Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận csxh thực thi chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh phông sa lỳ nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.91 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND Lào) đang chuyển sang
thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
với mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa đất nước ra khỏi xếp hạng là nước nghèo
trên thế giới.
Trong lịch sử xã hội loài người, nhất là từ khi có giai cấp đến nay, vấn đề
đói nghèo đã xuất hiện và tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia cũng như cả nhân loại. Cuộc chiến chống đói nghèo ln là
mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới, riêng ở Lào, cơng tác xóa
đói, giảm nghèo (XĐGN) luôn được Đảng và Nhà nước Lào ưu tiên hàng đầu và
được xác định là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Việc thực hiện XĐGN là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm, một chủ trương và quyết sách lớn của Đảng và
Nhà nước Lào. Bởi lẽ, trong chế độ xã hội mới con người luôn được đặt ở vị trí
trung tâm của sự phát triển, vì vậy, XĐGN từng bước nâng cao đời sống của nhân
dân là một trong những mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Phông Sa Lỳ là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc Lào, đây cũng là một tỉnh
nghèo điển hình, với hệ thống cơ sở hạ tầng còn rất yếu kém, nền kinh tế chủ yếu
là nông nghiệp tự cung tự cấp. Trong thời gian qua, bên cạnh những thành tích đã
đạt được, việc thực hiện chính sách XĐGN trên địa bàn tỉnh đã bộc lộ những vấn
đề mà việc xử lý và giải quyết nó khơng chỉ có ý nghĩa đối với các địa phương
khác trên cả nước.
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách XĐGN ở nước Cộng
hóa Dân chủ Nhân Dân Lào nói chung và trên địa bàn tỉnh Phơng Sa Lỳ nói riêng
là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, trong quá trình hội nhập và phát triển,
cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy tác giả chọn đề tài "Thực thi chính
sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phơng Sa Lỳ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào hiện nay" để làm tiểu luận.


2



NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA THỰC THI
CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO
1.1. Cơ sở lý luận của thực thi chính sách xóa đói giảm nghèo.
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo và xóa đói, giảm nghèo
Hiện nay, đói nghèo khơng cịn là vấn đề riêng của từng quốc gia, mà là vấn
đề có tính tồn cầu, bởi lẽ ở tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả những nước
giàu nhất về kinh tế như Mỹ, Đức, Nhật... người nghèo vẫn cịn và có lẽ khó có thể
hết người nghèo khi trong các xã hội chưa thể chấm dứt những rủi ro về kinh tế, xã
hội, mơi trường và sự bất bình đẳng trong phân phối của cải làm ra.
Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại: Nghèo
tuyện đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về ăn,
mặc, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục...).
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng tại một địa phương, ở một thời kỳ nhất định.
Những quan niệm về đói nghèo nêu trên, phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của
người nghèo là: Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu
dành cho con người; có mức sống thấp hơn mức sống cộng đồng; thiếu cơ hội lựa
chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Nghèo tuyệt đối chủ yếu phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư không
được thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của con người, trước hết là ăn, mặc, ở...;
nghèo tương đối lại phản ánh sự chênh lệnh về mức sống của một bộ phận dân cư
khi so sánh với mức sống trung bình của cộng đồng địa phương trong một thời kỳ
nhất định.
Khái niệm chính sách: Trước khi đưa ra khái niệm về chính sách XĐGN, ta

3



cần thống nhất cách hiểu về chính sách nói chung. Có nhiều khái niệm khác nhau
về chính sách, tuy nhiên trong khn khổ nghiên cứu này thì chính sách dùng để
chỉ ý định của chính quyền của các cấp. Chính sách bao gồm những dự định lập kế
hoạch, hướng dẫn, phát động, tài trợ hoặc thông qua các dư án, chương trình, hoặc
những hoạt động đang được thực hiện của chính phủ.

4


Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI, GIẢM
NGHÈO Ở TỈNH PHƠNG SA LỲ, CỘNG HỊA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO TỪ NĂM 2011 – 2015
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến việc thực thi chính
sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Phơng Sa Lỳ.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của tỉnh Phông Sa Lỳ tác động đến việc thực
thi chính sách xóa đói, giảm nghèo
Tỉnh Phông Sa Lỳ là một tỉnh miền núi cao, nằm ở phía Tây Bắc của nước
CHDCND Lào. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và giáp
thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu (Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(CHXHCN Việt Nam); phía Tây Bắc giáp tỉnh U Đơm Xay có 90 km; phía Nam
giáp tỉnh Lng Phạ Băng có 150 km. Là một tỉnh có vị trí quan trọng về an ninhquốc phòng với chiều dài biên giới 650 Km giáp với Việt Nam và Trung Quốc
(biên giới Lào-Việt Nam có 347 Km; biên giới Lào-Trung Quốc có 333 Km), nằm
ở giữa ba biên giới Lào-Việt Nam-Trung Quốc; tỉnh Phông Sa Lỳ có vị trí đặc biệt
quan trọng về kinh tế-chính trị-xã hội, an ninh-quốc phịng và đối ngoại. với vị trí
này, khiến Phơng Sa Lỳ có điều kiện giao lưu với các nước trong khu vực. Với vị
trí quan trọng gần các nước anh em như: Trung Quốc, Việt Nam… Đảng NDCM
Lào và nước CHDCND Lào chịu sự tác động mạnh mẽ của tình hình thế giới cũng
như khu vực cả những biến động tích cực và những biến động tiêu cực.

Tỉnh Phơng Sa Lỳ có diện tích 16.270 km2, tổng dân số là 178.000 người,
nữ 87.300 người, có 32.188 nhà ở, có 36.530 hộ gia đình (2015), mật độ dân số
khoảng 10,94 người/km2, với ba hệ tộc lớn như: Hệ tộc Lào Lùm chiếm 49,34%,
hệ tộc Lào Thâng chiếm 29,78% và hệ tộc Lào Sủng chiếm 20,88%. Tồn tỉnh có 7
huyện (huyện Phông Sa Lỳ, huyện Bun Nưa, huyện Bun Tay, huyện Nhọt U,
huyện Khoa, huyện May và huyện Sẳm Phăn). Trong đó huyện Phơng Sa Lỳ là
trung tâm chính trị, văn hóa của tỉnh. Với tổng số 529 bản và 63 cụm bản trong đó
có 93 làng văn hóa, có 124 làng vùng cao, vùng sâu vùng xa khó khăn phức tạp về
5


địa hình. Phơng Sa Lỳ là một tỉnh nhiều bộ tộc có 15 bộ tộc và kết cấu phức tạp,
một q trình lịch sử khơng đều, lại rất đa dạng về ngôn ngữ, tâm lý xã hội, phong
tục tập quán, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật. Song đồng bào các dân tộc Phơng Sa
Lỳ có truyền thống u nước đồn kết chống giặc ngoại xâm, chống áp bức bóc
lột, yêu lao động cần cù chịu khó. Truyền thống đó được Đảng bộ và nhân dân
Phơng Sa Lỳ gìn giữ, phát huy trong các thời kỳ, trong công cuộc đổi mới đất nước
với truyền thống tỉnh Phông Sa Lỳ anh hùng.
Địa hình tỉnh Phơng Sa Lỳ rất hiểm trở, địa bàn chia cắt phức tạp, nhiều núi
cao vực sâu, kết cấu hạ tầng thấp kém, dân cư phân bố không đều… gây trở ngại
lớn cho việc phát triển kinh tế, đi lại, học tập, chăm sóc sức khỏe của nhân dân rất
khó khăn trong cơng tác lãnh đạo, quản lý của cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương.
Tỉnh Phơng Sa Lỳ là một tỉnh miền Bắc có chịu khí hậu nhiệt đới, có hai
mùa rõ rệt mùa khơ thường kéo dài từ tháng mười một đến tháng tư, chịu sự ảnh
hưởng gió mùa rất lớn, tính trung bình nhiệt độ cao từ 25 độ đến 28 độ và thấp từ 1 độ đến 11 độ, lượng mưa trung bình (năm 2011-2015) 2,20 mm, với cấu trúc địa
hình của tự nhiên đã tạo ra cho tỉnh Phơng Sa Lỳ có ít sơng, suối phục vụ cho đời
sống dân cư và tưới tiêu đồng ruộng, chỉ có sơng Nặm U là một con sơng lớn nhất
hiện đang có cơng trình xây dựng nhà máy thủy điện Nặm U 5, Nặm U 6 và Năm
U 7 của tỉnh. Là một con sông cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp cho nhân

dân trong khu vực ven sơng là đầu mối giao thơng đường thủy có thể nối liền tỉnh
Lng Phạ Băng. Ngồi ra, chỉ có sông, suối nhỏ không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
và sản xuất nông nghiệp của dân cư trong địa bàn, mùa khô thường thiếu nước
nghiêm trọng. Về giao thông, đường giao thông nối liền làng, bản và các huyện
miền núi cao cịn nhất nhiều khó khăn nên ảnh hưởng lớn tới việc đi lại của nhân
dân, đặc biệt trong mùa mưa lũ lụt. Với đặc điểm tự nhiên như vậy, nhưng tỉnh
Phơng Sa Lỳ vẫn ln là vùng có tiềm năng về đất, rừng, tài nguyên, khoáng sản…
Tuy nhiên tiềm năng đó vẫn cịn ở dạng tiềm năng ẩn, chưa được quản lý, khai thác
và sử dụng có hiệu quả.
6


2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội của tỉnh Phơng Sa Lỳ có ảnh hưởng
tới việc thực thi chính sách xóa đói giảm nghèo
2.1.2.1. Các đặc điểm kinh tế-xã hội
Tỉnh Phơng Sa Lỳ là một tỉnh có nhiều đồi núi cao hiểm trở điều kiện tự
nhiên không thuận lợi nhân dân các bộ tộc sinh sống rải rác ở các vùng xa xơi hẻo
lánh, đường giao thơng khó khăn hiểm trở gây khó khăn trong việc quan hệ đi lại
giữa tỉnh với Trung ương, giữa tỉnh với tỉnh, giữa huyện với huyện và giữa bản với
bản; một số nhân dân các bộ tộc còn mù chữ. Nhưng dưới sự lãnh đạo của các ủy
Đảng, chính quyền với tình đồn kết nhất trí trong nội bộ Đảng và nhân dân các
dân tộc, chủ động tổ chức quán triệt đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước
đề ra, tỉnh đã xác định tổ chức thực hiện 4 chỉ tiêu lớn và đặc biệt chú trọng vào
việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển một cách liên tục. Trong
những năm qua kinh tế của tỉnh Phơng Sa Lỳ liên tục phát triển, trung bình tăng
khoảng 8,18%. Trong đó lâm-nơng nghiệp tăng thêm 6,19%, thủ cơng nghiệp tăng
thêm 9,66% và dịch vụ tăng thêm 9,98%. Cơ sở hạ tầng kinh tế có sự chuyển biến
phát triển theo hướng đa quy định tổng sản lượng lâm-nông nghiệp chiếm 45,65%,
thủ công nghiệp chiếm 25,26% và dịch vụ chiếm 28,25% của GDP (GDP đầu
người trung bình 798 USD/người/năm bằng 6.384.000 kíp).

Cơ cấu kinh tế đạt được như sau:
- Nơng-lâm nghiệp chiếm 45,65% của GDP
- Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 25,26% của GDP
- Dịch vụ chiếm 28,25% của GDP.
* Về nông-lâm nghiệp:
Nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo của tỉnh. Hiện nay tồn tỉnh có diện
tích trồng lúa là 6.642,87 ha, sản xuất thóc đạt 53.341,26 tấn, diện tích trồng cao
su, trà có tới 7.593,15 ha, sản xuất 11.769,30 tấn. Tổng sản lượng ước đạt
50.108,45 tấn, bình qn 307 kg/người/năm. Chăn ni cũng rất phát triển, hiện
nay tồn tỉnh có 50,086 con bị, trâu 43.878 con, dê 7.342 con, lợn 226.013 con,
tạo nguồn thu nhập cao cho nhân dân trong tỉnh Phơng Sa Lỳ và góp phần tích cực
7


trong sự tăng trưởng GDP và nguồn thu ngân sách Nhà nước chủ yếu cho tỉnh.
Tỉnh đã đầu tư xây dựng các cơng trình thủy lợi và kiến cố hóa kênh mương
để tập trung cho phát triển nông nghiệp.
Từ năm 2005 tỉnh Phông Sa Lỳ quan tâm đến việc trồng rừng, hiện nay tồn
tỉnh có 1.057.550 ha rừng, chiếm 65% diện tích cả tỉnh, trong đó rừng tự nhiên
15% diện tích, rừng trồng từ năm 2003-2008 có khoảng 7.989 ha, hàng năm cho
khai thác khoảng 228,277 m3 gỗ và sản lượng lâm sản lớn.
* Về công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp:
Tỉnh Phông Sa Lỳ đã xây dựng được 6 nhà máy chế biến gỗ có quy mơ nhỏ
và vừa. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từ năm 2005-2010 đạt
43,52 tỷ kíp, so với năm 2000-2005 tăng 32,54%.
Những năm qua tỉnh Phông Sa Lỳ đã đầu tư xây dựng mạng lưới điện từ
năm 2005-2010 với 7 chương trình vốn đầu tư ước đạt 1.329,49 triệu kíp, vốn đóng
góp của dân là 600 triệu kíp, so với năm 2000 tăng lên 5,4 lần. Đến năm 2015 đã
có 7 huyện, 537 làng, có 63 cụm bản 32.354 hộ gia đình, có dân số khoảng
172.690 người và đã có điện sử dụng chiếm 50,09%.

* Về thương mại và du lịch:
Do chính sách kinh tế thị trường của Đảng và Nhà nước đề ra, trong 5 năm
qua tỉnh đã phát triển mạng lưới thương mại đến vùng sâu vùng xa bằng tổ chức
mở hội chợ ở các trung tâm của các dân tộc sinh sống, tạo điều kiện cho họ được
trao đổi sản phẩm và hàng hóa với nhau ngày càng tăng lên và thúc đẩy cho họ sản
xuất ngày càng nhiều, củng cố chợ ở trong tỉnh và các huyện. Tổng số doanh
nghiệp lên đăng ký 1.529 doanh nghiệp trong năm 2010 tăng lên 785 doanh nghiệp
trong năm 2010 tổng giá tiền lưu thơng hàng hóa trong tỉnh 1.683,04tỷ kíp trong
năm 2006 tăng lên 1.683,04tỷ kíp trong năm 2015, so với kế hoạch thực hiện được
quá 64,94%, tổng giá lưu thông hàng hóa nước ngồi là 53.663,39 triệu kíp trong
năm 2006 tăng lên 90.131,32 triệu kíp trong năm 2010, so với kế hoạch thực hiện
được quá 22,93%, trong đó đã chú ý quản lý, kiểm soát, xét lại giá một số loại
hàng hóa mà xã hội tiêu dùng nhiều nhất.
8


Mạng lưới thông tin liên lạc của tỉnh Phông Sa Lỳ đến nay nhìn chung vẫn
cịn nhiều yếu kém. Mạng lưới này tuy đã đảm bảo thông suốt thông tin liên lạc
cho việc lưu thơng hàng hóa, đáp ứng được nhu cầu của an ninh-quốc phòng,
nhưng vẫn còn rất lạc hậu. Tồn tỉnh có ba bưu cục, do vậy cịn rất nhiều làng chưa
có sóng điện thoại, có thể nói hệ thống thông tin liên lạc cần được mở rộng nhằm
phục vụ ngày càng tốt hơn nữa cho sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
Dịch vụ du lịch được củng cố và phát triển: Hệ thống danh lam thắng cảnh
được tu bổ và sửa chữa vào sử dụng là rất lớn, hệ thống nhà nghỉ, khách sạn phục
vụ cho hoạt động du lịch cũng được xây dựng rất nhiều. Vấn đề du lịch được hoạch
định và quản lý một cách có hiệu quả hàng năm thu một nguồn thu lớn đóng góp
cho ngân sách Nhà nước một nguồn thuế cao. Trong thời gian qua số lượng khách
du lịch vào tỉnh Phông Sa Lỳ ngày càng nhiều.
Tổng sản phẩm quốc nội năm 2010 GDP có khoảng 1.080.31 tỷ, với số dân
là 172,690 người, GDP bình quân đầu người 782 USD/người/năm bằng 6.178.582

(kíp), nói chung đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải
thiện hơn những năm trước, do thực hiện chủ trương chuyển nền kinh tế tự nhiên
sang nền kinh tế hàng hóa, lấy hộ gia đình nơng dân làm trọng điểm.
Đến năm 2010 diện tích nương rẫy giảm xuống từ 7.700 ha trong năm 2006
còn 4.800 ha trong năm 2010, các hộ gia đình làm nương giảm xuống từ 11.581 hộ
gia đình cịn 6.464 hộ gia đình. Do giải quyết việc làm theo chính sách 6 lối ra của
tỉnh đó là: làm ruộng, chăn ni, trồng trọt cây lương thực-trồng cây công nghiệp,
du lịch, thương mại biên giới và dịch vụ.
Nói chung tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh Phơng Sa Lỳ vẫn cịn chậm, cơ
sở sản xuất cịn thơ sơ lạc hậu, việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ mới cịn là bước
phát triển ban đầu. Nhưng tỉnh Phông Sa Lỳ là một địa bàn được quan tâm đầu tư,
phát triển về cơ cấu hạ tầng và các nhà máy xí nghiệp với quy mô nhỏ và vừa, sản
xuất bằng công nghệ hiện đại. Đây cũng là địa bàn nhiều cơ sở liên doanh liên kết
với nước ngồi. Do vậy, cơng tác quản lý điều hành phải đổi mới để bảo đảm nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn, tiếp thu được công nghệ hiện đại, đảm bảo cho các công
9


ty nước ngoài tăng cường đầu tư và hoạt động hiệu quả.
Tuy đã rất nhiều cố gắng trong sản xuất, phát triển kinh tế nhưng kinh tế vẫn
còn tăng trưởng chậm, thu ngân sách địa phương chỉ đủ trang trại 20% các khoản
chi, còn lại 80% ngân sách do Trung ương trợ cấp. Việc thu ngân sách ở các nản
vùng cao, biên giới không thực hiện được. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, tình
trạng phân hóa giàu-nghèo xu hướng ngày càng tăng; hiện vẫn còn 169 bản bằng
31,59% của dân số bản tồn tỉnh trong đó có 6.040 hộ gia đình bằng 15,75% của
dân số bản tồn tỉnh, tỷ lệ tăng dân số cao, phong tục tập quán của các đồng bào
các dân tộc ở nhiều vùng còn rất lạc hậu, các tệ nạn xã hội như: nghiện hút, nghiện
ma túy, mê tín dị đoan vẫn cịn khá nặng.
* Đặc điểm về văn hóa-xã hội:
Tỉnh Phơng Sa Lỳ là một tỉnh căn cứ địa cách mạng, là hai tỉnh tập kết

(Phông Sa Lỳ-Sầm Nưa 1975). Do vậy, giặc ngoại xâm ln tìm mọi cách thực
hiện âm mưu thủ đoạn hỏng phá hoại tỉnh Phông Sa Lỳ. Nhưng với tinh thần yêu
nước và lòng dũng cảm của nhân dân các dân tộc tỉnh Phơng Sa Lỳ đã đóng góp
một phần quan trọng trong phong trào đấu tranh của cả nước và giành thắng lợi
hoàn toàn vào năm 1975, nhân dân Lào cũng như nhân dân các dân tộc tỉnh Phông
Sa Lỳ đã bước vào thời kỳ mới của cách mạng-thời kỳ xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân theo hướng đi lên CNXH.
Là một tỉnh nhiều bộ tộc cùng sinh sống (15 bộ tộc), tiếng nói, phong tục tập
quán khác nhau, nhiều đặc điểm về bản sắc dân ca như: Khắp Phu Nỏi, Khắp Tơm
của dân tộc Kưm Mụ, Khắp lử, Khắp Tày Đăm. Đặc biệt là nhân dân các dân tộc
tỉnh Phơng Sa Lỳ cùng chung sống rất hịa thuận và họ cịn bảo tồn được truyền
thống văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc mình như: ngày Tết, ngày
Hội là một dịp tốt để bà con các dân tộc đi lại thăm viếng lẫn nhau.
* Về hệ thống giáo dục-y tế:
Giáo dục được coi là một quốc sách hàng đầu của quốc gia cho nên tỉnh rất
chú trọng và quan tâm chăm lo tuyên truyền, khuyến khích nhân dân và đầu tư để
đẩy mạnh giáo dục, phát triển trường học các cấp đến các vùng nông thôn, vùng
10


sâu, vùng xa. Hiện nay tồn tỉnh có 516 trường học phổ thơng, có 1.308 lớp học,
hiện có 1.655 giáo viên, nữ 983 người. Số giảng viên có trình độ đại học và sau đại
học ngày càng nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Toàn tỉnh có
70 trường mầm non và có 1.474 trẻ em tới trường, tiểu học 521, có 8 trường phổ
thơng, tồn tỉnh có 3.879 học sinh. Theo thống kê có thể xóa mù chữ chiếm 69,2%.
-

Y tế trên địa bàn tỉnh có bệnh viện lớn của tỉnh, tồn tỉnh có 8 bệnh viện,

trong đó có 1 bệnh viện cấp tỉnh, có 7 bệnh viện cấp huyện, có 22 trạm y tế, có 242

cán bộ y tế. Hiện nay đời sống nhân dân đã từng bước cải thiện, như đã sử dụng
giống mới, phun nước lên 69,6%; sử dụng nhà vệ sinh 85,7%, tỷ lệ người chết
3/1000, tỷ lệ sinh 7/1000, tỷ lệ của trẻ em dưới một tuổi là 82/1000 người, tỷ lệ
chết trẻ em dưới 5 tuổi là 101/1000 người, tỷ lệ tử vong là 468/100,000 người và
tuổi thọ bình quân là 65 tuổi. Với mạng lưới hiệu thuốc bán lẻ các thơn xóm vùng
sâu, vùng xa tạo điều kiện cho nhân dân các dân tộc được khám, chữa bệnh nhiều
hơn, sức khỏe của bà mẹ, người mang thai và trẻ em được chăm sóc tốt hơn. Nhờ
đó, tỷ lệ tử vong do sinh đẻ của bà mẹ và trẻ em sơ sinh giảm xuống rõ rệt. Hiện
nay hơn 70% dân số toàn tỉnh đã nhận được dịch vụ y tế ở mức độ khác nhau.
* Về an ninh-quốc phịng:
Tỉnh Phơng Sa Lỳ là một tỉnh căn cứ địa cách mạng và đường biên giới giáp
liền với hai nước bạn chiến lược Việt Nam và Trung Quốc, nên tình hình an ninhquốc phòng vẫn còn được giữ vững và tương đối ổn định. Song để thực hiện đường
lối an ninh-quốc phòng toàn dân, toàn diện với việc phát huy truyền thống và bài
học kinh nghiệm chiến tranh nhân dân vào tình hình mới cho phù hợp và tích cực
hơn, làm cho mọi người, mọi gia đình cùng tham gia làm nhiệm vụ an ninh, trật tự
của làng bản. Thực hiện tinh thần chỉ đạo đó, tỉnh đã tăng cường lãnh đạo một cách
triệt để, trực tiếp và toàn diện của Đảng đối với lực lượng vũ trang, phát huy bản
chất và truyền thống anh dũng của lực lượng vũ ttrang cách mạng; phối hợp chặt
chẽ và kịp thời với hai lực lượng của hai nước bạn láng giềng để cùng nhau giải
quyết các hiện tượng xảy ra ở dọc vùng biên giới, cùng nhau bảo vệ mốc biên giới
và xây dựng đường biên giới thành biên giới hịa bình và hữu nghị.
11


Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, tỉnh Phơng Sa Lỳ có những
phát triển so với trước đây cả về kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, đời sống
của cán bộ, cơng chức cũng như nhân dân ngày càng được cải thiện rõ nét, bộ mặt
địa phương có những chuyển biến rõ rệt. Bên cạnh những thuận lợi do nền kinh tế
thị trường ngày càng mở rộng thì xuất hiện những khó khăn thách thức mới vì vậy
tồn Đảng và nhân dân của tỉnh phải đồng lịng đồng sức để cùng nhau góp phần

làm cho tỉnh ngày càng vững mạnh.
Mặc dù ở tỉnh Phông Sa Lỳ cịn những khó khăn về địa hình, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Song tỉnh cũng có những thế mạnh ảnh hưởng đến việc thực thi chính
sách. Đó là cán bộ, công chức (CBCC) và nhân dân các dân tộc trong tỉnh có
truyền thống yêu quê hương, đất nước, chịu khó, chịu khổ, có tinh thần đồn kết
một lịng đi theo Đảng và Nhà nước, chấp hành đầy đủ các chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước góp phần vào việc giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia
của Tổ quốc. Từ khi Đảng và Nhà nước có chính sách đổi mới tồn diện cấp ủy
Đảng, chính quyền đã triển khai tổ chức thực hiện và thu được nhiều kết quả đáng
khích lệ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
2.1.2.2. Khoa học, cơng nghệ, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
- Khoa học công nghệ: Tỉnh đã quan tâm đầu tư cho phát triển khoa học và
công nghệ, tập trung phát triển nguồn nhân lực. Quan tâm triển khai nghiên cứu,
ứng dụng các đề tài khoa học, nhất là công nghệ sinh học, vật liệu, năng lượng,
thông tin, các dự án phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. Triển khai các
mơ hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất thông qua các mô hình
khuyến nơng, khuyến lâm, khuyến nơng đến thúc đẩy sản xuất hàng hóa có hiệu
quả kinh tế cao. Hồn thành cung cấp và lắp đặt hệ thống mạng Internet cho 15
ngành, hồn thành xây dựng cột sóng Wimax và dây cáp.
- Quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường:
Đã kết hợp với các ban, ngành liên quan làm nhiệm vụ bảo vệ và quản lý tài
nguyên thiên nhiên như: bảo vệ khu vực rừng để bảo vệ nguồn nước sạch, động vật
ở dưới nước, thú rừng, tạo điều kiện cho chúng sinh sôi, nảy nở và được bảo tồn.
12


Trên địa bàn tỉnh đã thực hiện 117 dự án nghiên cứu thông tin về môi trường; số
dự án theo dõi và kiểm tra đánh giá kết quả ảnh hưởng với môi trường là 53 dự án.
Tỉnh cũng đã cấp 55 giấy phép về môi trường cho các doanh nhân.
Về quản lý đất đai, tỉnh đã cấp được 563 sổ đỏ, đăng ký cam kết và chuyển

chủ sở hữu cho 861 trường hợp, tạo nguồn thu ngân sách là 283,7 triệu kíp, đăng
ký cấp 75 sổ đỏ về đất đai tại 23 bản tại trung tâm tỉnh lỵ, với tổng số diện tích
196.745 m2. Hồn thiện vẽ bản đồ hành chính cho một số huyện cịn lại.
2.1.3. Thực trạng đói nghèo ở tỉnh Phơng Sa Lỳ hiện nay
Có thể nói, Phơng Sa Lỳ là một tỉnh nghèo và có nhiều khó khăn nhất so với
tỉnh nghèo ở CHDCND Lào, quy mơ nền kinh tế cịn nhỏ bé, cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội cịn nhiều hạn chế, trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân cịn nhiều khó
khăn, tỷ lệ nghèo đói vẫn cịn cao. Hệ thống số liệu thu thập của Tỉnh chưa đầy đủ,
nhưng đã phản ánh cơ bản tình trạng đói nghèo ở Phơng Sa Lỳ.
Qua quá trình XĐGN trong thời gian qua cho thấy, tỉnh đã có nhiều tiến bộ
và từng bước giảm được đói nghèo tỷ lệ hộ đói nghèo là 9.870 năm 2011 giảm
xuống cịn 7.181 hộ gia đình bằng 27,02%, năm 2012. Cơ sở hạ tầng điện, đường,
trường, trạm về cơ bản được cải thiện [6].
Nhìn lại thực tiễn, tỉnh có nền kinh tế xuất phát quá thấp, một bộ phận nhân
dân, nhất là nhân dân các dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa vẫn đang sống trong
cảnh đói nghèo, số hộ nghèo cịn cao. Thu nhập bình quân đầu người/tháng giữa
các dân tộc, giữa các vùng trong tỉnh có sự chênh lệch lớn. Số hộ đói nghèo tập
trung chủ yếu ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Tình trạng đói
nghèo, thiếu việc làm, sự thiếu thốn về đời sống văn hóa, tinh thần cùng với các tệ
nạn xã hội chưa được ngăn chặn ảnh hưởng rất lớn đến chính sách, đảm bảo cơng
bằng xã hội và an ninh chính trị trên địa bàn tỉnh.
Hiện nay Phông Sa Lỳ vẫn là tỉnh đặc biệt khó khăn vì quy mơ kinh tế nhỏ
bé, sản xuất cịn mang tính tự nhiên, sản xuất hàng hóa chậm phát triển, tỷ lệ đói
nghèo vẫn cịn cao. Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục đào tạo và chăm sóc sức khỏe
nhân dân cịn nghèo nàn, chất lượng thấp, đội ngũ giáo viên, cán bộ y tế công tác ở
13


vùng sâu, vùng xa còn thiếu chưa đáp ứng được chất lượng. Một số tệ nạn xã hội
còn diễn biến phức tạp. Đời sống của đồng bào dân tộc ít người cịn rất nhiều khó

khăn, thiếu thốn.
* Ngun nhân đói nghèo ở tỉnh Phông Sa Lỳ:
Như chúng ta đã biết, đói nghèo khơng chỉ ảnh hưởng đến đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân mà cịn có ngun nhân gây ra những vấn đề xã hội phức
tạp. Đói nghèo là trái với bản chất của chế độ XHCN; trái với mục tiêu xây dựng
đất nước của Đảng và nhân dân các bộ tộc Lào. Chính vì vậy, để đảm bảo cho sự
phát triển phồn thịnh và bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và của mỗi địa
phương, chúng ta phải quan tâm giải quyết vấn đề đói nghèo. Để thực hiện điều đó
địi hỏi trước hết phải tìm ra ngun nhân dẫn đến đói nghèo ở tỉnh Phơng Sa Lỳ
có hai nhóm nguyên nhân chủ yếu như sau:
+ Về nguyên nhân chủ quan:
Nói đến nhóm nguyên nhân chủ quan chính là nói đến bản thân của người
nghèo như thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm làm ăn, thiếu lao động, đơng con, ốm đau,
ăn tiêu lãng phí, nghiện hút,… Đây là ngun nhân cơ bản nhất có tính quyết định
đến sự hình thành đói nghèo. Nhóm ngun nhân chủ quan bao gồm các nguyên
nhân sau:
- Thiếu vốn sản xuất: Như chúng ta đã biết, vốn là một điều kiện vô cùng
quan trọng để đầu tư sản xuất tạo thu nhập. Nếu khơng có vốn hoặc thiếu vốn thì
khơng thể tiến hành sản xuất, hoặc có sản xuất thì kết quả và hậu quả khơng cao.
Vì lẽ đó một số người nghèo khi cần vốn phải vay tư nhân với lãi suất cao (2025%/tháng). Có tình trạng nhiều nơng dân phải bán nơng sản "non" cho tư thương.
Sở dĩ có tình trạng đó, vì họ cho rằng vay ngân hàng thì phải làm thủ tục rườm rà,
và lại vay tư nhân thì kịp thời, đảm bảo tính thời vụ. Hậu quả của việc vay nặng lãi
này đã làm cho họ không thốt được vịng luẩn quẩn của sự nghèo đói.
- Thiếu đất và công cụ để sản xuất: Cũng như cả nước, hầu hết nông dân
tỉnh Phông Sa Lỳ số hộ có ruộng và cơng cụ để sản xuất hàng năm chỉ chiếm 70%
cịn 30% thì đi phá rừng trồng lúa nương với năng suất thấp, thiếu ăn. Trong số hộ
14


có ruộng làm bình qn trên 1-2 ha/hộ, trong đó chủ yếu chỉ sản xuất lúa mùa,

năng suất thấp. thiếu nước vì nhờ nước mưa, mùa khơ chỉ sản xuất được 30% của
diện tích lúa mùa, do thủy lợi chưa đáp ứng được yêu cầu tưới nước, nhiều hộ túng
thiếu, nợ nần phải cần hoặc bán đất và phải đi làm thuê.
- Thiếu kiến thức và kinh nghiệm làm ăn: Trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, hộ gia đình đã trở thành đơn vị tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nhờ đó
nhiều hộ đã vươn lên làm giàu bằng chính sức lực và trí tuệ của mình. Bên cạnh đó
khơng ít hộ đã bộc lộ nhược điểm do thiếu kiến thức và kinh nghiệm sản xuất.
- Do đông con thiếu lao động: Đây là nguyên nhân nghèo đói của những gia
đình đơng con, số con cịn nhỏ nhiều nên ln ở trong trạng thái "người làm thì ít,
người ăn thì nhiều". Do thiếu lao động hay ít lao động, nguồn thu nhập không đáp
ứng được những nhu cầu hàng ngày của số đơng người trong gia đình. Bên cạnh đó
nhiều gia đình có lao động nam, lao động trẻ, khẻo
+ Về nguyên nhân khách quan:
Ngoài các nguyên nhân chủ quan nêu trên, nghèo đói ở các huyện vùng sâu
vùng xa còn do các nguyên nhân khách quan sau đây:
- Do điều kiện tự nhiên, địa hình khí hậu thay đổi thường xảy ra thiên tai
như: mưa nhiều, lũ lụt, hạn hán, bão lốc, mưa đá, sâu bệnh, môi trường cạn kiện
khó kiếm sống… gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của
nhân dân.
- Do diện tích tự nhiên của tỉnh, huyện, bản, đồi núi chiếm 90%, cao nguyên
chiếm 8% và đồng bằng chiếm 2%. Mật độ dân số thấp, khoảng cách từ bản đến
huyện, từ huyện đến tỉnh có một số bản quá xa.
- Do không theo kịp được sự phát triển của kinh tế thị trường. Trước khi nền
kinh tế thị trường xâm nhập vào kinh tế và đời sống của các hộ đồng bào dân tộc ít
người ở tỉnh Phơng Sa Lỳ, sản xuất phát triển theo hướng tự cung tự cấp là chủ
yếu, chưa hề biết đến sản xuất hàng hóa, trao đổi thị trường.
- Do trình độ phát triển kinh tế-xã hội. Về tổng thể Phông Sa Lỳ là một trong
những tỉnh nghèo nhất cả nước với kinh tế nơng nghiệp là chủ yếu nhưng trình độ
15



sản xuất rất lạc hậu, độc canh cây lúa. Các ngành nghề khác hầu như không phát
triển hoặc phát triển rất yếu ớt. Thu nhập bình quân đầu người thấp, với một trình
độ phát triển kinh tế thấp như vậy thì việc dẫn đến tỷ lệ nghèo đói ở tỉnh Phơng Sa
Lỳ cũng là một tất yếu.
- Do trình độ dân trí thấp, thiếu thơng tin để tiếp cận khoa học cơng nghệ,
khơng có kinh nghiệm làm ăn, khơng có năng lực hiểu biết về thị trường, khơng
biết tính tốn lỗ lãi… phần lớn, chiếm khoảng 90% đối với người nghèo được vay
vốn tín dụng, vì thiếu kiến thức kinh nghiệm sản xuất và kinh doanh. Cho nên, sử
dụng vốn tín dụng kém hiệu quả, khơng có khả năng giải quyết những vấn đề mình
vấp phải.
- Do thiếu cơng ăn việc làm, hoặc làm những cơng việc có thu nhập thấp, tỷ
lệ người phụ thuộc cao phần lớn là người già sức khỏe yếu và trẻ em (khơng có kế
hoạch gia đình), tỷ lệ sinh đẻ nhiều và tỷ lệ chết cũng nhiều, ít người làm, đơng
người ăn và tiêu dùng, do neo đơn, thương binh, gia đình liệt sỹ, rủi ro ốm đau…
- Do một số DTTS còn nặng nề về mê tín dị đoan và phong tục tập quán rất
lạc hậu, như ốm đau phải mổ trâu, bò, lợn hay gà cúng, khi người ốm đau ngày
càng nặng lên mới đưa đi bệnh viện.
- Tệ nạn tham nhũng và quyền dân chủ của nhân dân bị vi phạm thể hiện
dưới rất nhiều hình thức khác nhau như: một số cán bộ có chức có quyền biến tiền
bạc, của cải, tài sản của Nhà nước, sự hỗ trợ của tổ chức quốc tế… thành của riêng
mình; các khoản tài chính được sử dụng khơng minh bạch, tham nhũng qua việc
chi tiêu công trong việc phát triển xã hội và phúc lợi xã hội, qua việc quản lý và sử
dụng đất đai, qua việc khai thác và lưu hành buôn bán tài sản tài nguyên thiên
nhiên, qua việc sắp xếp học sinh đi đào tạo ngành nghề, bố trí việc làm.
2.2. Qúa trình thực thi chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phông Sa
Lỳ.
2.2.1. Lập kế hoạch thực hiện
Để xây dựng kế hoạch thực thi chính sách XĐGN, thường lập vào tháng 9
hàng năm, Ban chỉ đạo XĐGN Tỉnh có cơng văn chỉ đạo Văn phịng phát triển

16


nông thôn và XĐGN tỉnh và các huyện, ban hành kế hoạch điều tra, rà soát hộ
nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn huyện để đánh giá lại hiệu quả đầu tư của các
chính sách giảm nghèo trên địa bàn và báo cáo kết quả giảm nghèo của năm đó.
Đây cũng là cơ sở để tỉnh tiếp tục triển khai các chính sách đầu tư XĐGN cho năm
sau.
Dựa vào kế hoạch điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo, Văn phịng phát
triển nơng thơn và XĐGN tỉnh và huyện sẽ tổ chức tập huấn cho các điều tra viên
về quy trình cách thức điều tra. Sau khi được tập huấn các điều tra viên cấp huyện
tiến hành điều tra tại các bản, làng. Khi điều tra kết thúc, Văn phịng phát triển
nơng thơn và XĐGN huyện tiến hành tổng hợp kết quả điều tra hộ nghèo và hộ cận
nghèo và cơng bố danh sách tại Văn phịng phát triển nông thôn và XĐGN huyện
để nhân dân biết và báo cáo kết quả về Văn phịng phát triển nơng thơn và XĐGN
tỉnh; trình Phó chủ tịch tỉnh phê duyệt, xây dựng kế hoạch XĐGN cho năm sau.
Văn phòng phát triển nơng thơn và XĐGN xây dựng kế hoạch (chương
trình) XĐGN hàng năm, hoặc theo giai đoạn 5 năm dựa trên kết quả điều tra, rà
soát hộ nghèo năm trước của các huyện. Xây dựng lộ trình XĐGN, đăng ký hộ
thốt nghèo cho năm sau để tập trung mọi nguồn lực của nhà nước, xã hội đầu tư
để thoát nghèo bền vững. Kế hoạch XĐGN hàng năm được xây dựng chặt chẽ, cụ
thể đến từng huyện. Sau khi thống nhất với Ban chỉ đạo XĐGN và Văn phịng phát
triển nơng thơn tỉnh, kế hoạch XĐGN hàng năm sẽ được ban hành và triển khai
thực hiện tới các huyện trong tỉnh.
2.2.3. Tổ chức thực hiện chính sách
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về XĐGN, từ năm
2006 tỉnh Phơng Sa Lỳ bắt đầu thực hiện chương trình XĐGN. Trong những năm
qua, Lào đã xây dựng một số chính sách XĐGN như: Nghị định hướng dẫn số
10/TTg, ngày 25/06/2001 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt chương trình mục
tiêu quốc gia XĐGN; Nghị định số 09/NQ-CP, ngày 08/06/2004 của Chính phủ về

định hướng xây dựng bản và cụm bản phát triển; năm 2015 đến năm 2020
Để giúp đỡ người nghèo có điều kiện sản xuất và dịch vụ,phát triển kinh tế
17


gia đình. Các cấp, các ngành cùng với các cơ quan đơn vị của tỉnh rất quan tâm về
việc hỗ trợ vốn, về khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm làm việc, làm ăn, đất đai .v.v...
* Hỗ trợ vốn cho người nghèo
Vốn vay cho hộ nghèo được huy động và đóng góp từ nhiều nguồn vốn, bao
gồm ngân sách nhà nước của Trung ương lẫn địa phương, các tổ chức tín dụng, các
cộng đồng và nguồn vốn cho vay giúp đỡ nhau do hội phụ nữ, các đoàn viên và
quỹ của làng (bản) trong tỉnh tự huy động.
* Đầu tư cho y tế và giáo dục vùng nghèo
Về việc chăm sóc sức khỏe: Mặc dù kinh phí hàng năm có nhiều khó khăn
nhưng Sở y tế tỉnh cũng đã xét miễn giảm viện phí cho người dân nghèo có hồn
cảnh đặc biệt khó khăn. Năm 2009 - 2010, tỉnh Phơng Sa Lỳ và các ngành liên
quan đã hỗ trợ khám chữa bệnh tật cho người nghèo và nhân dân vùng sâu, vùng
xa với khoản chi phí là 2.685.329.600 kíp
* Hỗ trợ đào tạo nghề, giới thiệu việc làm
Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho hộ nghèo có điều kiện làm việc, làm
cho hộ nghèo có cuộc sống mới, góp phần XĐGN. Giai đoạn 2012 - 2013 Tỉnh
thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề và giới thiệu việc làm với tổng kinh phí là
357.073.837 kíp.
* Phát triển kết cấu hạ tầng các vùng nghèo
Tỉnh Phơng Sa Lỳ tích cực đầu tư phát triển nơng thơn và giảm nghèo.
Trong đó tỉnh đã nâng cấp các mạng lưới, đường giao thông từ tỉnh đến các huyện
đến nông thôn vùng sâu, vùng xa, xây dựng nâng cấp hệ thống cầu đường, giao
thông liên xã, xây dựng trường học, trạm xá, chợ, hệ thống thủy lợi, thông tin liên
lạc, điện cơ, di dân từ vùng cao xuống đồng bằng và tập hợp bản (làng) nhỏ trở
thành bản lớn.

Về giao thơng:
Đến nay tồn tỉnh có 1078,89 km đường các loại. Trong đó, đường quốc lộ
dài 169,50 km, đường tỉnh dài 264,90 km, đường huyện 135 km và 418,32 km
đường nông thôn. Đường trải nhựa đạt 178,04 km; đường mới xây dựng (đất đỏ)
18


464,26 km. Tồn tỉnh có 32 cầu, trong đó cầu bê tông lớn và nhỏ 22 tăng lên 5 lần.
Hiện nay, đã có 265 bản có đường ơ tơ đi được 2 mùa chiếm 50,09% của số bản
toàn tỉnh.
Về điện: Tất cả các huyện điều có điện dùng. Trong đó, 223 bản đã có điện
sử dụng chiếm 88 % số bản trong tỉnh. 10 bản sử dụng điện năng lượng mặt trời
chiếm 7,8%. Tổng số hộ gia đình đã được dùng điện gồm 21.512 hộ chiếm 48,37%
tổng số hộ toàn tỉnh.
Để XĐGN, tỉnh đã thực hiện quy hoạch khu dân cư tập trung. Tỉnh đã bố trí
lại nơng thơn, thu thập bản nhỏ bé thành bản lớn. Từ năm 2006 đến nay, theo chủ
trương đường lối chung của Đảng và Nhà nước, Phông Sa Lỳ đã tập hợp được 131
bản, làm cho số bản trong tỉnh giảm xuống 13 bản (từ 542 bản năm 2006 trở thành
529 bản 2015).
2.3.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại trong thực thi
chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Bên cạnh những thành cơng, XĐGN ở tỉnh Phơng Sa Lỳ cịn bộc lộ những
hạn chế, nguyên nhâncủa những tồn tạiyếu kém cần phải khắc phục, đó là:
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, tỷ trọng nơng nghiệp cịn lớn, việc
chuyển dịch cơ cấu lao động chưa gắn chặt với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thu
nhập bình quân đầu người nhìn chung cịn thấp. Chất lượng của các đề án quy
hoạch phát triển, phân bổ lực lượng sản xuất, bố trí lại dân cư, xây dựng kết cấu hạ
tầng của tỉnh còn nhiều hạn chế, yếu kém, chất lượng cơng trình xuống cấp nhanh,
khơng hiệu quả,…
Hai là, cơ chế quản lý các chương trình, cơng trình cịn bất cập, thiếu cán

bộ chuyên trách ở cơ sở, năng lực trình độ cán bộ chưa đều, chưa đáp ứng được
yêu cầu, cơng tác chỉ đạo tổ chức thực hiện, có nơi có lúc chưa đồng bộ, thiếu sâu
sát trong cơng tác kiểm tra giám sát, đôn đốc tổ chức thực hiện
Ba là, công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động về XĐGN còn hạn chế. Các
biện pháp XĐGN chưa được tuyên truyền mạnh mẽ để tạo nhận thức sâu sắc, thực
hiện chưa quyết liệt và thường xuyên, nhiều thông tin chưa đến được với người
19


dân. Nhận thức về trách nhiệm của các cấp chính quyền ở cơ sở chưa đầy đủ, nên
nhiều vấn đề nảy sinh trong q trình thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với các đối tượng nghèo, đặc biệt là các hộ nghèo DTTS.
Bốn là, một bộ phận người nghèo có nhận thức hạn chế tập quán lạc hậu. Ở
một số vùng người nghèo, không làm theo chủ trương đường lối của nhà nước,
không chịu nghe sự chỉ bảo cách làm ăn của cán bộ chuyên môn, coi thường việc
XĐGN, cịn tư tưởng ngại khó, thiếu tinh thần tự lực cánh sinh, chậm tiếp thu khoa
học kỹ thuật mới.
Năm là, trong thời gian qua, ở trong tỉnh cũng đã đầu tư nguồn vốn của các
chương trình bằng nhiều dự án, nên đã làm thay đổi các cơ sở hạ tầng, phát triển
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nguồn đầu tư cho chương trình XĐGN cịn hạn chế,
nguồn đầu tư quá ít so với yêu cầu cần thiết của hộ nghèo.
Sáu là, chính sách giao đất, giao rừng cho nhân dân quản lý triển khai chậm.
Mặc dù đã tổ chức thực hiện toàn tỉnh, nhưng chưa chấm dứt được nạn chặt phá
rừng làm nương rẫy trồng lúa. Do vậy, tình trạng du canh cịn nhiều dẫn đến tàn
phá rừng, làm suy kiệt đất, nguồn nước, khí hậu thời tiết, nguồn lực tự nhiên nên
dẫn đến tình trạng lũ lụt, gây thiệt hại về người và của cải vật chất của nhân dân và
hộ nghèo.

20




×