết ý toàn bài và nêu lên dự cảm bi thương về
cuộc đời tác giả: theo gương Bành Hàm, tìm đến cái chết để giải bày tấm lòng thiết
tha vì thế sự của một nhân cách cao khiết.
Trích giảng:
l.-Ly tao(trích)
Đế Cao Dương chi miêu duệ hề,
Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.
Nhiếp đề trinh vu Mạnh Trâu hề,
Duy Canh dần ngô dó giáng.
Gặp mối lo buồn
Là dòng dõi Cao Dương vua trước,
ng Bá Dung chính thực phụ thân,
Năm Dần, vào tháng đầu xuân,
Canh dần ngày ấy, giáng trần là ta.
Hoàng lãm q dư sơ độ hề,
Thiệu tích dư dó gia thanh.
Danh dư viết Chính Tắc hề,
Tự dư viết Linh Quân.
Lúc sơ sinh trông ra mọi sự,
Cha ban cho danh tự tốt lành.
Này đây Chính Tắc là danh,
Linh Quân là tự cho thành tên hay.
Phân ngô ký hữu thử nội mỹ hề,
Hựu trùng chi dó tu năng.
Hỗ giang ly dữ tích chỉ hề,
Nữu thu lan dó vi bội.
Trong đã sẵn đức dày nết khá,
Ngoài lại thêm vẻ lạ, tài nhiều.
Giang ly, tích chỉ mang theo,
Thu lan thơm ngát kết đeo bên mình.
Cốt dư nhược tương bất cập hề,
Khủng niên tuế chi bất ngô dữ.
Triêu kiển tỉ chi mộc lan hề,
Tịch giảo châu chi túc mãng.
Lo thời gian trôi nhanh qua vội,
Sợ tháng năm chẳng đợi chờ ta.
Mộc lan ban sáng hái hoa,
Cỏ xanh giẫm bóng chiều tà bên sông.
Nhật nguyệt hốt kỳ bất yêm hề,
Xuân dữ thu kỳ đại tự.
Duy thảo mộc chi linh lạc hề,
Khủng mỹ nhân chi trì mộ.
Ngày với tháng hẵn không ở lại,
Xuân rồi thu mãi mãi đổi thay
Nghó điều héo rụng cỏ cây,
Sợ cho người đẹp rồi đây sẽ già.
Bất phủ tráng nhi khử uế hề,
Hà bất cải thử độ?
Thừa kỳ ký dó trì sính hề,
Lai ngô đạo phù tiên lộ.
Thời trẻ mạnh, xấu xa chẳng bỏ,
Sao không thay pháp độ kỷ cương?
Ruổi giong kỳ ký trên đường,
Lại đây, ta dẫn cho tường bước đi.
Tích tam hậu chi thuần túy hề,
Cố chúng phương chi sở tại.
Tạp thân tiêu dữ khuẩn quế hề,
Khởi duy nữu phù huệ xải.
Vì ba vua xưa kia tốt đức,
Nên cỏ thơm thảy được vun trồng.
Tiêu kia, quế nọ đều dùng,
Phải đâu lan huệ mới mong đoái hoài.
Bỉ Nghiêu Thuấn chi cảnh giới hề,
Ký tuân đạo nhi đắc lộ.
Hà Kiệt Trụ chi xương phi hề,
Phù duy tiệp kính dó quẫn bộ.
Kìa Nghiêu Thuấn sáng ngời ngôi cả,
Theo đường ngay nên đã thành công
Còn như Kiệt Trụ buông tuồng,
Băng theo lối tắt, khốn cùng bước đi.
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ vaên
Văn học Trung Quốc
- 17 -
Duy phù đảng nhân chi thâu lạc hề,
Lộ u muội dó hiểm ải.
Khởi dư thân chi đạn ương hề,
Khủng hoàng dư chi bại tích.
Bè lũ ấy mãi mê hoan lạc,
Khiến tối tăm vướng mắc lối đường;
Thân ta há sợ tai ương,
Chỉ e cơ nghiệp quân vương đổ nhào.
Hốt bôn tẩu dó tiên hậu hề,
Cập tiền vương chi chủng vũ.
Thuyên bất sát dư chi trung tình hề,
Phản tín sàm nhi tế nộ.
Nên vội vã trước sau chạy chọt,
Mong theo chân nối gót tiền vương;
Lòng trung chẳng được đoái thương,
Tin lời sàm tấu nổi cơn lôi đình.
Dư cố tri kiển kiển chi vi hoạn hề,
Nhẫn nhi bất năng xả dã.
Chỉ cửu thiên dó vi chính hề,
Phù duy Linh tu chi cố dã.
Vốn đã biết kiên trinh gây họa,
Song nỡ nào bỏ cả nước non !
Chỉ trời mà giải lòng son,
Linh tu là đấy, cỗi nguồn bi ai.
Viết hoàng hôn dó vi kỳ hề,
Khương trung đạo nhi cải lộ.
Sơ ký dữ dư thành ngôn hề,
Hậu hối độn nhi hữu tha.
Buổi hoàng hôn cùng ai hò hẹn,
Mới nửa đường cải biến ngờ đâu !
Nói điều thành thực ban đầu,
Cùng ta như thế mà sau đổi lời.
Dư ký bất nan phù ly biệt hề,
Thương Linh tu chi xác hóa.
Dư ký tư lan chi cửu uyển hề,
Hựu thụ huệ chi bách mẫu.
Ta há quản cùng người ly biệt,
Thương Linh tu chuyển biến bao lần;
Ruộng này chín khoảnh cấy lan,
Đồng xa trăm mẫu trồng hàng huệ kia.
Huề lưu di dữ yết xa hề,
Tạp đỗ hành dữ phương chỉ.
Ký chi diệp chi tuấn mậu hề,
Nguyện só thời hề ngô tương san.
Vun yết xa, lưu di khoe vẻ,
Xen màu tươi phương chỉ, đỗ hành,
Mong sao rậm rạp lá cành,
Đúng thời ta hái cho thành ước ao.
Tuy ủy tuyệt kỳ diệc hà thương hề,
Ai chúng phương chi vô uế.
Chúng giai cạnh tiến dó tham lam hề,
Bằng bất yếm hồ cầu sách.
Dầu héo rụng hại nào đáng kể,
Thương cỏ thơm hoang phế điêu tàn.
Tranh nhau chúng chẳng từ nan,
Mưu danh đoạt lợi tham tàn chẳng ngơi.
(Trần Trọng San dịch)
.........
Chúng bất khả hộ thuyết hề,
Thục vân sát dư chi trung tình?
Thế tịnh cử nhi hiếu bằng hề,
Phù hà quynh độc nhi bất dư thính?
.....
Tăng hư hi dư uất ấp hề,
Ai trẫm thì chi bất đáng.
Lãm nhự huệ dó yểm thế hề,
Triêm dư khâm chi lãng lãng.
Nói với chúng dễ hòng nói xiết,
Ai là người xét biết lòng ta?
Đời đều bè đảng gian tà,
Một mình ta nói nói mà ai nghe?
....
Nức nở khóc lo buồn đầy dạ,
Tủi cho thân sinh đã lỗi thời.
Gạt sầu bứt cánh huệ tươi,
o khăn lã chã lệ rơi ướt đầm.
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 18 -
....
Triêu phát nhẫn ư Thương Ngô hề,
Tịch dư chí hồ Huyền Phố.
Dục thiểu lưu thử linh tỏa hề,
Nhật hốt hốt kỳ tương mộ.
....
Sớm Thương Ngô chiều ra Huyền Phố,
Đền thần linh xa ngó cửa ngoài.
Chốn này muốn tạm nghỉ ngơi,
Ngô linh Hy Hòa nhó tiết hề,
Vọng Yêm tu nhi vật bách.
Lộ man man kỳ tu viễn hề,
Ngô tương thượng hạ nhi cầu sách.
….
Lộ tu viễn dó đa gian hề,
Đằng chúng xa sử kính đãi.
Lộ bất chu dó tả chuyển hề,
Chỉ Tây hải dó vi kỳ.
Hy Hòa hỡi nể tình ta với,
Lối non đoài chớ vội xông pha.
Quản bao nước thẳm non xa,
Để ta tìm kiếm cho ra bạn lòng.
Đồn dư xa kỳ thiên thặng hề,
Tề ngọc đại nhi tịnh trì.
Giá bát long chi uyển uyển hề,
Tái vân kỳ chi ủy đà.
Đều tay sắp giật dây cương ngọc,
Nghìn xe cùng một lúc ra đi.
Tám rồng bay lộn trước xe,
Cờ mây phất phới bóng che rợp trời.
c chí nhi nhó tiết hề,
Thần cao trì chi mạc mạc.
Tấu Cửu ca nhi vũ Thiều hề,
Liêu hạ nhật dó du lạc.
Hãy ngừng bước tạm nguôi dạ tủi,
Buông thần hồn lên cõi cao xa.
Múa Thiều hát khúc Cửu ca,
Tháng ngày thong thả liệu mà làm khuây.
Trắc thăng hoàng chi hách hý hề,
Hốt lâm nghễ phù cựu hương.
Bộc phu bi dư mã hoài hề,
Quyền cục cố nhi bất hàng.
Cất mình khoảng trời mây rộng rãi,
Chợt ngoảnh đầu trông lại quê hương
Ngựa buồn đầy tớ thảm thương,
Co ro nhớn nhác ngại đường chẳng đi.
Loạn viết : Dó hỹ tai !
Quốc vô nhân mạc ngã tri hề,
Hựu hà hoài hồ cố đô ?!
Ký mạc túc dữ vi mỹ chính hề,
Ngô tương tòng Bành Hàm chi sở cư.
Vãn rằng :
Thôi ! Thương tiếc làm chi cho cực!
Biết ta đâu một nước không người.
Chính lành làm sức với ai?
Bành Hàm đâu đó ta thời đi theo !
(Nguyễn Tạo dịch)
2. Hoài sa(trích)
Loạn viết:
Hạo hạo Nguyên Tương, phân lưu Mịch
hề!
Tu lộ u ế, đạo viễn hốt hề !
Hoài chất bảo tình, độc vô thất hề !
Bá Nhạc ký một, ký yên trình hề !
Chiều hôm bảng lảng mặt trời xuống nhanh.
Xa thăm thẳm cõi đường hiểm trở,
Dồn các xe giúp đỡ ta cùng.
Đường xa lối tả đi vòng,
Hẹn ngày tháng chỉ qua vùng bể Tây.
Lời kết rằng:
Mênh mông Nguyên Tương, sông Mịch La
chia nhánh a !
Đường xa man mác, ngất tạnh mù khơi a !
m tình giữ chất, đành phải mồ côi a !
Bá Nhạc đã mất, ngựa Ký ai coi a !
Nhân sinh có mệnh, đều đã định rồi a !
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
Dân sinh bẩm mệnh, các hữu sở thố hề !
Định tâm quảng chí, dư hà sở úy cụ hề !
Tăng thương viên ai, vónh thán vị hề !
Thế hỗn trọc mạc ngô tri, nhân tâm bất
khả vị hề !
Tri tử bất khả nhượng, nguyện vật ái hề !
Minh cáo quân tử, ngô tương dó vi loại hề!
- 19 Vững lòng rộng chí, ta chẳng sợ a !
Xót thương chẳng dứt, than thở mãi a !
Đời ngàu đục không biết ta, lòng người
khó lường a !
Biết chết không tránh được, nguyện không
tiếc đời a !
Nói rõ cùng quân tử, ta mong theo đòi a !
(Đào Duy Anh dịch)
3. Ngư phủ
Khuất Nguyên ký phóng, du ư giang đàm, hành ngâm trạch bạn, nhan sắc
tiều tụy, hình dung khô cảo. Ngư phủ kiến nhi vấn chi viết:”Tử phi Tam lư đại phu
dư? Hà cố chí ư tư?”.
Khuất Nguyên viết:”Thế nhân giai trọc, ngã độc thanh; chúng nhân giai túy,
ngã độc tỉnh, thị dó kiến phóng”.
Ngư phủ viết:”Thánh nhân bất ngưng trệ ư vật, nhi năng dữ thế thôi di. Thế
nhân giai trọc, hà bất quật kỳ nê nhi dương kỳ ba? Chúng nhân giai túy, hà bất bô
kỳ tao nhi suyết kỳ si? Hà cố thâm tư cao cử, tự linh phóng vi?”.
Khuất Nguyên viết:”Ngô văn chi: tân mộc giả, tất đàn quan; tân dục giả tất
chấn y; an năng dó thân chi sát sát, thụ vật chi môn môn giả hồ?! Ninh phó Tương
lưu, táng ư giang ngư chi phúc trung, hựu an năng dó hạo hạo chi bạch nhi mông thế
chi trần ai hồ?!
Ngư phủ hoãn nhó nhi tiếu, cổ duệ nhi khứ. Nãi ca viết :
“Thương Lang chi thủy thanh hề, khả dó trạc ngã anh;
Thương Lang chi thủy trọc hề, khả dó trạc ngã túc. “
Toại khứ, bất phục dữ ngôn.
Lão chài
Sau khi bị đày, Khuất Nguyên dạo chơi bên sông, vừa đi vừa ngâm bên bờ
đầm, vẻ mặt hốc hác, hình dáng gầy guộc. Lão chài trông thấy, hỏi rằng :
- “Ngài không phải là quan Tam lư đại phu đó ư? Vì sao đến nỗi này?”.
Khuất Nguyên đáp :
- “Người đời đều đục, riêng mình tôi trong; mọi người đều say, riêng mình tôi
tỉnh, vì thế bị đày”.
Lão chài nói :
- “Thánh nhân không ngưng đọng vì sự vật, mà có thể dời đổi theo đời. Người
đời đều đục, sao ông không khuấy bùn khua sóng? Mọi người đều say, sao ông không
ăn bã uống hèm? Tại sao lại nghó nhiều, ở cao, để bị đày đọa?”.
Khuất Nguyên nói :
- “Tôi nghe :Vừa gội xong, ắt phải phủi mũ ; vừa tắm xong, ắt phải giũ
áo.Há nên đem tấm thân trong trắng mà chịu sự nhơ bẩn của sự vật?! Thà rằng đến
sông Tương, chôn mình trong bụng cá, chớ đâu nên đem tấm lòng thanh khiết mà
chịu b bặm của cõi đời?!”
Lão chài mỉm cười, gõ vào mái chèo mà đi. Hát rằng :
“Nước sông Thương Lang trong hề, có thể lấy giặt giải mũ ta;
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 20 -
Nước sông Thương Lang đục hề, có thể lấy rửa chân ta”.
Rồi bỏ đi, không nói với nữa.
(Trần Trọng San dịch)
Nguyễn Du và Khuất Nguyên:
Qua Tương Đàm điếu
Tương Đàm điếu Tam Lư Đại phu
Quan Tam Lư Đại phu
Kỳ nhất
Hai nghìn năm vắng người sửa đức,
Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải,
Nơi đây còn thơm nức chỉ lan.
Thử địa do văn lan chỉ hương.
Ba năm đất trích phủ phàng,
Tông quốc tam niên bi phóng trục,
Sở Từ muôn thủa rỡ ràng văn chương.
Sở Từ vạn cổ thiện văn chương.
Sông cá rồng nắm xương khôn giữ,
Ngư long giang thượng vô tàn cốt,
Bãi hoa lồng trăm thứ cỏ thơm.
Đỗ nhược châu biên hữu chúng phương
Nơi nào gởi mối thương tâm!
Cực mục thương tâm hà xứ thị?
Lá thu gió rụng nẻo tầm Nguyên Tương.
Thu phong lạc mộc qúa Nguyên Tương
Kỳ nhị
Sở quốc oan hồn oán thử trung,
Yên ba nhất vọng diểu hà cùng.
Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ,
Hà hữu Ly Tao kế Quốc phong?
Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh,
Tứ phương hà xứ thác cô trung?
Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục,
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.
Phản chiêu hồn
Hồn hề ! hồn hề ! hồ bất qui ?
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên Dónh thành trung lai hà vi?
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa,
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Qùi.
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di !
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích vô sung phì.
Hồn hề ! hồn hề ! suất thử đạo
Tam Hoàng chi hậu phi kỳ thì,
Tảo liễm tinh thần phản Thái cực.
Thận vật tái phản linh nhân si,
Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan,
Đại địa xứ xứ giai Mịch La.
Ngư long bất thực sài hổ thực,
Nơi đây chôn hồn oan Sở quốc,
Mắt muôn trùng khói nước chơi vơi.
Ví ban hiến lệnh xuống đời,
Ly Tao đâu để nối lời Quốc phong?
Hồn độc tỉnh ai lòng tưởng tới,
Niềm cô trung biết gởi phương nao?
Đời nay chuộng lạ xiết bao,
Đeo lan giắt ngọc nhưng nào giống xưa
(Quách Tấn dịch)
Chống bài”Chiêu hồn”
Hồn hỡi hồn sao không về chứ?
Khắp phương trời không chỗ tựa nương
Lên trời xuống đất hết đường,
Mà thành Yên Dónh chớ mường để chân
Thành quách thế nhân dân khác hẵn,
Bụi bay trong nhơ bẩn áo người.
Vênh vang xe cộ lâu đài,
Đứng ngồi bàn tán sánh vai Cao, Qùi.
Họ ngoài mặt không thò nanh vuốt,
Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon.
Hồ Nam kia mấy trăm chòm,
Gầy còm xơ xác không còn thịt da !
Nếu hồn cứ thiết tha lối trước,
Sau Tam Hoàng không được hợp thời.
Chi bằng sớm liệu chầu trời,
Chớ về đây nữa mà người qû quang.
Đời sau họ Thượng quan hết thảy,
Khắp nơi nơi dòng chảy Mịch La.
Cá không rỉa, hùm cũng tha,
Hồn ơi ! hồn hỡi ! biết là làm sao?
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 21 -
Hồn hề ! hồn hề ! nại hồn hà !
Biện Giả
Bất thiệp Hồ Nam đạo,
An tri Tương thủy thâm?
Bất độc Hoài sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm?
Khuất Nguyên tâm, Tương giang thủy
Thiên thu vạn thu thanh kiến để.
Cổ kim an đắc đồng tâm nhân,
Giả sinh nhất phú đồ vi nhó.
Liệt nữ tòng lai bất nhị phu,
Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”?
Vị tất cổ nhân tri hữu ngã,
Nhãn trung Tương thủy không du du !
(Theo bản dịch cũ)
Bác lại Giả Nghị
Không đi qua Hồ Nam,
Làm sao biết được sông Tương sâu.
Không đọc bài phú”Hoài sa”,
Làm sao biết được lòng Khuất Nguyên.
Lòng Khuất Nguyên, nước sông Tương
Nghìn năm vạn năm trong suốt đáy.
Xưa nay kẻ đồng tâm được mấy người?
Bài phú Giả Nghị cũng chỉ là vô ích.
Liệt nữ xưa nay chỉ thờ một chồng,
Sao phải tất tả đi khắp chín châu?
Vị tất người xưa đã biết có ta?
Trước mắt, sông Tương cứ lặng lẽ trôi.
PHẦN ĐỌC THÊM
Truyện Khuất Nguyên
Khuất Nguyên tên là Bình, cùng họ với vua Sở, tả đồ của Sở Hoài vương. Ông
là người học rộng, chí hùng, am tường lẽ quốc gia trị loạn và rất giỏi về từ lệnh. Ở
chốn triều đình thì ông bàn tính việc nước với vua để ban hành các hiệu lệnh; ngoài
chốn triều đình thì ông tiếp đãi tân khách và ứng đối với chư hầu. Vua Sở rất tín
nhiệm ông.
Đồng hàng với ông có quan Thượng quan đại phu(tên là Cận Thượng) cũng
muốn được vua yêu và ngấm ngầm ganh tị, có ý muốn làm giảm giá tài năng ông.
Hoài vương giao cho ông công việc dự thảo các điều luật; có lần bản thảo viết chưa
xong hẳn thì Thượng quan đại phu trông thấy và muốn chiếm đoạt nhưng ông không
chịu. Vì chuyện đó mà Thượng quan đại phu gièm pha với vua Sở rằng:
-Bệ hạ sai Khuất Bình thảo hiến lệnh, điều đó chẳng ai là không biết. Mỗi khi
một sắc lệnh ban hành là Bình khoe công, bảo: “Không có ta thì không ai làm nổi”.
Vua giận, xa dần và bãi chức Khuất Bình. Khuất Bình đau lòng vì nỗi vua
thiếu sáng suốt, bị lời gièm pha làm lú lấp để cho thói gian tà làm hại việc công và
lời ngay thẳng không được dung nạp. Cho nên ông sinh lo buồn, viết nên tập Ly Tao,
nói lên niềm xót xa vì những việc bất như ý mà mình đã gặp phải.
Trời là khởi thủy của loài người, cha mẹ là nguồn gốc của thân ta; con người
gặp bước đường cùng thì nghó đến cội rễ, cho nên chả bao giờ khó nhọc, mệt mỏi đến
cực độ mà không kêu trời; chả bao giờ đau đớn thảm thương mà người ta không kêu
cha mẹ. Khuất Bình thẳng bước theo con đường ngay, một dạ trung thành, dùng hết
tài trí để thờ vua, thế mà vẫn bị người ta gièm pha ly gián, vận mệnh như vậy có thể
nói là gặp hồi cùng. Thành tín mà bị nghi ngờ, trung thực mà bị phỉ báng thì có thể
nào không hờn oán được không? Khuất Bình viết tập Ly Tao, ý hẳn là oán hận đời
mình không gặp được cơ hội tốt. Thơ Quốc Phong là thơ hiếu sắc mà không dâm
đãng, thơ Tiểu Nhã căm lời hủy báng mà không “nổi loạn”. Đến như thơ Ly Tao thì
có thể nói được rằng vừa có chất Quốc Phong vừa có chất Tiểu Nhã. Thoạt đầu nói
từ Đế Cốc, cuối cùng nói đến Tề Hoàn công, khoảng giữa thuật lại việc vua Thang
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 22 -
vua Vũ, với dụng ý chê trách sự tình đang xảy ra lúc bấy giờ và thuyết minh chỗ cao
rộng của đạo đức; duyên do trị loạn nhất nhất được trình bày một cách rốt ráo, có
mạch lạc đầu đuôi, không mảy may thiếu sót; văn chương thật giản ước, lời lẽ thật tế
nhị; chí khí ông cao khiết, phẩm hạnh ông thanh liêm. Văn thể tuy thuộc loại tiểu
phẩm, nhưng dụng ý cực kỳ lớn lao; những tỉ dụ đưa ra thì thiển cận thôi, nhưng ý
nghóa chưá đựng thì thật là sâu rộng. Chí khí ông cao khiết, cho nên ông nói nhiều
đến hoa thơm cỏ lạ, phẩm hạnh ông thanh liêm nên đến chết ông vẫn không hối tiếc;
xô vào bùn nhơ, ông tự gột trở nên trong sạch, khác nào thân ve vấy bẩn, thoát xác
khỏi vòng ô trọc, lâng lâng ngoài cõi trần ai, chẳng còn dính dấp với cái dơ dáy của
cuộc đời, trắng ngần, trong giá, đúng là “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Xét
từ chí hướng ông xét đi, vinh quang ông có thể giành phần sáng láng với ánh mặt
trăng, mặt trời.
Sau khi Khuất Bình bị bãi chức, nước Tần định đánh nước Tề. Nước Tề vốn
kết thân với nước Sở. Tần Huệ vương thấy vậy lấy làm lo, sai Trương Nghi giả vờ
phạm tội, sợ bị trừng phạt nên trốn khỏi nước Tần, đem nhiều lễ vật và của làm tin
chạy sang xin thờ nước Sở, nói với vua Sở:
-Nước Tần chúng tôi rất giận nước Tề, nhưng nước Tề lại rất thân thiện với
nước Sở của đại vương. Nếu như nước Sở tuyệt giao với nước Tề thì nước Tần xin
dâng đất Thương Ô rộng sáu trăm dặm.
Sở Hoài vương tham đất và tin lời Trương Nghi, bèn tuyệt giao với Tề và sai
sứ sang Tần nhận đất, Trương Nghi tráo trở nói:
-Nghi tôi nói với vua Sở là 6 dặm, chứ làm gì có chuyện 600 dặm bao giờ !
Sứ giả giận bỏ đi, về tâu lại với vua Sở. Sở Hoài vương cả giận, cất đại quân
đánh Tần. Tần xuất quân ứng chiến, phá tan quân Sở ở Đan Chiết, chém tám vạn
chiếc đầu, bắt sống tướng Sở là Khuất Cái và chiếm đất Hán Trung của Sở. Hoài
vương tức tốc dốc toàn quân kéo sâu vào đất Tần đánh nhau ở Lam Điền. Hay tin,
nước Ngụy liền đánh úp Sở, tiến tới đất Đặng; quân Sở sợ, phải rút từ đất Tần về. Tề
giận Sở tuyệt giao với mình nên bỏ mặc không cứu. Sở nguy to. Năm sau, Tần cắt đất
Hán Trung cho Sở để giảng hòa. Vua Sở nói:
-Không dám xin đất, chỉ xin được Trương Nghi là hả lòng.
Nghe tin ấy, Trương Nghi tâu với vua Tần:
-Một Trương Nghi mà đổi được cả đất Hán Trung thì xin cho Nghi tôi sang
Sở.
Đến Sở, Trương Nghi lại đem nhiều lễ vật hối lộ Cận Thượng và bày mưu cậy
sủng cơ của Hoài vương là Trịnh Tụ nói giúp. Rốt cuộc Hoài vương nghe lời Trịnh
Tụ mà thả Trương Nghi.
Lúc đó Khuất Bình đã bị bãi chức, không còn tham dự triều chính và bị cử đi
sứ Tề. Ở Tề về, ông can Hoài vương:
-Sao không giết Trương Nghi đi?
Hoài vương hối, sai đuổi theo bắt Trương Nghi lại nhưng không kịp. Sau đó,
các hầu quốc hợp lực đánh Sở, cả phá quân Sở và giết chết tướng Sở là Đường Muội.
Bấy giờ Tần Chiêu vương đã kết thân làm rể Sở. Chiêu vương mời Hoài vương sang
Tần hội kiến. Hoài vương muốn đi. Khuất Nguyên nói:
-Tần là nước độc ác như hùm sói, không tin được, chi bằng không đi thì hơn.
Con nhỏ của Hoài vương là Tử Lan thì lại khuyên nên đi, bảo:
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 23 -
-Sao lại làm cho vua Tần không vui?
Rốt cuộc, Hoài vương đi. Hoài vương vào Vũ Quan, Tần cho quân mai phục
chặn hậu, giữ lại không cho về, để buộc Sở phải cắt đất cho Tần. Hoài vương nổi
giận, không chịu, lẻn trốn sang nước Triệu. Triệu không cho ở, Hoài vương lại phải
quay về Tần và sau chết ở đấy, thây được đưa về chôn trên đất Sở.
Con trưởng của Hoài vương là Khoảnh Tương vương lên ngôi. Khoảnh Tương
vương cho em ruột là Tử Lan làm lệnh doãn. Dân Sở qui cho Tử Lan cái tội đã
khuyên Hoài vương sang Tần để rồi đến nỗi một đi không trở về.
Khuất Bình tuy giận Hoài vương, song khi bị phóng trục, lòng lẫn nhớ nước
Sở và luôn luôn nghó đến Hoài vương, lúc nào cũng muốn trở về, những mong một
ngày nào đó, vua sẽ tỉnh ngộ, thói đời sẽ đổi thay. Tấc lòng muốn cho vua hiền, nước
khá, tấc lòng ấy khắc khoải không thôi, cho nên trong một thiên sách, ba lần ông
nhắc nhở tới. Nhưng chung quy vẫn không tìm được cách thế, thành ra vẫn không thể
trở về, đủ hiểu thủy chung Hoài vương vẫn không tỉnh ngộ. Phàm là vua, bất luận là
trí hay ngu, hiền đức hay không hiền đức, có ai lại chẳng muốn tìm cho được bầy tôi
trung để bảo vệ mình, cất nhắc người hiền tài để giúp đỡ mình. Vậy mà những ông
vua làm cho quốc phá gia vong cứ kế tiếp nhau hết ông này đến ông khác, còn các
đấng thánh quân đưa được quốc gia đến chỗ thịnh trị thì hằng bao nhiêu đời không
gặp. Lý do chỉ là vì người vua cho là trung, thật ra lại chẳng trung; người vua cho là
hiền, thật ra lại chẳng hiền. Cũng vì không biết phân biệt thế nào là bầy tôi trung,
cho nên Hoài vương bên trong bị Trịnh Tụ mê hoặc, bên ngoài bị Trương Nghi lừa
dối, ruồng bỏ Khuất Bình mà tin dùng Thương quan đại phu và lệnh doãn Tử Lan,
để đến nỗi thua trận, hao đất, mất sáu quận, chính mình bỏ xác ở đất Tần, làm trò
cười cho thiên hạ. Ấy cái họa không biết dùng người là như thế đấy. Kinh Dịch nói :
“Giếng bẩn chẳng uống, lòng ta lo âu. Có thể múc nước(đổ đi cho sạch). Vua mà
sáng suốt(hiểu rõ lẽ ấy), toàn dân được nhờ”. Vua đã chẳng sáng suốt, thì còn mong
chờ nỗi gì?
Về sau, hay tin Khuất Bình không bằng lòng mình, lệnh doãn Tử Lan nổi
giận, xui Thượng quan đại phu nói xấu Khuất Bình với Khoảnh Tương vương.
Khoảnh Tương vương giận, đày Khuất Bình đi xa. Khuất Nguyên đi tới bên sông, xỏa
tóc, ngâm thơ, lang thang dọc theo các đầm nước, mặt mày tiều tụy, hình dung khô
đét. Một lão đánh cá gặp ông, hỏi:
-Ông không phải là quan Tam Lư đại phu đấy ư ? Cớ sao lại đến chốn này?
Khuất Nguyên nói:
-Đời đục, mình ta trong; đời say, mình ta tỉnh, cho nên ta bị ruồng bỏ.
Lão chài nói:
-Đã là bậc thánh nhân thì chẳng chịu để cho ngoại vật cản ngăn, ràng buộc
mà có thể cùng thời thế đổi thay. Đời đục ư ? sao ta chẳng theo dòng mà khuấy
sóng? Đời say ư ? sao ta chẳng húp rượu nhạt và nuốt hèm? Can chi mà khư khư giắt
viên ngọc cận, nắm viên ngọc du để cho người đời ruồng bỏ.
Khuất Nguyên nói:
-Tôi nghe nói: mới gội đầu thì ắt phải sửa lại mũ cho ngay ngắn; mới tắm rửa
thì ắt phải xốc lại áo cho chỉnh tề. Phàm là người, có ai lại chịu để cho tấm thân
trong sạch vấy bẩn giây nhơ ? Chẳng thà nhảy quách xuống sông mà gởi mình nơi
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn
Văn học Trung Quốc
- 24 -
bụng cá cho rồi, chứ sao lại đành tâm để cho tấm thân trắng phau phau kia bị đời
làm lem luốc?
Ông bèn làm bài phú “Hoài sa”, lời văn có đoạn như trên. Rồi ông ôm một
tảng đá, nhảy xuống sông Mịch La mà tự trầm.
Sau khi Khuất Nguyên mất, thì có bọn Tống Ngọc, Đường Lặc và Cảnh Sai
đều là những người giỏi từ chương và nổi tiếng về tài làm phú, nhưng vẫn là rập theo
khuôn mẫu của Khuất Nguyên. Tuy nhiên, không có một người nào còn dám thẳng
lời can gián nữa. Từ đó trở đi, nước Sở mất dần đất, và rốt cuộc mấy chục năm sau,
bị nước Tần kiêm tính.
Khuất Nguyên nhảy xuống sông Mịch La được hơn một trăm năm thì, dưới
triều Hán, có Giả sinh làm Thái phó Trường Sa, khi đi ngang qua Tương Thủy, có
ném xuống sông một bài văn điếu Khuất Nguyên.
Thái sử công nói:
Tôi đọc tập Ly Tao, đến mấy thiên Thiên vấn, Chiêu hồn, Ai Dónh…, thương
cho chí hướng Khuất Nguyên; trên đường đi Trường Sa, nhìn chỗ ông trầm mình, lần
nào cũng nhỏ lệ, tưởng tượng hình bóng ông. Đến khi đọc bài điếu văn của Giả sinh,
tôi lại rất lấy làm lạ rằng Khuất Nguyên tài năng như thế mà sao khi ông chu du các
nước, lại không một nước nào dùng ông, để đến nỗi thân lâm cảnh ấy ! Đọc xong bài
phú “Phục điểu”, trong đó tử sinh được đồng nhất, khứ tựu được xem khinh, ta lại
sửng sốt như vừa bừng tỉnh vậy.
(Giản Chi Nguyễn Hữu Văn dịch)
TS. Nguyễn Đình Hảo – Nguyễn Thanh Châu
Khoa Ngữ văn