TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
PHẠM THỊ THÁI NGÂN
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
Giáo viên hướng dẫn:
NGUYỄN THỊ THU THỦY
Sinh viên thực hiện:
PHẠM THỊ THÁI NGÂN
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn trường Đại học Võ Trường Toản, cùng Giảng viên
hướng dẫn đã tạo điều kiện giúp tơi hồn thành khóa luận. Đặc biệt xin chân
thành gửi lời cảm ơn đến cô Nguyễn Thị Thu Thủy đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ
bảo tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài này!
Cảm ơn quý thầy cô Khoa Khoa học cơ bản cùng các cán bộ của Thư viện
trường Đại học Võ Trường Toản đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, giúp đỡ
tôi trong q trình nghiên cứu, tìm tịi và tham khảo.
Xin chân thành biết ơn!
Sinh viên thực hiện
(Ký và ghi rõ họ tên)
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tơi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất
cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào.
Sinh viên thực hiện
(Kí và ghi rõ họ tên)
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ ...................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... ii
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài: ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề: ............................................................................................ 1
3. Mục đích yêu cầu:....................................................................................... 4
4. Phạm vi nghiên cứu:................................................................................... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu: ......................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÀNH NGỮ VÀ TỪ........ 6
1.1.Thành ngữ: ................................................................................................ 6
1.1.1. Định nghĩa: ........................................................................................ 6
1.1.2. Đặc điểm của thành ngữ: ................................................................. 7
1.1.3. Phân loại thành ngữ và phân biệt thành ngữ với tục ngữ: ......... 13
1.2. Từ: ........................................................................................................... 17
1.2.1.Các quan niệm và định nghĩa về từ: .............................................. 17
1.2.2.Một số đặc điểm của từ tiếng Việt: ................................................. 18
1.2.3. Tìm hiểu về lớp từ chỉ động vật trong tiếng Việt: ........................ 18
CHƢƠNG 2: GIÁ TRỊ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT ........... 20
2.1. Các thành ngữ có chứa các từ chỉ động vật có thực: ......................... 20
2.1.1. Động vật trên cạn: ........................................................................... 20
2.1.2. Động vật sống trên không: ............................................................. 41
2.1.3. Động vật sống dƣới nƣớc: .............................................................. 47
2.2. Các thành ngữ có chứa các từ chỉ động vật chỉ có trong truyền
thuyết, trong tƣởng tƣợng: .......................................................................... 54
CHƢƠNG 3: TÁC DỤNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ ................................................................................... 56
3.1. Tăng tính hình tƣợng, biểu cảm: ......................................................... 56
3.2. Tính cơ đọng, hàm súc: ......................................................................... 57
3.3. Tính khách quan, thuyết phục: ............................................................ 58
3.4. Tính dân tộc đậm đà: ............................................................................ 59
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 61
iii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thành ngữ là một mảng đề tài phong phú trong kho tàng văn học dân gian
và cũng là mảng đề tài gần gũi nhất, vì nó từ lâu đã đi vào lời ăn tiếng nói hằng
ngày. Với các từ chỉ động vật, chỉ hành động, vật liệu mang đậm tính dân tộc,
thành ngữ đã tạo cho mình một vị thế quan trọng trong trường ngơn ngữ dân tộc.
Vốn là người u thích văn chương và say mê với những giá trị truyền
thống dân gian với mong muốn được khai thác, tìm hiểu sâu hơn về thành ngữ dân
tộc nên tôi quyết định chọn một góc nhỏ về mảng đề tài này đó là đề tài: “Các từ
chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt”. Hy vọng rằng, sau khi hồn thành đề tài,
tơi có thể có thêm vốn kiến thức về thành ngữ và từ tiếng Việt, để góp phần cho
cơng việc nghiên cứu Văn học sau này và góp một phần nhỏ cơng sức vào việc giữ
gìn sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ, cũng như những giá trị quý báu của ngôn ngữ
dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề:
Thành ngữ là mảng đề tài thu hút khá nhiều sự quan tâm của giới nghiên
cứu, với mỗi cơng trình nghiên cứu của mỗi tác giả khác nhau đưa ra những quan
điểm khác nhau. Có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu về thành ngữ như:
Trong quyển Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu, Nhà xuất bản
Giáo dục 1981, ở phần III, chương ba tác giả đã nêu lên khái niệm về thành ngữ,
phân loại thành ngữ. Ơng cịn phân chia thành ngữ căn cứ theo kết cấu cú pháp
gốc (trừ thành ngữ gốc Hán) thành hai loại: thành ngữ có kết cấu câu và thành ngữ
có kết cấu cụm từ. Bên cạnh đó, ơng cịn trình bày sự khác biệt giữa thành ngữ và
tục ngữ dựa trên hình thức ngữ pháp, nội dung ý nghĩa, đối tượng nghiên cứu.
Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt của Nguyễn Thị Thu Thủy đã đề cập đến
ngữ cố định, phân biệt thành ngữ với tục ngữ, đặc điểm, phân loại và giá trị sử
dụng của thành ngữ.
1
Giáo trình Phong cách học tiếng Việt của Nguyễn Văn Nở đã có trình bày
khái niệm về thành ngữ, cách phân chia thành ngữ dựa trên phạm vi sử dụng cũng
như đặc điểm khái quát của từng loại thành ngữ và giá trị biểu đạt của chúng. Bên
cạnh đó, tác giả cịn trích dẫn quan điểm của Cù Đình Tú về sự khác nhau giữa
thành ngữ và tục ngữ.
Trong giáo trình Văn học dân gian, phần hai, Trần Văn Nam đã trình bày sự
khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ. Qua đó, ta có thể phân biệt ranh giới
giữa thành ngữ và tục ngữ.
Trong quyển Từ điển thành ngữ tiếng Việt, Hoàng Văn Hành (chủ biên) đã
tập hợp rất nhiều thành ngữ tiếng Việt và giải thích ý nghĩa của chúng. Hay quyển
“Kể chuyện thành ngữ và tục ngữ” Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1997 của
Hoàng Văn Hành cũng đã kể, sưu tầm rất nhiều câu chuyện để giải thích, giới
thiệu nguồn gốc hình thành các thành ngữ, tục ngữ. Qua đó ta có thể hiểu được ý
nghĩa và nguồn gốc của rất nhiều thành ngữ.
Nguyễn Bích Hằng trong quyển Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt Nam đã
tuyển soạn giải thích nghĩa của các thành ngữ - tục ngữ một cách ngắn gọn, rõ
ràng và tương đối đầy đủ.
Trong bộ sách Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao Việt Nam gồm hai
quyển, dày gần 2000 trang, soạn giả Việt Chương đã tập hợp hơn 15000 câu thành
ngữ - tục ngữ ca dao (trong đó có một số thành ngữ Hán Việt tham khảo) được
giải thích tường tận dễ hiểu. Bộ sách là một cơng trình đồ sộ được trình bày rõ
ràng, khoa học. Toàn bộ thành ngữ - tục ngữ - ca dao được tác giả sưu tầm, sắp
xếp theo thứ tự mẫu chữ cái, chia làm hai quyển: quyển thượng gồm những câu
thành ngữ - tục ngữ - ca dao có chữ cái đầu từ A đến L; quyển hạ gồm những
thành ngữ - tục ngữ - ca dao có chữ cái đầu từ M trở về sau cho đến Y.
Tác giả Trịnh Mạnh trong quyển Tiếng Việt lí thú cũng đã đề cập đến nguồn
gốc và nghĩa của một số thành ngữ - tục ngữ thông qua cách giải thích rõ ràng, cụ
thể và một số câu chuyện đầy lí thú.
2
Định nghĩa từ, các quan niệm về từ và phân loại từ từ lâu đã được sự quan
tâm rất nhiều của giới nghiên cứu ngơn ngữ. Có thể kể đến các cơng trình nghiên
cứu như:
Giáo trình từ vựng học Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2011 của Đỗ Việt
Hùng đã biên soạn lại ngắn gọn các giáo trình truyền thống về Từ vựng học nói
chung và Từ vựng học tiếng Việt nói riêng của các nhà khoa học tên tuổi hàng đầu
trong và ngoài nước. Ngoài những nội dung truyền thống, giáo trình này cịn bổ
sung những vấn đề mới như: sử dụng quan hệ đồng nhất và đối lập để xác định đặc
điểm cấu tạo từ, các phương pháp phân tích nét nghĩa, hoạt động của các nét nghiã
trong thực tế giao tiếp, hiện tượng đồng nghĩa và hiện tượng đồng chiếu vật. Trong
giáo trình này, tác giả đã nêu định nghĩa về từ, phân loại từ, định nghĩa về ngữ cố
định, trong đó có thành ngữ và một số đặc điểm về nghĩa của thành ngữ. Đặc biệt
tác giả cịn khẳng định rằng tục ngữ khơng thuộc ngữ cố định dù chúng đều do các
từ tạo nên và có tính ổn định cao.
Ngữ pháp tiếng Việt Nhà xuất bản Giáo dục, Diệp Quang Ban (chủ biên),
Hoàng Văn Thung viết theo tinh thần vừa kế thừa kiến thức truyền thống đã và
đang được lưu hành, vừa bổ sung kiến thức là thành tựu của giới nghiên cứu tiếng
Việt trong những năm thập niên 90. Trong quyển này, hai tác giả đã đề cập rõ
ràng, chi tiết về cấu tạo từ và cách phân chia từ loại trong tiếng Việt. Qua đó ta có
thể hiểu thêm về các danh từ chỉ động vật.
Trong quyển Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (Theo định hướng ngữ pháp
chức năng) – Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Diệp Quang Ban một lần nữa biên
soạn lại cách phân chia từ loại tiếng Việt một cách cụ thể hơn, rành mạch hơn về
các lớp từ, trong đó ơng đề cập khá chi tiết về lớp danh từ chỉ động vật.
Đỗ Thị Kim Liên trong quyển Ngữ pháp tiếng Việt Nhà xuất bản Giáo dục,
1999 đã dành riêng hai chương (II và III) để trình bày về định nghĩa của từ, cấu
tạo từ và phân chia từ loại tiếng Việt. Những từ loại trong tiếng Việt được tác giả
phân chia và hệ thống bằng sơ đồ rất rành mạch và chi tiết. Trong lớp danh từ, tác
3
giả lại chia ra các tiểu loại, các nhóm rất cụ thể. Qua quyển sách này, ta có thể
hiểu rõ về các từ chỉ động vật trong tiếng Việt thuộc từ loại gì? Trong tiểu loại
nào? Thuộc nhóm nào?...
Nguyễn Văn Tư trong giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt 1 đã khá chuẩn xác
khi nêu định nghĩa về từ, cấu trúc của từ, cấu tạo từ và cách phân chia từ loại trong
tiếng Việt. Các từ chỉ động vật cũng được tác giả đề cập đến một cách cụ thể, rõ
ràng trong giáo trình này.
Tuy nhiên, nhìn chung tất cả các tài liệu, cơng trình nghiên cứu trên đều
chưa bàn đến nghiên cứu nghĩa của các từ chỉ động vật trong thành ngữ một cách
cụ thể.
Trong quá trình thực hiện đề tài, ngồi những cơng trình nghiên cứu trên,
người viết cịn tìm hiểu tham khảo các tài liệu khác có liên quan. Các tài liệu đó sẽ
được liệt kê ở danh mục tài liệu tham khảo.
3. Mục đích yêu cầu:
Khảo sát đề tài này, người viết hướng tới những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Sưu tầm, hệ thống lại những thành ngữ có chứa từ chỉ động vật.
- Tìm hiểu nghĩa của thành ngữ và từ, đặc biệt là các từ chỉ động vật.
- Hiểu được ý nghĩa và tác dụng của các từ chỉ động vật trong thành ngữ.
Đồng thời rút ra nhận xét việc sử dụng các từ chỉ động vật trong thành ngữ: những
tích cực và hạn chế.
Qua nghiên cứu đề tài, người viết có thể hiểu thêm về ý nghĩa của các thành
ngữ cũng như nguồn gốc của nó, để từ đó thêm yêu và tự hào bởi sự giàu có và
trong sáng của tiếng mẹ đẻ với những giá trị truyền thống bất hủ.
4. Phạm vi nghiên cứu:
“Từ” trong tiếng Việt là một phạm vi rất rộng. Nhưng do yêu cầu của đề tài
là “Từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt”, nên người viết chỉ nghiên cứu,
tìm hiểu lớp từ chỉ động vật. Trên cơ sở đó, người viết tập trung nghiên cứu về
cách sử dụng từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt, có tham khảo những
4
cơng trình nghiên cứu trước đó có liên quan, đặc biệt là hai cơng trình nghiên cứu:
Kể chuyện thành ngữ và tục ngữ của Hoàng Văn Hành và Từ điển thành ngữ - tục
ngữ - ca dao Việt Nam của Việt Chương.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trước khi tìm hiểu nghiên cứu một vấn đề nào đó, chúng ta cần xác định
phương hướng và phương pháp cụ thể để công việc nghiên cứu đạt hiệu quả. Vì
vậy, để thực hiện đề tài này, người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau:
Trước hết, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê và phân loại những
thành ngữ có chứa từ chỉ động vật.
Thứ hai, dựa trên sự thống kê, phân loại đó chúng tơi tiến hành phân tích để
thấy rõ ý nghĩa của từ chỉ động vật trong thành ngữ qua mỗi trường hợp cụ thể.
Cuối cùng, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu để thấy được
tác dụng của việc sử dụng từ chỉ động vật trong thành ngữ.
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÀNH NGỮ VÀ TỪ
1.1.Thành ngữ:
1.1.1. Định nghĩa:
Thành ngữ - “đội qn tinh nhuệ của ngơn ngữ dân tộc” (Cù Đình Tú) là
mảng đề tài thu hút nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu. Rất nhiều nhà nghiên
cứu ngôn ngữ đưa ra những định nghĩa về thành ngữ khác nhau, chẳng hạn như:
Theo Đỗ Hữu Châu: “Cho một tổ hợp có ý nghĩa S do các đơn vị A, B, C…
mang ý nghĩa lần lượt s1, s2, s3… tạo nên; nếu như ý nghĩa S khơng thể giải thích
bằng các ý nghĩa s1, s2, s3 thì tổ hợp A, B, C có tính thành ngữ” [3; tr.61].
Theo Nguyễn Bích Hằng: “Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định nhằm
diễn đạt một khái niệm, một ý tưởng nào đó” [7; tr.5].
Hồng Văn Hành cho rằng: “Thành ngữ là một tổ hợp từ cố định, bền vững về
hình thái cấu trúc, hồn chỉnh và bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi
trong giao tiếp hằng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ” [6; tr.25].
Trần Văn Nam thì cho rằng: “Thành ngữ là đơn vị có sẵn, mang chức năng
định danh, dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành động… là những đơn vị tương
đương như từ hoặc cụm từ”…[11; tr.21].
Nguyễn Văn Nở đưa ra định nghĩa: “Thành ngữ là những tổ hợp từ có sẵn
(cụm từ cố định), tương đối bền vững về hình thái cấu trúc, có khả năng định danh
như từ dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành động” [12; tr.88].
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi định nghĩa: “Thành ngữ là
cụm từ hay ngữ cố định, bền vững có tính ngun khối về ngữ nghĩa khơng nhằm
diễn đạt trọn một nhận xét như tục ngữ mà nhằm thể hiện một quan niệm, một
hình thức sinh động, hàm súc” [5; tr.297].
Đỗ Việt Hùng cho rằng: “Thành ngữ là đơn vị đặc trưng của ngữ cố định về
tính ổn định trong cấu tạo và tính thành ngữ về mặt nghĩa” [8; tr.18].
6
Theo Cù Đình Tú: “Thành ngữ vốn là những tổ hợp từ mang tính chất tự do,
được nhiều người cùng dùng, cùng tham gia sửa đổi dần dần, gọt giũa dần dần
trong trường kì lịch sử cuối cùng trở thành những từ tổ cố định” [15; tr.149].
Nhìn chung, ở mỗi định nghĩa của mỗi tác giả khác nhau thì có cách lập
luận và quan điểm không giống nhau. Nhưng qua các định nghĩa trên, ta có thể
nhận thấy rằng vơ hình chung các tác giả đều thống nhất nhau ở chỗ: cho rằng
thành ngữ là ngữ cố định, hoàn chỉnh về hình thức và nội dung có tính biểu cảm
cao và tính gọt giũa bóng bẩy.
Từ các nhận định trên, ta có thể hiểu:
Thành ngữ là đơn vị đặc trưng của ngữ cố định, có khả năng định danh như
từ dung để gọi tên sự vật, tính chất, hành động. Vừa có cấu tạo gọt giũa, vừa có
tính biểu cảm. Ví dụ: Ếch ngồi đáy giếng, tốt mã dẻ cùi, rừng vàng biển bạc, …
1.1.2. Đặc điểm của thành ngữ:
Thành ngữ mang một số đặc điểm chung sau đây:
1.1.2.1. Tính biểu trƣng:
Như chúng ta đã biết thì hầu hết tất cả các thành ngữ đều là những bức tranh
nho nhỏ về những vật thực, việc thực, cụ thể, riêng lẻ, được nâng lên để nói về cái
phổ biến, khái quát, trừu tượng. Có khi chúng là các hình ảnh ẩn dụ (chuột sa hủ
nếp, kiến bị miệng chén, …) hốn dụ (một nắng hai sương, nhà cao cửa rộng, …)
hay so sánh (thẳng như kẻ chỉ, đẹp như tiên, …). Nhưng nhìn chung, thành ngữ
thực chất là những vật thực, việc thực được dùng để biểu trưng cho những đặc
điểm, tính chất, hoạt động, tình thế, … phổ biến khái qt.
Ví dụ: thành ngữ “Nhà dột cột xiêu” nhằm nói lên cảnh sống quá túng hụt,
nghèo khổ, chạy ăn hàng ngày cịn khơng nổi nói chi đến chuyện sửa nhà. Hay
“Tốt mã dẻ cùi” là thành ngữ biểu trưng cho những người có bề ngồi đẹp đẽ
nhưng lại có tâm địa bẩn thiểu và bất tài. Hoặc như thành ngữ “Lời ong tiếng ve”
ám chỉ những lời bàn tán xỏ xiên, đâm thọc của bàn dân thiên hạ về vụ việc gì đó.
7
Rõ ràng, trong mỗi thành ngữ những hình ảnh về vật thực, việc thực được
đề cập đến không chỉ đơn thuần là việc miêu tả chúng `một cách cụ thể, riêng lẻ
mà ta đã mượn những hình ảnh về vật thực, việc thực đó để biểu trưng cho cái phổ
biến, khái quát, trừu tượng. Ta có thể dễ dàng nhận thấy các thành ngữ vừa nêu
trong ví dụ trên (Nhà dột cột xiêu, tốt mã dẻ cùi, lời ong tiếng ve) đã minh chứng
cho điều này.
Nhờ có tính biểu trưng nên thành ngữ tiếng Việt cịn có tính hình tương,
tính cụ thể, tính dân tộc, … Tính biểu trưng của thành ngữ có hai mức độ: biểu
trưng cao và biểu trưng thấp. Tùy vào phương thức cấu tạo mà mỗi thành ngữ có
mức độ biểu trưng thấp hay cao khác nhau.
Cụ thể là ở những thành ngữ mà nghĩa của chúng gần như hiển hiện trên bề
mặt ngôn từ, nghĩa là ta có thể hiểu nghĩa của nó một cách dễ dàng, không cần
phải tra cứu, liên tưởng sâu xa thì những thành ngữ như vậy có mức biểu trưng
thấp. Các thành ngữ dạng này chủ yếu được cấu tạo bằng phương thức so sánh.
Ví dụ: thành ngữ “Đẹp như tiên”, yếu tố biểu trưng là “tiên”. Theo quan
niệm người xưa, tiên sống ở trên trời, có phép thuật và đặc biệt là rất xinh đẹp, đẹp
một cách toàn diện, tuyệt vời. Nên thành ngữ này để chỉ những người có nhan sắc
tuyệt trần, khơng ai sánh bằng. Hay thành ngữ “Chậm như sên”, hình ảnh biểu
trưng là con “sên”. Đặc điểm của sên là bò rất chậm, chậm nhất trong tất cả các
lồi động vật. Vì vậy, thành ngữ “chậm như sên” là chỉ tốc độ hành động, công
việc quá chậm chạp, trễ nãy.
Ngược lại với những thành ngữ có tính biểu trưng thấp, thành ngữ có tính
biểu trưng cao là những thành ngữ mà nghĩa của chúng ẩn đằng sau cấu trúc bề
mặt ngôn từ. Hầu hết những thành ngữ dạng này được cấu tạo bởi phương thức ẩn
dụ và hốn dụ.
Ví dụ: thành ngữ “Nhà cao cửa rộng” khơng phải nói đến cái nhà thì cao,
cửa thì rộng. Mà qua hai hình ảnh “nhà cao”, “cửa rộng” đó người ta muốn nói đến
một sự giàu có, sang trọng, bề thế của người nào đó. Hay thành ngữ “Chuột chạy
8
cùng sào” khơng phải để nói việc con chuột chạy trên sào đến hết sào thì cùng
đường, khơng chạy được nữa. Thực ra người ta dùng hình ảnh đó để nói đến tình
thế cùng quẫn, bị dồn vào bước đường cùng khơng lối thốt mặc dù đã xoay trở
hết cách.
1.1.2.2.Tính dân tộc:
“Tính dân tộc là đặc điểm nói chung của ngơn ngữ cụ thể, song nó thể hiện
đậm nét hơn ở các ngữ cố định” [3; tr.70].
Thành ngữ là đơn vị đặc trưng của ngữ cố định, đồng thời nó mang tính biểu
trưng nên đương nhiên thành ngữ có tính dân tộc.
Trong thành ngữ tiếng Việt, ta thấy những vật thực, việc thực được nói đến
rất đậm chất Việt Nam. Chẳng hạn như: con vật (gà, mèo, chuột, trâu, chó, ong,
kiến, …), đồ vật (cuốc, cày, niêu, cái khố, chiếc áo, manh quần, …) sự việc hay
tình thế (lấy chung chồng, tảo hôn, gà trống nuôi con, đỉa phải vôi, cốc mị cị xơi,
…).
Đơi khi trong thành ngữ cịn thể hiện lòng tự hào dân tộc (con rồng cháu
tiên, con Hồng cháu Lạc, …) thể hiện phong tục, tập quán sống (một nắng hai
sương, chịu thương chịu khó, cày sâu cuốc bẩm, một lòng một dạ, …).
“Dân tộc nào cũng có kho tàng thành ngữ của mình. Vốn thành ngữ này
gồm những thành ngữ do bản thân dân tộc đó tạo nên, đã ghi lại cuộc sống của
dân tộc mình bằng những hình ảnh riêng của đất nước mình và bằng những cách
diễn đạt riêng của dân tộc mình” [15; tr.153]. Nhờ tính dân tộc của thành ngữ mà
khi tiếp xúc với ngơn ngữ cụ thể nào đó, ta khơng chỉ hiểu đặc điểm ngơn ngữ mà
cịn hiểu thêm các vấn đề về văn hóa, tư duy, lịch sử của dân tộc ấy.
1.1.2.3. Tính biểu thái và tính cụ thể:
- Tính biểu thái:
Do thành ngữ là sự tái hiện lại những vật thực, việc thực mà ta có thể cảm
giác được, quan sát được nên khi nhắc đến bất kì thành ngữ nào cụ thể đều gây ra
cho ta “ấn tượng mạnh mẽ, đột ngột, tác động của chúng đậm đà và sắc, càng
9
“ngẫm” càng thú vị”. (Đỗ Hữu Châu). Có những thành ngữ biểu hiện thái độ tình cảm dương tính, nhưng có những thành ngữ biểu hiện thái độ đánh giá âm
tính. Và chính vì vậy, ta nói thành ngữ có tính biểu thái.
Ví dụ: thành ngữ “gối đất nằm sương” dùng để nói lên sự chịu thương chịu
khó, dãi dầu mưa nắng của người nào đó. Hình tượng trong thành ngữ này đã thể
hiện thái độ đánh giá dương tính. Hay thành ngữ “Ham sống sợ chết” để chỉ kẻ
hèn nhát, bạc nhược, thiếu dũng khí. Hình tượng trong thành ngữ này đã biểu hiện
thái độ đánh giá âm tính.
Ví dụ: Khi nói “Thắt lưng buộc bụng” là nói đến sự tiết kiệm đúng mức, vừa
phải kèm theo sự tán thành, đồng tình của người nói. Cịn nếu nói “Vắt chày ra
nước” là thái độ chê bai, mỉa mai đối với những người keo kiệt, bủn xỉn.
Tùy thuộc vào sự đánh giá tốt xấu, vào tính chất thẩm mĩ của những hình
ảnh được lấy làm dấu hiệu biểu trưng mà sắc thái biểu cảm của thành ngữ có thể là
dương tính hay âm tính. Vì vậy, khi sử dụng ta phải hết sức lưu ý đến sắc thái biểu
cảm của chúng để dùng đúng đối tượng, đúng trường hợp. Tránh tình trạng nhập
nhằng về nghĩa hay phản tác dụng khi sử dụng thành ngữ khơng phù hợp.
- Tính cụ thể:
Tính cụ thể của thành ngữ gắn liền với tính hình tượng, hay nói cách khác
do có tính hình tượng nên thành ngữ có tính cụ thể. Tính cụ thể trong thành ngữ
được thể hiện qua hai phương diện sau:
Thứ nhất, tính cụ thể của thành ngữ thể hiện ở tính bị quy định về phạm vi
sử dụng. Ở phương diện này, có hai điểm cần lưu ý: Một là, khơng phải thành ngữ
có thể dùng cho bất cứ đối tượng nào miễn là nó có tính chất hay đặc điểm mà
thành ngữ biểu thị. Ví dụ: thành ngữ “Ngáy như bò rống” là để chỉ những người
ngáy rất to khi ngủ nhưng ta nên thận trọng, không được tùy tiện dùng thành ngữ
này cho bất cứ người nào cũng được, nó chỉ được dùng với những người nhỏ hơn
ta, hoặc ngang hàng ta với ý đùa vui hay dùng cho những người mà ta thù ghét,
khinh bỉ, xem thường. Hai là, tùy ở mỗi trường hợp, hoàn cảnh hay hiện tượng mà
10
ta lựa chọn thành ngữ áp dụng sao cho phù hợp. Chẳng hạn, thành ngữ “Con rồng
cháu tiên” hay “Con Hồng cháu Lạc” hoặc “Oan Thị Kính”,… ta chỉ nên dùng
với người Việt Nam và trong nước Việt Nam. Vì nếu ta dùng những thành ngữ rất
Việt Nam này với những nước phương Tây thì sẽ vi phạm phương châm hội thoại,
hoặc nếu khơng thì cũng bị nhập nhằng về nghĩa. Hay khi muốn chỉ sự gặp nhau
của hai kẻ xấu, gian ngoan ta có các thành ngữ: “Mạt cưa mướp đắng”, “kẻ cắp
gặp bà già”, … không được dùng “ngậm máu phun người” hay “mưu sâu kế độc”,
… đại loại như vậy. Tùy vào trường hợp cụ thể mà ta có những thành ngữ cụ thể
tương ứng với nó, hợp nghĩa với nó, cần phải hiểu rõ nghĩa của từng thành ngữ để
lựa chọn cho phù hợp và xác đáng .
Thứ hai, tính cụ thể của thành ngữ cịn thể hiện ở tính bị quy định về sắc
thái ngữ nghĩa. Chính bởi tính bị quy định về sắc thái làm cho nghĩa của các thành
ngữ hẹp lại, do đó mà tính cụ thể tăng lên.
Ví dụ: cũng đều là các thành ngữ chỉ sự lúng túng, nhưng thành ngữ “lúng
túng như cá vào rọ” là nói đến tình thế khó khăn đột ngột, bất ngờ khơng biết làm
cách nào để thoát ra, để giải quyết được. “Lúng túng như thợ vụng mất kim” để chỉ
sự vụng về của người chưa quen việc, chưa có kinh nghiệm. “Lúng túng như gà
mắc tóc” nói đến sự mất bình tĩnh của người quá nhiều việc, công việc dồn dập,
rối rắm. “Lúng túng như ngậm hột thị” chỉ sự ấp a, ấp úng, nói khơng nên lời,
khơng giải thích, biện bạch gì được.
1.1.2.4. Tính điệp và tính đối:
Tính điệp và tính đối của thành ngữ được thể hiện ở mặt quan hệ ngữ âm và
ý nghĩa của các thành tố tạo nên chúng.
Tính điệp: làm cho yếu tố của thành ngữ gắn liền với nhau thành một khối
có âm điệu hài hịa, dễ nhớ. Tính điệp của thành ngữ được thể hiện ở hai mặt: điệp
về mặt ngữ âm và điệp về mặt ngữ nghĩa.
Điệp về mặt ngữ âm: thành ngữ thường lặp lại phần vần hay phần đầu âm
tiết.
11
Ví dụ: thành ngữ “Chém to kho mặn”, do có sự lặp lại vần “o” ở hai từ “to”
và “kho” nên làm những thành tố của thành ngữ gắn liền với nhau tạo thành một
khối có âm điệu hài hịa, nhịp nhàng, dễ đọc, dễ nhớ.
Hay như thành ngữ “Kén cá chọn canh”, chính vì sự lặp lại âm tiết “c” ở hai
từ “cá” và “canh” làm những thành tố của thành ngữ gắn liền với nhau, tạo nên
một khối có âm điệu nhịp nhàng, hài hịa, dễ đọc, dễ nhớ.
Điệp về mặt ngữ nghĩa: thành ngữ thường sử dụng từ đồng nghĩa hay gần
nghĩa. Khi sử dụng từ đồng nghĩa vào trong thành ngữ thì thành ngữ sẽ hay hơn,
tránh lặp từ và tăng thêm ý nghĩa biểu đạt của nội dung thành ngữ.
Ví dụ: thành ngữ “Bán phấn bn son”, ta thấy hai từ “bán” và “bn” có
nghĩa tương đồng nhau, cả hai từ đều chỉ sự trao đổi giữa một bên là hàng hóa,
một bên là tiền bạc. Hay như thành ngữ “Hao binh tổn tướng”, rõ ràng hai từ
“hao” và “tổn” có nét tương đồng nhau về nghĩa, hai từ đều chỉ sự tiêu giảm về số
lượng hay chất lượng.
Tính đối: là giữa các bộ phận trong thành ngữ có sự đối xứng nhau. Tính
đối được thể hiện ở các mặt: ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa.
Về mặt ngữ âm: thành ngữ sử dụng những từ đối nhau theo quy luật bằng
trắc như sau:
Bằng – bằng – trắc – trắc
Ví dụ: Màn trời chiếu đất, nam thanh nữ tú, tiền trao cháo múc, tôn sư trọng
đạo, …
Trắc - trắc - bằng - bằng
Ví dụ: Nhắm mắt đưa chân, thở ngắn than dài, vạ gió tai bay, vợ dại con
thơ, …
Trắc – bằng – bằng – trắc
Ví dụ: Quỷ tha ma bắt, thuận mua vừa bán, uốn lưng quỳ gối, vững như bàn
thạch, …
Bằng – trắc – trắc –bằng
12
Ví dụ: Lời nói gió bay, tiền mất tật mang, thay ngựa giữa dòng, thua chị
kém em, …
Về mặt ngữ pháp: mỗi vế của thành ngữ gồm các từ cùng một từ loại, cùng
kiểu kết cấu và cùng chức năng ngữ pháp.
Ví dụ: thành ngữ “Vợ dại con thơ”, trong thành ngữ này ta thấy hai từ “vợ”
và “con” đều là danh từ, “dại” và “thơ” đều là tính từ; thành ngữ “vợ dại con thơ”
được cấu tạo bởi hai vế “vợ dại” và “con thơ”, hai vế này có cùng kiểu kết cấu là:
1 danh từ + 1 tính từ = 1 vế, và mỗi vế đều gồm hai thành tố giữ vai trò chủ - vị.
Về mặt ngữ nghĩa: thành ngữ sử dụng các từ trái nghĩa nhau hoặc có nghĩa
tương đồng nhau.
Ví dụ: thành ngữ “Đi đơng đi tây”, đối nhau ở hai từ “đông” và “tây” cho
thấy sự mênh mơng, từ tây sang đơng có rất nhiều nơi, thành ngữ này chỉ sự đi
nhiều, biết nhiều. Ta có thể nói nhờ có tính đối mà giá trị biểu đạt của thành ngữ
sẽ cao hơn.
Chính bởi tính điệp và tính đối mà thành ngữ trở nên cân đối, hài hịa, dễ
thuộc, dễ nhớ; giàu nhạc tính và giá trị biểu đạt cao hơn.
1.1.3. Phân loại thành ngữ và phân biệt thành ngữ với tục ngữ:
1.1.3.1. Phân loại thành ngữ:
Trong mỗi cơng trình nghiên cứu của mỗi tác giả khác nhau thì có cách
phân chia thành ngữ khác nhau. Cụ thể, ta thấy có các cách phân chia như sau: dựa
theo các kết cấu cú pháp gốc của thành ngữ, dựa vào phạm vi sử dụng, dựa vào
chức năng biểu thị của thành ngữ, dựa vào sắc thái biểu cảm, …
- Dựa vào chức năng biểu thị, ta có các loại thành ngữ:
+ Thành ngữ biểu thị sự vật.
Ví dụ: Con Hồng cháu Lạc, núi cao sơng dài, …
+ Thành ngữ biểu thị tính chất.
Ví dụ: Chân lấm tay bùn, sức dài vai rộng, chịu thương chịu khó, …
+ Thành ngữ biểu thị hành động.
13
Ví dụ: Nước đổ lá khoai, đứng núi này trơng núi nọ, được voi đòi tiên, …
[15; tr.149]
- Dựa vào phạm vi sử dụng ta có các loại thành ngữ:
+ Thành ngữ đa phong cách.
Ví dụ: Con rồng cháu tiên, chôn nhau cắt rốn, chị ngã em nâng, …
+ Thành ngữ gọt giũa.
Ví dụ: Thanh thiên bạch nhật, mơn đăng hộ đối, hương lửa ba sinh, …
+ Thành ngữ khẩu ngữ.
Ví dụ: Đầu trâu mặt ngựa, miệng hùm gan sứa, nói toạc móng heo, …
[13; tr.89]
- Dựa vào nguồn gốc, ta có hai loại thành ngữ cơ bản nhất là:
+ Thành ngữ thuần Việt.
Ví dụ: Núi cao sơng dài, ba que xỏ lá, nước đổ đầu vịt, …
+ Thành ngữ gốc Hán.
Ví dụ: Thanh thiên bạch nhật, mơn đăng hộ đối, đồng tâm hiệp lực, …
1.1.3.2. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ:
Thành ngữ và tục ngữ có mối quan hệ gần gũi và có những nét tương đồng
nhau, vì thế rất dễ nhầm lẫn giữa hai thể loại dân gian này. Từ lâu đã có rất nhiều
ý kiến về việc phân biệt ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ.
Cù Đình Tú trong bài viết Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ
(Đăng trong Tạp chí ngôn ngữ – số 1/1973) ông quan niệm: “Thực ra, xét về nội
dung, tục ngữ cũng như thành ngữ đều là sự đúc kết kinh nghiệm, là kết tinh trí tuệ
của quần chúng, đều từ sự khái quát hóa hiện thực để rút ra bản chất, quy luật mà
có.” Ơng cho rằng “sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác
nhau về chức năng” [15; tr.274].
Đồng quan điểm trên, trong giáo trình Văn học dân gian (phần hai), Trần
Văn Nam viết: “Sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác nhau
về chức năng. Thành ngữ là đơn vị có sẵn, mang chức năng định danh, dùng để
14
gọi tên sự vật, tính chất, hành động. Về mặt này, thành ngữ là những đơn vị tương
đương như từ hoặc cụm từ. Chúng chỉ đưa đến cho ta một hình ảnh chứ chưa phải
một thơng báo, một phán đốn, một câu trọn vẹn. Thành ngữ có tính chất như
những tấm “bê tông đúc sẵn”, những “bán thành phẩm” cần phải thêm những yếu
tố khác mới diễn đạt được phán đốn. Tục ngữ đứng ở góc độ ngơn ngữ học có
chức năng khác hẳn thành ngữ. Nó thơng báo một nhận định, một kết luận về một
phương diện nào đó của thế giới khách quan. Mỗi câu tục ngữ là một câu hoàn
chỉnh diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng. Thành ngữ chủ yếu là đối tượng nghiên cứu
của khoa học ngơn ngữ. Cịn tục ngữ tuy có nhiều mặt đáng được khoa ngôn ngữ
học chú ý đến, song về cơ bản cần được nghiên cứu như là một hiện tượng ý thức
xã hội, một hiện tượng văn hóa tinh thần của nhân dân lao động, trong đó biểu
hiện khá rõ ràng thế giới quan và nhân sinh quan của nhân dân lao động trong
một thời kì lịch sử nhất định” [11; tr.22].
Tục ngữ Nga có câu “Thành ngữ là hoa, tục ngữ là quả”. Câu tục ngữ này
phần nào đã nói lên được sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ một cách
hình ảnh và sinh động. Rõ ràng thành ngữ là “hoa” còn tục ngữ là “quả” ; thành
ngữ chỉ mang chức năng định danh, biểu thị một khái niệm còn tục ngữ là một
phát ngơn hồn chỉnh, biểu thị một phán đốn, có chức năng thông báo.
Sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ được Cù Đình Tú trình bày qua
bảng sau:
15
Bảng 1.1.Bảng tóm tắt phân biệt thành ngữ và tục ngữ
Chức năng
Thành ngữ
Tục ngữ
Định danh:
Thơng báo:
Gọi tên sự vật, tính Thông báo một nhận
chất, hành động.
định, một kết luận về
một phương diện của
thế giới khách quan.
Cấu tạo
- Đại bộ phận là
kết cấu một trung
- Kết cấu hai trung
tâm.
- Có thể có thêm
tâm.
- Có thể thêm các
các hư từ chỉ
trợ từ để nhấn
quan hệ đã tỉnh
mạnh nội dung.
lượt để làm rõ
mối quan hệ giữa
các bộ phận trong
thông báo.
Vận dụng trong lời nói Dùng làm một bộ phận Có khả năng độc lập tạo
để tạo thành câu.
thành câu, cũng có khi
dùng làm một bộ phận
để tạo thành câu.
(Nguồn: Cù Đình Tú (1983). Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt. Nhà
xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp) [15; tr.278].
Tóm lại, thành ngữ và tục ngữ là sản phẩm của tư duy, kết tinh từ lời ăn
tiếng nói của dân tộc, lưu truyền những tri thức, kinh nghiệm, những triết lí về thế
giới quan và nhân sinh quan được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy
có nhiều nét tương đồng và có mối quan hệ khá gần gũi nhau, song thành ngữ và
16
tục ngữ là hai thể loại dân gian khác nhau và có ranh giới khác biệt rõ ràng. Khi
nghiên cứu về thành ngữ (hay tục ngữ) ta cần đặc biệt lưu ý, tránh gây nhầm lẫn
trong việc phân biệt thành ngữ và tục ngữ.
1.2. Từ:
1.2.1. Các quan niệm và định nghĩa về từ:
Khái niệm về từ đầu tiên do các nhà nghiên cứu các ngôn ngữ Ấn – Âu đưa
ra. Họ tri nhận từ là một cái gì đó có sẵn, thực hiện một chức năng cụ thể. Từ đó
họ đưa ra một định nghĩa chung cũng như đặc điểm của từ rồi lấy đó làm căn cứ
để xét đến từ của các ngôn ngữ khác. Việc làm này xem ra có tính chất quy chụp,
chung chung bởi vì khơng thể lấy đó làm căn cứ để xem xét tồn bộ các thứ tiếng
Ấn – Âu, cụ thể khi áp dụng vào tiếng Việt thì khơng có sự phù hợp, vì:
- Từ trong tiếng Việt khơng biến hình.
- Có hiện tượng từ trùng hình vị.
- Nhiều từ ghép có mơ hình giống kết cấu tự do. Chính vì vậy đã có ý kiến
tranh luận về từ, ranh giới từ và hình vị.
Dù đã có rất nhiều định nghĩa về từ nhưng chưa có một định nghĩa nào có
thể thỏa mãn được yêu cầu nghiên cứu của tất cả các nhà từ vựng học. Thậm chí
có những nhà khoa học cực đoan cho rằng khơng thể có được định nghĩa về từ.
Bởi khó khăn trong việc định nghĩa từ là do trong mỗi ngơn ngữ khác nhau có
những đặc điểm khác nhau. Hơn nữa, trong một ngơn ngữ biểu hiện hình thức và
nghĩa của các từ khác nhau cũng rất khác nhau. Do vậy mà trong nghiên cứu ngôn
ngữ luôn tồn tại hơn một định nghĩa về từ. Có thể kể đến các định nghĩa về từ
tiếng Việt như sau:
“Từ là đơn vị có tính chất tính hiệu tồn tại hiển nhiên trong ngôn ngữ ở
trạng thái tĩnh và thực hiện chức năng làm đơn vị nhỏ nhất để tạo câu khi ngôn
ngữ hành chức” [8; tr.17].
“Từ là một đơn vị của ngôn ngữ, gồm một hoặc một số âm tiết, có nghĩa nhỏ
nhất, có cấu tạo hồn chỉnh và được vận dụng tự do để cấu tạo nên câu” [9; tr.17].
17
“Từ là đơn vị nhỏ nhất mà có nghĩa và có thể hoạt động tự do (trong câu)”
[1; tr.38].
“Đó là những đơn vị mà với chúng ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp
và tư duy thông qua thao tác kết hợp chúng với nhau. Những đơn vị như vậy là từ”
[3; tr.12].
“Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định bất biến, mang những
đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, lớn nhất
trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [16; tr.37].
1.2.2. Một số đặc điểm của từ tiếng Việt:
- Từ là đơn vị ngôn ngữ gồm một hoặc một số âm tiết, có nghĩa nhỏ nhất.
- Từ có cấu tạo hồn chỉnh.
- Từ có khả năng vận dụng tự do để tạo câu.
1.2.3. Tìm hiểu về lớp từ chỉ động vật trong tiếng Việt:
Đây là lớp từ riêng dùng để chỉ lồi vật và có biệt loại.
Ví dụ: trâu, bò, dê, ngỗng, gà, vịt, heo, …
Về ngữ pháp, danh từ chỉ động vật có khả năng kết hợp với các đơn vị như:
- Kết hợp với đại từ tổng thể.
Ví dụ: tất cả gà, vịt đã được nhốt vào chuồng.
- Kết hợp với số từ (có từ chỉ loại ở giữa).
Ví dụ: nhà tơi có ni hai con heo.
- Kết hợp với cái chỉ xuất (có từ chỉ loại ở giữa).
Ví dụ: cái con chó này dữ q.
Nhìn chung, danh từ chỉ động vật chỉ có thể kết hợp với danh từ chỉ loại
“con” (con gà, con khỉ, con mèo, …) tuy nhiên có khi chúng cũng kết hợp được
với danh từ chỉ loại “cái” (cái cò, cái vạc, cái nơng, …).
“Sở dĩ có sự kết hợp này là nhằm để biểu thị thái độ, tình cảm của người nói
đối với sự vật được nêu lên ở danh từ chỉ động vật. Ngồi ra cũng có thể dùng
18
những danh từ chỉ loại lâm thời như: anh, chị, lão, … để nhằm nhân hóa sự vật,
lồi vật” [16; tr.62].
Ví dụ: anh mèo mướp, chị cốc, lão chim trả, …
19