MỞ ĐẦU
I.
Tính cấp thiết của đề tài
Đại dịch COVID-19 đã bùng nổ hai năm và vẫn chưa dừng lại ở biên
giới quốc gia, nó đã ảnh hưởng đến mọi người khơng phân biệt quốc tịch, độ
tuổi, trình độ học vấn, thu nhập hoặc giới tính. Những hậu quả của COVID 19 gây ra ảnh hưởng đến tất cả các khía cạnh đời sống, những nhóm người dễ
tổn thương trong xã hội thường là những người gánh chịu hậu quả nặng nề
nhất.
Trong cuộc chiến với dịch COVID-19, giáo dục cũng là một trong
những lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề. Đại dịch COVID-19 đã gây ảnh
hưởng đến các hệ thống giáo dục trên tồn thế giới, dẫn đến việc đóng cửa
hàng loạt các trường học và đại học. Kể từ ngày 16 tháng 3 năm 2020, Chính
phủ ở 73 quốc gia đã tuyên bố hoặc thực hiện việc đóng cửa trường học, bao
gồm 56 quốc gia đóng cửa trường học trên tồn quốc và 17 quốc gia đóng
cửa trường học địa phương. Việc đóng cửa trường học trên tồn quốc đã
ảnh hưởng đến hơn 421 triệu người học trên toàn cầu trong khi việc đóng cửa
trường học cục bộ đã khiến hơn 577 triệu người học có nguy cơ gặp nguy
hiểm[14]. Theo dữ liệu do UNESCO công bố vào ngày 10 tháng 3, việc đóng
cửa trường học và đại học do COVID-19 đã khiến một phần năm học sinh rời
khỏi trường trên toàn cầu [27].
Cuộc khủng hoảng đặt áp lực lên các nhà hoạch định chính sách, bắt
họ vào tình cảnh “tiến thoái lưỡng nan” khi phải đối mặt giữa việc đóng cửa
trường học (giảm tiếp xúc và cứu mạng sống) và giữ cho trường mở (cho
phép người lao động làm việc, duy trì nền kinh tế và đảm bảo chất lượng giáo
dục). Sự gián đoạn dẫn đến những tác động trực tiếp đến học sinh và các hộ
gia đình có trẻ đi học trong thời gian ngắn: việc học ở nhà không chỉ là một
cú sốc lớn đối với năng suất làm việc của cha mẹ mà còn đối với đời sống xã
hội và việc học của trẻ em. Việc giảng dạy đang chuyển sang trực tuyến mà
1
trước đây chưa được thử nghiệm và chưa từng có. Các bài kiểm tra của học
sinh cũng đang chuyển sang trực tuyến, với rất nhiều sai sót và sự khơng chắc
chắn cho tất cả mọi người.
Cuộc khủng hoảng do dịch COVID - 19 gây ra đã bộc lộ nhiều bất cập
và bất bình đẳng trong hệ thống giáo dục: từ khả năng tiếp cận thiết bị cần
thiết cho việc học trực tuyến, và các môi trường hỗ trợ cần thiết để tập trung
vào việc học, cho đến sự lệch lạc giữa các nguồn lực và nhu cầu. Những học
sinh có hoàn cảnh xuất thân đặc biệt, được cha mẹ ủng hộ, ham học hỏi và có
khả năng học hỏi, có thể vượt qua những cánh cửa trường học đóng kín để
tìm đến những cơ hội học tập khác thay thế, tuy nhiên, những học sinh có
hồn cảnh khó khăn thường rất vất vả khi tìm kiếm cơ hội học tập hay thậm
chí là bỏ học đi làm phụ giúp gia đình khi trường học đóng cửa.
Quan trọng là, những gián đoạn và bất bình đẳng trong giáo dục này sẽ
khơng chỉ là vấn đề ngắn hạn, cần có những chính sách cụ thể để giải quyết
những vấn đề nảy sinh và hơn thế là dự phòng cho mọi trường hợp có thể xaỷ
ra trong tương lai (thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh,...).
Các em học sinh ở bậc học Trung học cơ sở (THCS) là những em
thường là từ 11 đến 15 tuổi, lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan
trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi
thơ sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau
như: “thời kỳ quá độ“, “tuổi khó bảo“, “tuổi khủng hoảng “, “tuổi bất trị “...
Trong những giai đoạn phát triển của con người, lứa tuổi này có một vị trí và
ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp nhất, và cũng
là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bước trưởng thành sau này.
Các em ở tuổi này cần được tiếp cận với chương trình giáo dục một cách đầy
đủ để sức khỏe thể chất, tinh thần cùng với trí tuệ phát triển tốt. COVID-19
xuất hiện cùng với việc đóng cửa trường học đã giáng một địn mạnh mẽ vào
cơ hội tiếp cận giáo dục của các em.
2
Vào tháng 5 năm 2021, dịch bệnh quay lại và bắt đầu bùng nổ ở Bắc
Ninh, Bắc Giang, Đà Nẵng,... Nhận thấy các ca bệnh có yếu tố dịch tễ phức
tạp, F1, F2 ở nhiều nơi, ngày 9-5, Sở Giáo dục và Đào tạo Cần Thơ đã họp
triển khai việc cho toàn bộ học sinh nghỉ học từ ngày 10-5 để phịng chống
dịch COVID-19. Sau 7 tháng, tình hình dịch COVID - 19 ở thành phố Cần
Thơ vẫn khơng có dấu hiệu “hạ nhiệt” khi tính từ ngày 08/7/2021 đến ngày
05/12/2021 là 30.794 ca, 235 ca tử vong và có 14.245 F0 đang cách ly điều
trị tại nhà [22]. Các trường hợp F0 ở Cần Thơ được phát hiện liên tục, vì vậy
việc cho học sinh quay trở lại trường học trở nên rất khó khăn. Tuy nhiên,
đóng cửa trường học kéo dài dẫn đến nhiều ảnh hưởng không chỉ đối với phụ
huynh khi phải sắp xếp, tổ chức lại cuộc sống để trơng con, mà cịn tác động
đến cả học sinh bởi khơng phải em nào cũng có cơ hội tiếp cận chương trình
giáo dục trực tuyến. Việc này gây ra bất bình đẳng giáo dục và ảnh hưởng
trực tiếp đến cơ hội tiếp cận giáo dục của trẻ em.
Với tất cả các lý do trên, người làm tiểu luận lựa chọn đề tài “Ảnh
hưởng của đại dịch COVID-19 đến cơ hội tiếp cận giáo dục của học sinh
THCS (Nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Cần Thơ)” nhằm làm rõ ảnh
hưởng của đại dịch COVID - 19 đến giáo dục, mà cụ thể hơn là cơ hội tiếp
cận giáo dục của trẻ em THCS trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
II.
Tổng quan nghiên cứu
II.1. Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến các khía cạnh cuộc
sống
Đại dịch COVID-19 đã dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng về con người,
kinh tế, xã hội trên toàn thế giới và đặt ra thách thức chưa từng có đối với sức
khỏe cộng đồng, hệ thống cung ứng thực phẩm, việc làm và rất nhiều khía
cạnh khác trong cuộc sống.
II.1.1. Ảnh hưởng của dịch COVID-19 đến kinh tế
3
Các nghiên cứu trên thế giới cũng đã chỉ ra rất rõ ảnh hưởng của đại
dịch COVID-19, như ở Indonesia, tổng sản phẩm quốc nội năm 2020 đã giảm
2,2 triệu IDR (157,3 USD) trên cơ sở bình quân đầu người - mức giảm đầu
tiên tính theo đồng Rupiah từng được ghi nhận. Thu nhập cá nhân (tính theo
tiêu dùng) giảm trung bình 2,6% sau khi điều chỉnh theo lạm phát. Kéo theo
đó là tỷ lệ thất nghiệp, nghèo đói. Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng 2,7 triệu trong
năm 2020 tính đến tháng 8, lên gần 10 triệu người (BPS, 2020a). Hàng triệu
người khác đang làm việc trong thời gian quá ít giờ hoặc được trả q ít.
Tình trạng nghèo đói đã tăng thêm 2,8 triệu người trong năm 2020 tính đến
tháng 9 (BPS, 2021c). Tổng cộng, 27,6 triệu người đang sống dưới mức
nghèo quốc gia khoảng 458.947 IDR (31,8 USD) trên đầu người mỗi tháng.
Tỷ lệ hộ nghèo tăng vọt lên 10,2% (BPS, 2021c), lần đầu tiên đạt mức hai con
số kể từ năm 2017; vẫn cao hơn ở khu vực nông thôn, ở mức 13,2%. 74,3%
được phỏng vấn từ tháng 10 đến tháng 11 năm 2020 cho biết họ kiếm được ít
hơn so với mức thu nhập của tháng 1 năm 2020. Tỷ lệ hộ có thu nhập thấp
hơn ở nhóm có con (75,3%) và ở thành thị cao hơn một chút (78,3%). Các hộ
gia đình thành thị cũng bị giảm thu nhập nhiều hơn so với các hộ gia đình
nơng thơn. Nhiều hộ gia đình trước đây được đảm bảo về kinh tế ở mức trung
bình của phân phối thu nhập đã trở nên nghèo hoặc có nguy cơ trở nên nghèo.
Một nửa số hộ gia đình (51,5%) khơng có tiền tiết kiệm. Hơn một phần tư
(27,3%) đang cầm đồ để tồn tại. Một phần tư (25,3%) đã vay tiền khơng
chính thức từ gia đình hoặc bạn bè. Đối với nhiều hộ gia đình, kinh doanh
nhỏ là một nguồn thu nhập quan trọng[18].
Sự gián đoạn kinh tế do đại dịch gây ra rất tàn khốc: hàng chục triệu
người có nguy cơ rơi vào cảnh nghèo cùng cực. Hàng triệu doanh nghiệp phải
đối mặt với một mối đe dọa hiện hữu. Gần một nửa trong số 3,3 tỷ lực lượng
lao động tồn cầu của thế giới có nguy cơ mất kế sinh nhai. Người lao động
trong khu vực kinh tế phi chính thức đặc biệt dễ bị tổn thương vì đa số khơng
4
được bảo trợ xã hội và không được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe có
chất lượng và mất khả năng tiếp cận với các tài sản sản xuất [21].
Ở Việt Nam, ILO đã có một bản báo cáo về tác động của đại dịch
COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong một số ngành kinh tế
chính và 1/4 doanh nghiệp tham gia khảo sát đã phá sản hoặc tạm ngừng kinh
doanh, khoảng 2/3 số doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp cắt giảm chi phí
lao động. Đối với các doanh nghiệp vẫn hoạt động, các biện pháp giảm chi
phí như cho người lao động nghỉ việc không lương hoặc giảm giờ làm đã tác
động đến trên 30% người lao động. Hơn một nửa số doanh nghiệp lo ngại sẽ
phải đóng cửa nếu cuộc khủng hoảng kéo dài thêm 3 tháng nữa. Ngoài ra,
60,3% doanh nghiệp cho biết việc khách hủy đơn hàng là một trong những
tác động lớn nhất tới doanh nghiệp nhất là khi nhiều khách hàng đã chậm
thanh toán cho các đơn hàng đã hoàn thành, yêu cầu giảm giá hoặc từ chối chi
trả dựa trên điều khoản về tình huống bất khả kháng trong các hợp đồng kinh
doanh.
II.1.2. Ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến xã hội
Ở Indonesia, bất bình đẳng giới ngày càng gia tăng khi phụ nữ đảm
nhận thêm trách nhiệm chăm sóc. Các bà mẹ có xu hướng chăm sóc con cái
cao hơn ba lần so với các ông bố: 71,5% hộ gia đình cho biết mẹ là người dẫn
đầu trong việc hỗ trợ con cái đi học tại nhà so với chỉ 22% hộ gia đình cho
rằng đó là cha. Một nửa trong số những phụ nữ này cũng tham gia vào công
việc được trả lương để hỗ trợ gia đình của họ. Họ đang phải vật lộn để tìm
sự cân bằng giữa cơng việc và những trách nhiệm bổ sung do trường học
đóng cửa [18].
Một báo cáo nghiên cứu mới của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại
Việt Nam cho thấy đại dịch COVID-19 không chỉ làm hằn sâu những bất bình
đẳng hiện hữu mà cịn tạo thêm những bất bình đẳng giới mới.Đại dịch đã
gây nên hệ quả là tổng số thời giờ làm việc sụt giảm đáng kể trong quý II
5
năm 2020 và mới chỉ được phục hồi trong nửa cuối năm. Phụ nữ là đối tượng
phải chịu tổn thất về thời giờ làm việc nặng nề nhất. Tổng số giờ làm hàng
tuần của phụ nữ trong quý II năm 2020 chỉ bằng 88,8% tổng số giờ làm của
họ trong quý IV năm 2019, con số này ở nam giới là 91,2% trong khi việc
làm của phụ nữ đã giảm 5% năm 2020, trong khi mức giảm việc làm của nam
giới là 3,9%. Cuộc khủng hoảng COVID -19 cũng tác động đặc biệt nghiêm
trọng tới phụ nữ. Tỷ lệ phụ nữ rời khỏi thị trường lao động và khơng cịn hoạt
động kinh tế còn lớn hơn nữa. Việc phải gánh vác thêm những trách nhiệm
gia đình do các biện pháp phong tỏa trong khủng hoảng cũng gây ra rất nhiều
áp lực với nữ giới [2].
Tình trạng mất an ninh lương thực trong các nhóm yếu thế cần được
quan tâm. Gần một phần ba (30%) số người được hỏi lo lắng rằng họ khơng
thể ni sống gia đình. Tỷ lệ hộ gia đình đối mặt với tình trạng mất an ninh
lương thực ở mức trung bình hoặc nghiêm trọng đã tăng lên 11,7% vào năm
2020. Giảm thu nhập và gián đoạn hệ thống phân phối thực phẩm là những
yếu tố chính gây ra tình trạng mất an ninh lương thực. Nhiều hộ gia đình do
phụ nữ làm chủ hộ (56,7%) cho biết họ khơng có tiền tiết kiệm để giảm bớt
tác động của khủng hoảng so với nam giới (50,6%) [18].
Đại dịch đã và đang ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống lương thực và đã
để lại sự mong manh của nó. Việc đóng cửa biên giới, hạn chế thương mại và
các biện pháp giam giữ đã và đang ngăn cản nông dân tiếp cận thị trường,
bao gồm cả việc mua đầu vào và bán sản phẩm của họ, và công nhân nơng
nghiệp thu hoạch mùa màng, do đó làm gián đoạn chuỗi cung ứng thực phẩm
trong nước và quốc tế và giảm khả năng tiếp cận với các chế độ ăn uống lành
mạnh, an toàn và đa dạng . Đại dịch đã làm mất đi công ăn việc làm và đặt
hàng triệu sinh kế vào nguy cơ. Khi những người trụ cột trong gia đình mất
việc làm, ốm đau và chết, an ninh lương thực và dinh dưỡng của hàng triệu
phụ nữ và nam giới đang bị đe dọa, với những người ở các nước thu nhập
6
thấp, đặc biệt là các nhóm dân cư bị thiệt thịi nhất, bao gồm nơng dân quy
mơ nhỏ và người bản địa, đang ảnh hưởng nặng nề nhất [21].
Theo một báo cáo của UNDP Việt Nam, đối với các hộ gia đình dễ tổn
thương ở Việt Nam, 52,5% số hộ gặp tình trạng phải giảm số bữa ăn trong
ngày hoặc giảm khẩu phần ăn trong bữa, trong đó, 17,7% số hộ giảm số bữa
ăn trong ngày và 51,2% số hộ giảm khẩu phần ăn trong bữa. Vấn đề liên quan
là, 48,7% hộ gia đình cảm thấy q khó khăn trong việc mua sắm lương thực
và nhu yếu phẩm, chủ yếu do nguồn cung bị gián đoạn do dịch COVID-19
bùng phát và dẫn đến việc phong tỏa và đóng cửa nhiều cửa hàng. Tình trạng
thiếu lương thực rất phổ biến các hộ gia đình dễ bị tổn thương, bao gồm
những người đã khơng có việc làm, bị sa thải trong nhiều tháng, đặc biệt là
người di cư. Tình hình nghiêm trọng hơn ở các hộ gia đình có con nhỏ khi
nhu cầu phát triển khác với cha mẹ, những người lớn trong nhà [6].
Các hộ gia đình có trẻ em đang tiếp cận ít dịch vụ y tế hơn — một lý
do chính là sợ nhiễm COVID-19. Hơn 1/10 số hộ gia đình có trẻ em dưới 5
tuổi cho biết họ đã không đưa con đi tiêm chủng kể từ tháng 4 năm 2020.
Việc đóng cửa trường học, cơ lập xã hội kết hợp với những bất ổn kinh tế
cũng đang khiến trẻ em gặp nhiều rủi ro khác. Cuộc khảo sát này cho thấy
45% hộ gia đình cho biết con cái của họ có những thách thức về hành vi.
Trong số đó, 20,5% cho biết trẻ em khó tập trung hơn; 12,9% đang trở nên
tức giận hơn; và 6,5% cảm thấy khó ngủ[18].
Tại các quốc gia có hệ thống y tế yếu kém, COVID-19 đang làm gián
đoạn chuỗi cung ứng y tế và áp lực cho nguồn tài chính và nhân lực. Mọi
người ít đến các trung tâm y tế vì xã hội cách ly, phong tỏa và phương tiện đi
lại bị gián đoạn. Người dân ở cộng đồng vẫn cịn lo sợ lây nhiễm. Trong một
bình luận cho báo cáo Lancet, UNICEF cảnh báo những gián đoạn này có thể
làm tăng tử vong bà mẹ và trẻ em. Một nghiên cứu được đăng trên tạp chí
Lancet đã cảnh báo rằng trong tình huống nghiêm trọng nhất, khi mức bao
7
phủ dịch vụ y tế giảm 15%, thì có thể tăng 9,8% tử vong trẻ em dưới 5 tuổi,
hoặc 1.400 trẻ mỗi ngày, và tăng 8.3% tử vong bà mẹ. Trong tình huống xấu
nhất, khi can thiệp y tế giảm 45%, thì có thể tăng 44,7% số trẻ em dưới 5 tuổi
tử vong và tăng 38,6% bà mẹ tử vong mỗi tháng. Số trẻ em tử vong thêm lớn
nhất là do tăng số trẻ em bị suy dinh dưỡng thể cịi cọc, có thể do các tác
động bên ngồi cả hệ thống y tế, và giảm sút trong điều trị nhiễm trùng trước
sinh và viêm phổi [8]. Ngoài ra, UNICEF còn quan ngại về những tác động
dây chuyền của đại dịch đối với trẻ em khi 40% dân số thế giới khơng có đủ
điều kiện rửa tay bằng xà phịng và nước sạch tại nhà, 370 triệu trẻ em tại
143 quốc gia thường vẫn ăn tại trường để duy trì nguồn dinh dưỡng hàng
ngày giờ đây phải tìm nguồn thực phẩm khác vì các trường học đều đóng cửa
và hơn 117 triệu trẻ em ở 37 quốc gia có thể khơng được tiêm phịng vắc-xin
sở vì đại dịch khiến cho các chiến dịch tiêm chủng phải tạm dừng để tránh
nguy cơ lây lan dịch bệnh[7].
II.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của dịch COVID-19 đến giáo
dục
Trường học rất cần thiết cho việc học tập, sức khỏe, sự an toàn và hạnh
phúc của trẻ em. Các nghiên cứu trên thế giới cũng như Việt Nam đã đưa ra
những con số cụ thể để đánh giá ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến hệ
thống giáo dục.
Gần 3/4 bậc cha mẹ lo lắng về tình trạng học hành sa sút do việc học
hành của con cái họ bị gián đoạn. Việc tiếp cận với Internet đáng tin cậy là
một trở ngại lớn đối với việc trẻ em học ở nhà thành công, với 57,3% hộ gia
đình có con cho biết đây là một mối lo ngại lớn. Các hộ gia đình nơng thơn và
nghèo hơn phải đối mặt với nhiều vấn đề về internet và hạn chế về thiết bị
hơn so với các hộ gia đình giàu có và thành thị. Nhiều phụ huynh cho biết họ
khơng có đủ thời gian (28,7%) và / hoặc không đủ năng lực (25,3%) để hỗ trợ
con học ở nhà[18].
8
Trên toàn cầu, 214 triệu học sinh mầm non đến trung học phổ thông ở
23 quốc gia đã bỏ lỡ ít nhất 3/4 thời gian giảng dạy trên lớp. Học sinh tiểu
học chiếm phần lớn trong số học sinh trên thế giới, vì vậy chúng cũng chiếm
đa số trong số những học sinh bỏ lỡ ít nhất 3/4 thời gian giảng dạy trên lớp
(105 triệu), tiếp theo là học sinh trung học cơ sở (53 triệu). Trong số 214 triệu
học sinh này, 78% đã bỏ lỡ gần như toàn bộ thời gian giảng dạy trực tiếp trên
lớp. Trên toàn cầu, 168 triệu học sinh ở 14 quốc gia đã bỏ lỡ tất cả các buổi
hướng dẫn trực tiếp trong lớp học kể từ tháng 3 năm 2020. Brazil,
Bangladesh, Mexico và Philippines có số lượng học sinh lớn nhất bị ảnh
hưởng bởi việc đóng cửa tồn bộ trường học này. Đối với những trẻ em dễ bị
tổn thương nhất, việc đóng cửa trường học đã tước đi một bữa ăn dinh dưỡng
mỗi ngày của các em; trẻ em sống trong môi trường gia đình bạo lực hoặc rối
loạn chức năng dựa vào trường học để cung cấp một môi trường nuôi dưỡng,
an toàn cũng đã bị loại khỏi mạng lưới an tồn này. Ở nhiều quốc gia, trường
học cũng đóng vai trò thiết yếu trong việc tiêm chủng và hỗ trợ sức khỏe[17].
Các nghiên cứu khác đã chỉ ra, ít nhất cứ mỗi bảy trẻ thì có một trẻ bị
ảnh hưởng trực tiếp bởi giãn cách xã hội. Hơn 1,6 tỷ trẻ em đã phải chịu một
số mất mát về giáo dục, với ít nhất 463 triệu trẻ em khơng thể tiếp cận với
chương trình học từ xa. Vào tháng 7 năm 2021 - hơn 18 tháng sau cuộc khủng
hoảng, UNICEF ước tính rằng hai trong số năm trẻ em ở Đơng và Nam Phi
phải nghỉ học vì đại dịch. Đối với trẻ em, việc đóng cửa làm mất đi thói quen
thoải mái ở trường học, thể thao, giải trí và bạn bè cũng như các cơ hội để
phát triển xã hội và tình cảm.
Những mất mát trong học tập liên quan đến đại dịch có thể dẫn đến hậu
quả tiêu cực kép cho thế hệ học sinh này bằng cách làm tổn hại đến quỹ đạo
học tập trong tương lai của trẻ em. Nếu trẻ em bị mất các nền tảng cơ bản cần
thiết cho việc học trong tương lai trong thời gian trường đóng cửa và khơng
được giúp đỡ để khôi phục chúng, việc học sẽ tiếp tục với tốc độ chậm hơn
9
trước. Số lượng trường học đóng cửa đã ảnh hưởng đến 1,6 tỷ trẻ em ở 188
quốc gia, 23 với hơn một tỷ trẻ em trong số này sống ở các nước có thu nhập
thấp và trung bình. Ngồi ra trẻ em trên khắp thế giới đã trải qua những mất
mát đáng kể về kiến thức trong học tập [15].
Ở Việt Nam, trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, việc
học trực tuyến là giải pháp bắt buộc khi học sinh không thể đến trường và
việc này đã làm tăng chi phí giáo dục lên rất nhiều. Học sinh học trực tuyến
cần có đủ các thiết bị như máy tính, loa, tai nghe có micro, máy in. Với
những gia đình có hai con nếu học cùng buổi thì đồng nghĩa với việc phải có
hai bộ thiết bị để học như vậy. Vì thế, đại đa số gia đình điều kiện kinh tế eo
hẹp, lựa chọn khả thi nhất là mua cho con chiếc điện thoại thông minh giá rẻ.
Nhưng dù rẻ thì mỗi chiếc điện thoại có đủ chức năng để học trực tuyến cũng
không rẻ đối với những gia đình thuộc diện cận nghèo hay hộ nghèo.Ngồi
ra, việc chuyển sang giảng dạy trực tuyến khiến toàn bộ chương trình đào tạo
của ngành đã bị xáo trộn, gây phát sinh thêm nhiều chi phí để xây dựng, thiết
kế lại chương trình. Đó là chưa kể cịn các chi phí cho cơng tác tiêu độc, khử
trùng, phịng, chống dịch bệnh trong nhiều tháng qua và các chi phí khác chưa
thống kê hết được [23].
Như vậy, các nghiên cứu đi trước ở Việt Nam và trên thế giới đều đã
chỉ ra những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến các mặt đời sống xã hội
nói riêng và với giáo dục nói chung. Đặc biệt hiện nay, với diễn biến phức tạp
của đại dịch COVID-19 thì nghiên cứu đến cơ hội tiếp cận giáo dục của các
em học sinh cũng như ảnh hưởng COVID-19 đến cơ hội này của các em và
đưa ra những biện pháp khắc phục nhằm đảm bảo công bằng trong tiếp cận
giáo dục đến tất cả các em học sinh. Điều này chưa có nghiên cứu nào đi sâu
đề cập. Vì vậy, người nghiên cứu đã lựa chọn đề tài này để triển khai thực
hiện.
III.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
10
III.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến cơ hội tiếp
cận giáo dục của học sinh THCS ở thành phố Cần Thơ, từ đó đánh giá những
hạn chế trong cách thức vận hành hệ thống giáo dục thời kỳ dịch bệnh và đưa
ra những biện pháp khắc phục những hạn chế đó nhằm đảm bảo cơ hội tiếp
cận giáo dục của học sinh hiện nay.
III.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
● Phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
● Phân tích và làm rõ lý luận về tiếp cận giáo dục, cơ hội tiếp cận
giáo dục của học sinh, bất bình đẳng trong giáo dục trong bối cảnh dịch bệnh
● Phân tích thực trạng tiếp cận giáo dục của học sinh trong bối cảnh
dịch COVID-19
● Phân tích những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến cơ hội tiếp
cận giáo dục của học sinh THCS ở thành phố Cần Thơ
● Đánh giá những hạn chế trong cách thức vận hành hệ thống giáo
dục thời kỳ dịch bệnh
● Đề xuất giải pháp khắc phục những hạn chế trong cách thức vận
hành hệ thống giáo dục thời kỳ dịch bệnh
IV.
Giả thuyết nghiên cứu
● Những em học sinh có hồn cảnh khó khăn chưa có sự chuẩn bị tốt
cho việc học trực tuyến, thậm chí là khơng thể chuẩn bị các thiết bị, cơ sở vật
chất cần thiết.
● Những em học sinh có hồn cảnh khó khăn bị buộc thơi học để
tham gia kiếm tiền phụ giúp gia đình do ảnh hưởng dịch Covid dẫn đến điều
kiện kinh tế trong gia đình trở nên khó khăn.
11
● Những em học sinh tại vùng nông thôn không có điều kiện đáp ứng
đủ các thiết bị phục vụ việc học tập như những học sinh khu vực thành thị.
V.
Đối tượng, phạm vi, khách thể nghiên cứu
V.1. Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến cơ hội tiếp cận giáo dục của
học sinh các trường THCS ở thành phố Cần Thơ
V.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: tháng 11/2021 - tháng 05/2022
Phạm vi không gian: thành phố Cần Thơ
V.3. Khách thể nghiên cứu
Các em học sinh tại các trường THCS trên địa bàn thành phố Cần Thơ
VI.
Khung phân tích và Biến số
V.1. Biến số
Biến độc lập: Giới tính, Khối học, Trường học, Khu vực sinh sống,
Điều kiện gia đình, Nghề nghiệp của bố/mẹ, Học vấn của bố/mẹ,….
Biến phụ thuộc: Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến cơ hội tiếp
cận giáo dục của học sinh THCS trên địa bàn thành phố Cần Thơ
Biến can thiệp: Các yếu tố kinh tế - văn hóa - xã hội và Các chính
sách của Đảng và Nhà nước, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục,…
V.2. Khung phân tích
VII.
Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
VII.1. Lý thuyết áp dụng
VII.1.1. Lựa chọn hợp lý
12
Thuyết lựa chọn duy lý trong xã hội học có nguồn gốc từ triết học, kinh
tế học và nhân học thế kỷ 18 – 19. Một số nhà triết học đã từng cho rằng bản
chất con người à vị kỷ, ln tìm đến sự hài lịng, sự thỏa mãn và lảng tránh
nỗi khổ đau. Một số nhà kinh tế học cổ điển từng nhấn mạnh vai trò, động cơ
lợi nhuận khi còn người phải ra quyết định lựa chọn hành động.
Thuyết lựa chọn duy lý dựa vào tiền đề cho rằng con người ln hành
động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng nguồn lực
một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Theo
Max, mục đích tự giác của con người như là quy luật quyết định tồn bộ cấu
trúc, nội dung, tính chất, phương pháp của hành động và ý chí của con người.
Thuật ngữ “lựa chọn” được sử dụng để nhấn mạnh việc phải cân
nhắc, tính tốn để quyết định sử dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu
trong số những điều kiện hay cách thức hiện có để đạt được mục tiêu trong
điều kiện khan hiếm các nguồn lực. Phạm vi của mục đích đây khơng chỉ có
yếu tố vật chất (lãi, lợi nhuận, thu nhập) mà cịn có cả yếu tố lợi ích xã hội và
tinh thần.
Hành vi lựa chọn là một trong những biến thể của lý thuyết trao đổi
xã hội do G. Homans khởi xướng vào những năm 50 của thế kỷ XX. Theo
Homans, hành vi xã hội cơ bản là hành vi mà con người lặp đi lặp lại khơng
phụ thuộc vào việc đó có được ý thức hay khơng. Chúng có nhiều hình thức:
phản xạ có điều kiện, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen. Hành vi xã hội cơ bản là cơ
sở của sự trao đổi giữa hai hay nhiều người.
Con người ln tính tốn giữa mức độ của giá trị và tính khả thi
của hành động. Điểm cần lưu ý, tính hợp lý chỉ được xét từ góc độ nhận
thức chủ quan của người hành động. Đây là luận điểm cốt lõi của tâm lý học
hành vi. Mặt khác, giá trị của kết quả, phần thưởng, sự mong đợi của cá nhân
bắt nguồn từ những chuẩn mực xã hội, từ phong tục tập quán, truyền thống
của xã hội trong đó cá nhân sống. Điều này giúp cho thuyết của Homans
13
tránh được hạn chế của duy lý kinh tế vì cho rằng hành vi của con người bị
chi phối bởi các yếu tố văn hóa, tinh thần.
Trong quan điểm của Homans, có sự tương thích rõ ràng giữa các hành
vi duy lý với các định đề của tâm lý học hành vi, từ đó ơng đưa ra một số các
định đề cơ bản của hành vi người. Trong đó, định đề duy lý chỉ viêc cá nhân
sẽ lựa chọn hành động nào mà giá trị của kết quả và khả năng đạt được kết
quả của hành động đó là lớn nhất. . Xét trong một hành vi xã hội cụ thể thì
chúng đều có thể giải thích theo khía cạnh lựa chọn hợp lý. Homans cũng
cho rằng, lợi ích và nhu cầu của chủ thể là yếu tố khởi điểm cho mọi hành
động. Vì thế, con người ln ln có xu hướng tối đa hóa hoặc nhân bội kết
quả giá trị của hành động. Điều này đồng nghĩa với việc con người sẽ quyết
định lựa chọn một hành động nào đó ngay cả khi giá trị của nó thấp, nhưng
ngược lại tính khả thi cao. Tuy nhiên, cần thấy rằng sự lựa chọn chỉ trở thành
hợp lý khi chủ thể phải đánh giá các yếu tố, các điều kiện khách quan của
hành động một cách chính xác [5]
Như vậy, lý thuyết chọn lựa duy lý của Homans chủ yếu đề cập đến
hành vi cá nhân và tương tác xã hội ở cấp độ vĩ mô. Việc áp dụng lý thuyết
sự lựa chọn hợp lý vào nghiên cứu cơ hội tiếp cận giáo dục của học sinh
THCS trong bối cảnh dịch bệnh giúp người nghiên cứu có thể phân tích
những tác động của COVID-19 đến hành vi tham gia vào hệ thống giáo dục
của các em học sinh, những tác động của dịch bênh, đóng cửa trường học đến
việc quyết định học tiếp hay không. Trong rất nhiều cách tiếp cận giáo dục
trong bối cảnh dịch bệnh, các em chọn cách nào và đứng trước khó khăn về
kinh tế đời sống như vậy, các em cần lựa chọn như thế nào để đảm bảo cơ hội
tiếp cận giáo dục của mình.
VII.1.2. Lý thuyết nhu cầu
Maslow đã xây dựng học thuyết về nhu cầu của con người vào
những năm 1950. Thuyết nhu cầu nhằm giải thích những nhu cầu nhất
14
định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng
đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần. Lý thuyết
nhu cầu giúp cho sự hiểu biết về những nhu cầu của con người bằng cách
nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu. Maslow đã đem các loại nhu
cầu khác nhau của con người, căn cứ theo tính địi hỏi của nó và thứ tự phát
sinh trước sau của chúng để quy về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu
cầu của con người tư thấp đến cao bao gồm:
Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con
người như nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục.
Đây là nhu cầu cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất
của con người. Nếu thiếu những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn
tại được. Đặc biệt là với trẻ em vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào người lớn
để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản này. Maslow quan niệm rằng,
khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì
cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ không thể tiến thêm
nữa.
Nhu cầu về an tồn hoặc an ninh: An ninh và an tồn có nghĩa là một
mơi trường khơng nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh
của con người. Nhu cầu này chỉ ra an toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản
nhất, là tiền đề cho các nội dung khác như an tồn lao động, an tồn mơi
trường, an toàn nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn
tâm lý, an toàn nhân sự,… Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến
của con người. Để sinh tồn con người tất yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu
cầu về sự an tồn. Nhu cầu an tồn nếu khơng được đảm bảo thì cơng việc
của mọi người sẽ khơng tiến hành bình thường được và các nhu cầu khác sẽ
khơng thực hiện được. Do đó chúng ta có thể hiểu vì sao những người
phạm pháp và vi phạm các quy tắc bị mọi người căm ghét vì đã xâm
phạm vào nhu cầu an toàn của người khác.
15
Nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận (tình yêu và sự chấp nhận):
Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ bị
cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng tin,
lòng trung thành giữa con người với nhau. Nội dung của nhu cầu này phong
phú, tế nhị, phức tạp hơn. Bao gồm các vấn đề tâm lý như: Được dư luận xã
hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận, tán thưởng, ủng hộ, mong muốn được
hịa nhập, lịng thương, tình u, tình bạn, tình thân ái là nội dung cao nhất
của nhu cầu này. Lòng thương, tình bạn, tình yêu, tình thân ái là nội dung
lý lưởng mà nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận ln theo đuổi. Nó thể
hiện tầm quan trọng của tình cảm con người trong quá trình phát triển của
nhân loại.
Nhu cầu được tôn trọng: Nhu cầu được người khác tơn trọng gồm khả
năng giành được uy tín, được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh
dự,… Tôn trọng là được người khác coi trọng, ngưỡng mộ. Khi được
người khác tơn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách để làm tốt cơng việc được
giao. Do đó nhu cầu được tôn trọng là điều không thể thiếu đối với mỗi con
người.
Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất
trong cách phân cấp về nhu cầu của ơng. Đó là sự mong muốn để đạt tới,
làm cho tiềm năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành
được mục tiêu nào đó. Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức
(học hỏi, hiểu biết, nghiên cứu,…) nhu cầu thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài,
…), nhu cầu thực hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân.
Dịch bệnh COVID-19 bùng phát và lan nhanh khiến các trường học
đóng cửa, ảnh hưởng cơ hội tiếp cận giáo dục của học sinh nói chung và học
sinh ở thành phố Cần Thơ nói riêng. Điều này làm ảnh hưởng đến nhu cầu về
nhận thức của học sinh, tức là làm ảnh hưởng đến nhu cầu phát huy bản ngã
của các em.
16
VII. 2. Khái niệm liên quan
VII.2.1. Đại dịch COVID-19
Theo Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật (CDC), COVID-19 (bệnh vi-rút
corona 2019) là một bệnh do vi-rút có tên SARS-CoV-2 gây ra và được phát
hiện vào tháng 12 năm 2019 ở Vũ Hán, Trung Quốc. Căn bệnh này rất dễ lây
lan và đã nhanh chóng lan ra khắp thế giới. COVID-19 thường gây ra các
triệu chứng hơ hấp, có thể cảm thấy giống như cảm lạnh, cúm hoặc viêm
phổi. COVID-19 có thể tấn công không chỉ phổi và hệ hô hấp của quý vị. Các
bộ phận khác của cơ thể quý vị cũng có thể bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này.
Dịch bệnh COVID-19 xuất hiện lần đầu vào khoảng cuối tháng 11 năm
2019 ở thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc và được cho là có
nguồn gốc từ lồi dơi lây gián tiếp sang người. Sau hơn 2 năm, COVID-19 đã
trở thành dịch bệnh toàn cầu với 273 triệu người mắc và 5,34 triệu người thiệt
mạng [26]. Tại Việt Nam, ngày 23 tháng 01 năm 2020, bệnh viện Chợ Rẫy
(thành phố Hồ Chí Minh) xác nhận 2 bệnh nhân COVID-19 đầu tiên tại Việt
Nam là hai cha con người Vũ Hán. Cho đến nay, Việt Nam, có tất cả hơn
1,49 triệu người nhiễm COVID-19 và gần 29 nghìn người tử vong[25].
Dịch bênh COVID-19, đã gây ảnh hưởng rất rộng đến xã hội nói
chung, kinh tế, văn hóa, sinh thái, chính trị và nhiều lĩnh vực khác, trong đó
có giáo dục.
VII.2.2. Giáo dục:
Có thể hiểu khái niệm giáo dục theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, giáo
dục là sự xã hội hóa con người chỉ dưới những tác động có mục đích và tổ
chức. Với nghĩa hẹp hơn, giáo dục là một bộ phận của quá trình sư phạm, là
quá trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý
tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những tính cách, hành vi, thói quen cư xử
đúng đắn trong xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thể lực[4, tr.5].
17
Theo cách tiếp cận của Xã hội học, giáo dục là một hiện tượng xã hội,
trong đó tập hợp xã hội (nhóm) đã tích lũy được một vốn kinh nghiệm xã hội
nhất định truyền lại cho một nhóm xã hội khác nhằm giúp họ tham gia vào
đời sống xã hội, giúp họ hiểu biết các chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị xã hội
để trở thành những nhân cách phù hợp với sự địi hỏi của lợi ích xã hội [1,
tr.21].
Theo quy định tại Chương II, Luật Giáo dục 1998, hệ thống giáo dục
quốc dân Việt Nam bao gồm các loại hình giáo dục sau:
+ Phân theo cấp học có 4 loại hình:
1. Giáo dục mầm non thưc hiện việc ni dưỡng chăm sóc giáo dục
cho trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi.
2. Giáo dục phổ thông với 3 cấp học gồm: Giáo dục tiểu học (5 năm
bắt buộc từ 6-11 tuổi); Giáo dục THCS (4 năm từ 11-15 tuổi) và Giáo dục
THPT (3 năm từ 15 – 18 tuổi)
3. Giáo dục nghề nghiệp bao gồm: Trung học chuyên nghiệp (2-4
năm); dạy nghề (1-3 năm) và Đào tạo nghề (dười 1 năm)
4. Giáo dục Đại học và sau Đại học gồm: Cao đẳng (3 năm); Đại học
(4- 6 năm) và Sau đại học bao gồm đào tạo Thạc sĩ (2 năm) và đào tạo Tiến sĩ
(2-3 năm)
+ Phân theo cách thức thành lập: trường công lập (trường do nhà nước
đầu tư về kinh phí và cơ sở vật chất. hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các
nguồn tài chính cơng hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi) và trường dân lập
(cơ sở giáo dục có chương trình tuyển sinh và đào tạo tuân theo quy chế của
Bộ Giáo dục và Đào tạo nhưng trường là do cá nhân hoặc tổ chức trong một
nước xin phép thành lập và tự đầu tư. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, khái
niệm giáo dục được hiểu là là một bộ phận của quá trình sư phạm, là quá
trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý tưởng,
18
động cơ, tình cảm, thái độ, những tính cách, hành vi, thói quen cư xử đúng
đắn trong xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thể lực.
VII.2.3. Học sinh THCS
Học sinh THCS thường đang trong tuổi thiếu niên, là giai đoạn phát
triển của trẻ từ 11 - 15 tuổi, các em được vào học ở trường trung học cơ sở (từ
lớp 6 - 9). Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ
phát triển của trẻ em, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng
thành và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá
độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”...
Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang
tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn(người
trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt phát
triển : thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức… của thời kỳ này Ở lứa tuổi thiếu
niên có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn” ,điều này
phụ thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể, sự phát dục, điều kiện sống,
hoạt động…của các em. Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác
biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác nhau của tính “người lớn” - điều
này do hồn cảnh sống, hoạt động khác nhau của các em tạo nên.
VIII. Phương pháp nghiên cứu
VIII.1. Phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu: học sinh
Phương pháp chọn mẫu : Lấy mẫu phân tầng (nhiều giai đoạn)
● Giai đoạn 1 : Chia học sinh các trường THPT thành 2 nhóm gồm
trường cơng lập và trường dân lập
● Giai đoạn 2: Mỗi khối chia thành 3 nhóm : lớp 10, lớp 11 và lớp 12
19
● Giai đoạn 3: Mỗi nhóm năm học lấy danh sách lớp học đánh số từ
1 đến hết. Chọn ngẫu nhiên hệ thống 5 lớp học trong mỗi nhóm năm học đó,
tổng sẽ chọn được 30 lớp.
● Giai đoạn 4: Ở mỗi lớp lấy danh sách lớp đánh số từ 1 đến hết,
chọn ngẫu nhiên đơn giản 40 em học sinh tham gia trả lời
VIII.2. Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp phân tích tài liệu: Thu thập và tổng quan các tài liệu có
sẵn có liên quan và những đề tài nghiên cứu về vai trị của đồn thanh niên
trong tình hình hiện nay, sự thay đổi, tác động của đồn thanh niên đến việc
phịng chống COVID-19, những mặt tích cực, hạn chế để bổ sung cho đề tài.
Phương pháp điều tra chọn mẫu sử dụng bảng hỏi Anket
Điều tra học sinh THCS trên địa bàn thành phố Cần Thơ được lựa chọn
trong các lớp bằng bảng hỏi Anket nhằm thu thập thông tin về thực trạng sử
tiếp cận giáo dục của học sinh THCS trong tình hình dịch và Ảnh hưởng của
COVID-19 đến cơ hội tiếp cận giáo dục của học sinh THCS.
Điều tra bảng hỏi Anket là phương pháp thu thập thông tin hiệu quả
nhất được sử dụng trong nghiên cứu lần này. Vừa phù hợp với khách thể
nghiên cứu là học sinh THCS nhằm thu thập lượng thông tin nhanh, đầy đủ
và hiệu quả, cũng như đảm bảo chi phí tiết kiệm.
20