Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tl xhhyt ảnh hưởng của đại dịch covid 19 đến đời sống kinh tế xã hội của người lao động tại khu vực phi chính thức (nghiên cứu trường hợp tại quận cầu giấy, hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.87 KB, 18 trang )

Phần I: Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.Tác động của dịch Covid 19 trên thế giới
Đánh giá về tác động của Covid 19 đến đời sống kinh tế - xã hội có
nghiên cứu “ Phân tích tác động của COVID-19 đến xã hội và kinh tế của hộ
gia đình và khuyến nghị chính sách chiến lược cho Indonesia” của UNICEF,
UNDP, Prospera, Viện Nghiên cứu SMERU và Văn phòng Thống kê Quốc
gia (BPS) 2021, nghiên cứu tiến hành khảo sát hơn 12000 người thuộc 34
tỉnh thành của Indonesia. Nghiên cứu đánh giá tác động của đại dịch Covid
trên các mặt: tài chính hộ gia đình, bất bình đẳng giới, an ninh lương thực,
giáo dục và chăm sóc sức khỏe trẻ em, trợ giúp xã hội. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, tác động của Covid-19 đối với tài chính gia đình là rất nghiêm
trọng: 74,3% được phỏng vấn từ tháng 10 đến tháng 11 năm 2020 cho biết họ
kiếm được ít hơn so với mức thu nhập của tháng 1 năm 2020. Các chính sách
trợ giúp xã hội đã đến được hầu hết những người dân nhưng không phải tất cả
những người có nhu cầu.Trẻ em đang bỏ lỡ cơ hội được giáo dục và chăm sóc
sức khỏe. Bất bình đẳng giới ngày càng gia tăng khi 71,5% phụ nữ là người
dẫn đầu trong việc hỗ trợ con cái đi học tại nhà so với chỉ 22% hộ gia đình
cho rằng đó là cha và một nửa trong số những phụ nữ này cũng tham gia vào
công việc được trả lương để hỗ trợ gia đình của họ. Tình trạng mất an ninh
lương thực trong các nhóm yếu thế cần được quan tâm.
Trong bài viết đánh giá tác động của COVID-19 đối với sinh kế của
người dân, sức khỏe của họ và hệ thống thực phẩm “Impact of COVID-19 on
people's livelihoods, their health and our food systems” của ILO, FAO, IFAD
và WHO đã cho ta thấy một vấn đề đáng lo ngại về thị trường lao động và
việc làm quan dự báo gần một nửa trong số 3,3 tỷ lực lượng lao động tồn cầu
của thế giới có nguy cơ mất kế sinh nhai, khơng có phương tiện để kiếm thu
nhập trong thời gian bị đóng cửa, nhiều người khơng thể ni sống bản thân
và gia đình của họ. Bài viết cũng chỉ ra rằng đại dịch Covid 19 làm giảm các


hành vi tìm kiếm sức khỏe và tiếp cận đến chăm sóc sức khỏe thiết yếu khi trẻ


em dưới 5 tuổi đến thăm cộng đồng trung tâm y tế giảm 48%, trẻ em tiêm
chủng giảm 75% và phụ nữ mang thai tiếp cận khám thai giảm 20% , vấn đề
giảm các hành vi tìm kiếm sức khỏe và tiếp cận đến chăm sóc sức khỏe có thể
gây nguy hiểm đến tính mạng người dân.
2.Tác động của dịch Covid 19 tại Việt Nam
Việt Nam là một trong số ít các quốc gia kiểm soát tốt dịch Covid-19
ngay từ đầu thời điểm dịch khởi phát ở Trung Quốc (đầu năm 2020). Mặc dù
chúng ta đã đạt được những thành tựu nổi bật trong cơng tác phịng chống
dịch bệnh cũng như đảm bảo kinh tế, an sinh - xã hội, nhưng trong bối cảnh
kinh tế tồn cầu suy thối, các cấu trúc kinh tế và trật tự thế giới có sự điều
chỉnh và thay đổi sâu sắc, chúng ta không tránh khỏi những ảnh hưởng, tác
động tiêu cực đến nền kinh tế, xã hội nói chung, đời sống người dân nói riêng.
Đối với tác động về kinh tế:
Trong “Báo cáo: Tác động của dịch bệnh covid-19 đối với doanh
nghiệp Việt Nam” của VCCI và World Bank Group (2021), nghiên cứu đã chỉ
ra đại dịch Covid 19 có tác động rất tiêu cực đến doanh nghiệp Việt Nam. Cả
khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp
nước ngoài(doanh nghiệp FDI) đều bị ảnh hưởng nặng nề. Trong số các nhóm
doanh nghiệp, đối tượng chịu ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn cả là các doanh
nghiệp mới hoạt động dưới 3 năm và các doanh nghiệp có quy mơ siêu nhỏ,
nhỏ. Về mặt địa lý, hoạt động sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, suy giảm
nhiều hơn với doanh nghiệp tư nhân ở các khu vực Duyên hải miền Trung
(91% doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực) và các doanh nghiệp FDI đang
hoạt động tại khu vực Tây Nguyên (94% doanh nghiệp). Những tỉnh, thành
phố có tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân chịu ảnh hưởng tiêu cực cao nhất là Đà
Nẵng (98%), Kon Tum và Khánh Hoà (95%).


Nghiên cứu “Tác động của đại dịch Covid - 19 đến hoạt động kinh tế
tại Việt Nam” của Th.s Nguyễn Hoàng Nam (2021), nghiên cứu đã cho thấy

một bức tranh toàn cảnh về nền kinh tế Việt Nam trong năm 2020 và các
tháng đầu năm 2021 qua một số chỉ báo. Kết quả nghiên cứu cho thấy, Covid19 gây ra tác động tiêu cực đến giá vàng, giá dầu, và ngược lại, Covid-19 lại
cho thấy những tác động tích cực đến tỷ giá hối đoái, giá bạc, giá đồng. Đối
với chỉ số VN-Index, nghiên cứu không nhận thấy tổng số ca nhiễm có tác
động, cịn thơng tin về tổng số ca tử vong lại cho ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ
số này. Ngồi ra, thị trường chứng khốn vừa là kênh giao dịch, vừa là kênh
đầu tư, thu hút vốn nước Ngoài hiệu quả vào Việt Nam. Thời gian gần đây,
tình trạng nghẽn lệnh do quá tải hệ thống đã ảnh hưởng không tốt đến chất
lượng giao dịch của nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư nói riêng. COVID-19
gây tác động tiêu cực khi thông tin về tổng số ca tử vong ảnh hưởng đến điểm
số thị trường.
Đối với các vấn đề xã hội:
Về vấn đề thu nhập, việc làm: trong nghiên cứu “Đánh giá nhanh tác
động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong một
số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi” năm
2020, đánh giá tác động của đại dịch đối với người lao động và doanh nghiệp
trong các lĩnh vực dệt may, du lịch, điện tử, chế biến hải sản và chế biến gỗ
tại Việt Nam. Thông qua nghiên cứu cho thấy 1/4 doanh nghiệp tham gia
khảo sát đã phá sản hoặc tạm ngừng kinh doanh. Khoảng 2/3 số DN đã áp
dụng các biện pháp cắt giảm chi phí lao động, đa số doanh nghiệp (63,4%
trong khảo sát DN và 54,1% trong khảo sát NLĐ) đưa ra quyết định cắt giảm
chi phí lao động một cách đơn phương hoặc chỉ tham vấn với quản lý bộ
phận, chỉ có 15,5% người sử dụng lao động (NSDLĐ) tham vấn cơng đồn cơ
sở (CĐCS )và 4,1% NLĐ được CĐCS đại diện trong thương lượng với
NSDLĐ trong quá trình điều chỉnh về nhân sự. Đối với người lao động, tác


động đối với lao động nữ và gia đình rất nặng nề. Có 83% lao động nữ cho
biết họ bị giảm thu nhập hoặc mất việc làm; trong số đó 32,3% là người kiếm
tiền chính hoặc duy nhất trong gia đình. Lao động di cư gặp phải thách thức

kép: một mặt thu nhập và việc làm của họ bị đe dọa (87,9% NLĐ di cư đã mất
việc hoặc giảm lương); mặt khác họ bị chia cắt khỏi gia đình ở quê hương vì
các biện pháp giãn cách xã hội và phong tỏa.
Cùng đề cập đến vấn đề thu nhập và việc làm, nghiên cứu “ Tác động
của dịch Covid-19 đến kinh tế xã hội TP.HCM và đề xuất chính sách thúc đẩy
đà tăng trưởng cho năm 2020” của tác giả Hồ Thiện Thơng Minh và Nguyễn
Hồng Tiến – Đại học Quốc tế Sài Gòn (2020), kết quả cho thấy dịch bệnh đã
ảnh hưởng đến kế hoạch nhân sự của một số lĩnh vực như vận tải, giáo dục,
dịch vụ lưu trú, du lịch. Đối với các doanh nghiệp có quy mô lao động từ 100
người trở lên, hầu hết đều vẫn hoạt động bình thường đến thời điểm tháng
3/2020, một số ít chọn phương án giảm giờ (giảm tăng ca) làm nhằm giữ chân
người lao động khi tình hình dịch bệnh chấm dứt để không thiếu hụt nhân lực
cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Có 25,15% doanh nghiệp được khảo sát
dự kiến cắt giảm lao động trong thời gian tới khi tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh tiếp tục bị tác động do tình hình dịch bệnh. Hình thức cắt giảm lao
động chủ yếu là giảm giờ làm việc (46,34%), tạm thời cho người lao động
nghỉ việc không hỗ trợ tiền lương (19,5%), tạm thời cho người lao động nghỉ
việc có hỗ trợ tiền lương (29,16%) và cho lao động thôi việc (5%).
Trong “Báo cáo tác động của dịch Covid 19 đến tình hình lao động,
việc làm quý I năm 2021” của Tổng cục Thống kê đã chỉ ra: Hiện nay, cả
nước vẫn còn 9,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch
Covid-19. Mặc dù dịch bệnh bùng phát nhưng thu nhập bình quân của người
lao động quý I 2021 vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước ở cả ba khu vực kinh
tế. Báo cáo cũng chỉ ra sự chênh lệch trong thu nhập bình quân tháng của lao
động nam cao hơn 1,4 lần của lao động nữ (tương ứng 7,3 triệu đồng so với


5,2 triệu đồng); thu nhập bình quân lao động khu vực thành thị cao hơn 1,5
lần lao động khu vực nông thôn (tương ứng 7,9 triệu đồng so với 5,4 triệu
đồng).

Về chi tiêu và chất lượng cuộc sống, “Đánh giá nhanh tác động của đại
dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong một số ngành kinh
tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi” (2020), đã cho thấy rõ
những tác động tiêu cực đến vấn đề chi tiêu và chất lượng cuộc sống của
người lao động trong đại dịch. 86,9% người lao động cho biết họ đã trải qua
cảm xúc lo âu, bi quan, bất an và tâm trạng thay đổi thất thường. Cuộc khủng
hoảng cũng ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ gia đình của 34,2% người lao
động và gần 5% cho biết có tình trạng bạo lực gia đình. Để ứng phó trước
khủng hoảng, hầu hết người lao động cắt giảm chi phí cơ bản, đặc biệt là chi
phí thực phẩm. với trên 40% nhóm lao động di cư bị thiếu ăn do giảm chi tiêu
thực phẩm xuống mức tối thiểu hoặc dưới tối thiểu.
Nghiên cứu “Tác động của dịch bệnh Covid 19 tới lao động di cư:
Nghiên cứu trường hợp tại xã Hoàn Sơn, Huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh” của
nhóm tác giả Đồng Thanh Mai, Nguyễn Mậu Dũng, Tô Thế Nguyên và Vũ
Tiến Vượng (2021), nghiên cứu đo lường mức độ tác động của dịch bệnh
Covid -19 tới việc làm và đời sống của lao động di cư. Kết quả khảo sát đối
với 114 lao động di cư đang sinh sống tại xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh
Bắc Ninh cho thấy gần 70% người lao động di cư bị mất hoặc giảm việc làm,
86% bị giảm thu nhập, giảm chi tiêu hay đời sống tinh thần bị xáo trộn. Có
69,23% lao động di cư nữ và 68,93% lao động trên 35 tuổi cảm thấy bất an
trong đại dịch với những lo lắng về dịch bệnh, về giá cả hàng hóa, về công
việc… Nghiên cứu cho thấy mặc dù chịu tác động lớn bởi dịch bệnh nhưng
hơn 90% lao động di cư không nhận được đầy đủ sự trợ cấp của Nhà nước,
cũng như sự quan tâm của chính quyền địa phương.


Trong nghiên cứu “Tác động của dịch Covid 19 tới lao động nữ di cư
tại khu vực phi chính thức (Nghiên cứu trường hợp Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh)” của tác giả Lê Phương Hòa (2021), nghiên cứu tập trung đánh giá tác
động của Covid lên các vấn đề an sinh xã hội của người lao động trên các mặt

việc làm, thu nhập, chất lượng sống (chỗ ở, chăm sóc y tế, kết nối xã hội…tại
thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, tiến hành khảo sát xã hội học triển khai
trên 600 mẫu định lượng và tiến hành phỏng vấn sâu để xây dựng lên 12 câu
chuyện điển hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy hơn 1/2 số lao động cho biết
trong đợt dịch họ tạm thời không có việc hoặc bị chấm dứt việc, tỷ lệ này ở
Hà Nội cao hơn nhiều so với TP. Hồ Chí Minh với số liệu tương ứng là
83,4% so với 18,7%. 38,5% người lao động thuộc phi chính thức cho biết họ
bị giảm thu nhập nhiều và có đến 48,33% khơng có thu nhập trong thời kỳ
dịch, trong đó 84,33% người lao động ở Hà Nội cho biết họ khơng có thu
nhập. Bị mất việc làm hoặc giảm thu nhập là nguyên nhân khiến nhiều người
lựa chọn cắt giảm chi tiêu do đó chất lượng sống và sinh hoạt của họ cũng đi
xuống, an sinh không được đảm bảo, 75,8% cho biết do phải cắt giảm chi tiêu
do những khó khăn do Covid gây nên. Điều đáng nói, dịch Covid đã khiến
cho người lao động quan tâm đến vấn đề sức khỏe nhiều hơn khi 86,33% cho
biết đã quan tâm hơn đến vấn đề sức khỏe, đặt biệt người lao động ở TP. Hồ
Chí Minh có đến 96% người dân cho biết có sự thay đổi.
3.Kết quả chính rút ra từ tổng quan nghiên cứu
Nhìn chung các kết quả nghiên cứu trên đã làm rõ được một số nội
dung sau:
Trên thế giới, các nghiên cứu về tác động của Covid 19 đến vấn đề kinh
tế - xã hội còn khá rộng, mang tính chất quốc gia. Tại Việt Nam, các nghiên
cứu về tác động của Covid 19 khá nhiều, các chủ đề nghiên cứu đa dạng, từ
nghiên cứu vấn đề kinh tế xã hội cấp tỉnh/ thành phố đến toàn quốc.


Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu về tác động của Covid 19 đến kinh
tế - xã hội tại Việt Nam chủ yếu phân tích những tác động đối với các doanh
nghiệp và người lao động nói chung. Đã có một số nghiên cứu nổi bật về
những tác động đối với nhóm lao động cụ thể, tuy nhiên các nhóm đối tượng
lao động tại Việt Nam khá đa dạng với những đặc điểm khác nhau, vì vậy

việc bàn luận chuyên sâu về tác động của đại dịch Covid 19 đến các nhóm
người lao động vẫn là một đề tài mới. Xác định được khoảng trống nghiên
cứu này là tiền đề quan trọng để triển khai những nội dung tiếp theo của đề tài
nghiên cứu.
Phần II: Đề cương nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu: Ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 đến đời sống kinh
tế - xã hội của người lao động tại khu vực phi chính thức (nghiên cứu trường
hợp tại quận Cầu Giấy, Hà Nội)
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xuất hiện từ cuối năm 2019, cho đến nay đại dịch Covid-19 đã có mặt
tại 219 nước với 124 triệu người bị nhiễm bệnh và 2,7 triệu người tử vong
(Bộ Y tế, 2021), gây thiệt hại nặng nề đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
hầu hết các quốc gia trên thế giới (IOM, 2020). Đối với Việt Nam, dịch bệnh
vẫn đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, đồng thời Covid-19 đã làm giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế trong năm 2020 còn 2,9%, ảnh hưởng tiêu cực đến 84% doanh
nghiệp và hàng triệu lao động (ILO, 2020). Việt Nam dù được coi là một
trong những quốc gia có những biện pháp khống chế dịch hiệu quả và là một
trong những nước hiếm hoi được đánh giá vẫn giữ được tăng trưởng dương
trong năm 2020 cũng chịu những tác động tiêu cực trên mọi mặt của đời sống
xã hội.
Dịch bệnh Covid 19 đã tác động trực tiếp đến người lao động , đặc biệt
là người lao động thuộc khu vực phi chính thức. Lao động phi chính thức là
lực lượng dễ bị tổn thương nhất khi không có hợp đồng, BHXH, thời gian làm


việc nhiều nhưng thu nhập rất thấp, lao động trong khu vực này có việc làm
bấp bênh, thiếu ổn định, khơng có hợp đồng lao động hoặc hợp đồng thỏa
thuận miệng, thời gian làm việc dài, thu nhập thấp. Tiền lương bình qn của
lao động phi chính thức thấp hơn của lao động chính thức ở tất cả các vị trí
việc làm..… Những thiệt thịi mà lao động phi chính thức phải gánh chịu

không phải bây giờ mới được nhắc đến. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã
từng khuyến nghị do việc làm không thường xuyên, thu nhập thấp, ít tiếp cận
với các cơ hội phát triển kỹ năng nghề, nên lao động phi chính thức rất dễ bị
tổn thương, nhất là khi gặp biến cố. Tác động của đại dịch Covid-19 là một
dẫn chứng. Những đợt dịch bệnh kéo dài và các đợt giãn cách có ảnh hưởng
rất lớn đến thu nhập và việc làm của người lao động. Dự kiến, cả nước sẽ có
20 triệu lao động bị mất việc, khơng có hoặc bị giảm thu nhập, chủ yếu là lao
động phi chính thức.
Từ những lý do trên, lựa chọn đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của đại
dịch Covid-19 đến đời sống kinh tế - xã hội của người lao động tại khu vực
phi chính thức (nghiên cứu trường hợp tại quận Cầu Giấy, Hà Nội)”
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm đánh giá những ảnh hưởng của đại dịch Covid 19
đến các vấn đề về kinh tế - xã hội của người lao động tại khu vực phi chính
thức thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội. Từ đó đưa ra một số gợi ý, giải pháp
nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh đến người lao động tại khu
vực phi chính thức trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội trong thời
gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


- Mô tả thực trạng về đời sống kinh tế xã hội của người lao động tại
khu vực phi chính thức trên địa bàn quận Cầu Giấy trong bối cảnh đại dịch
Covid 19.
- Phân tích ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 đến đời sống kinh tế của
lao động tại khu vực phi chính thức.
- Phân Phân tích ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 đến đời sống xã hội
của lao động tại khu vực phi chính thức.
- Đề xuất một số gợi ý, giải pháp góp phần giảm thiểu tác động của

dịch bệnh đến người lao động thuộc khu vực phi chính thức.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 tới người lao động tại khu vực phi
chính thức tại quận Cầu Giấy, Hà Nội.
3.2 Khách thể nghiên cứu
Lao động thuộc khu vực phi chính thức trên địa bàn quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: quận Cầu Giấy
- Phạm vi thời gian: tháng 12/2021 – 01/2022
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Covid 19 đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến người lao động thuộc
khu vực phi chính thức. Nhiều lao động bị mất việc làm, giảm thu nhập, vấn
đề chi tiêu và chất lượng cuộc sống không được đảm bảo.
- Đặc điểm nghề nghiệp là lý do chính khiến cho người lao động thuộc
khu vực phi chính thức bị giảm hoặc mất thu nhập.


- Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ cịn yêu cầu những thủ tục phức
tạp, chưa đến đúng đối tượng cần hỗ trợ.
5. Khung phân tích, biến số nghiên cứu
5.1. Khung phân tích
5.2. Biến số nghiên cứu
- Biến số độc lập: giới tính, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng
hơn nhân, đặc điểm nghề nghiệp.
- Biến số phụ thuộc: được đo trên các khía cạnh: Thực trạng đời sống
KT-XH của người lao động tại khu vực phi chính thức trên địa bàn quận Cầu
Giấy trong đại dịch Covid 19, ảnh hưởng của Covid 19 đến đời sống xã hội
của lao động tại khu vực phi chính thức, ảnh hưởng của Covid 19 đến đời

sống kinh tế của lao động tại khu vực phi chính thức
- Biến số can thiệp: điều kiện kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu,
các chính sách hỗ trợ lao động của Nhà nước.
6. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
6.1. Một số khái niệm
6.1.1. Covid 19
COVID-19 (bệnh vi-rút corona 2019) là một bệnh do vi-rút có tên
SARS-CoV-2 gây ra và được phát hiện vào tháng 12 năm 2019 ở Vũ Hán,
Trung Quốc. Căn bệnh này rất dễ lây lan và đã nhanh chóng lan ra khắp thế
giới.
Hiện nay căn bệnh này đã xuất hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới, lan
rộng ra khắp các châu lục gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội,
sức khỏe và tính mạng của người dân nhiều quốc gia trên thế giới.
6.1.2. Ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội


Khái niệm kinh tế: Theo ngôn ngữ Hán – Việt, kinh tế được hiểu theo
nghĩa “Kinh bang tế thế”, kinh bang có nghĩa là trị nước và tế thế có nghĩa là
cứu đời. Hay cịn có thể hiểu theo nghĩa đó là cơng việc mà một vị vua phẩm
đảm nhiệm, đó là: chăm lo đời sống vật chất của bề tôi, chăm lo đời sống tinh
thần của những người dân đen con đỏ.
Tuy nhiên, như trong bài viết về “Kinh tế tri thức ở Việt Nam”, của GS
Hồ Tú Bảo, tạp chí Tia sáng đăng ngày 20-07-2010 có đưa ra quan điểm:
“Theo một định nghĩa được thừa nhận rộng rãi, kinh tế là toàn bộ các hoạt
động sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ của một cộng
đồng hay một quốc gia”.
Trong xã hội hiện nay, khái niệm kinh tế vẫn chưa có một cách nhìn
thống nhất, hay là một chuẩn mực nhất định. Có thể hiểu một cách cơ bản
rằng, kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và
xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các

loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
con người trong một xã hội với một nguồn lực có hạn.
Xã hội là một thực thể tồn tại quanh ta, chứa đựng từng cá nhân trong
xã hội, những mối quan hệ xã hội, những vấn đề xoay quanh, tác động trong
đời sống của con người. Xã hội được thể hiện qua những yếu tố hằng ngày
như mối quan hệ người với người trong xã hội, yếu tố thời tiết khí hậu, giáo
dục, đào tạo, lao động…
Nghiên cứu về ảnh hưởng đối với xã hội – kinh tế để đánh giá những
tác động của đại dịch qua các vấn đề việc làm, thu nhập, chi tiêu, chất lượng
cuộc sống…
6.1.3. Người lao động, việc làm khu vực phi chính thức
Người lao động là các cá nhân trực tiếp tham gia vào q trình lao
động, có thể là làm việc bằng sức lao động hay là lao động trí óc, thơng qua


hành vi lao động trên thực tế mà được trả lương, làm việc dưới sự quản lý của
người sử dụng lao động.
Theo quy định của Luật Lao động thì người lao động phải là người từ
đủ 15 tuổi trở lên, phải làm việc theo nội dung được quy định trong hợp đồng
lao động đã ký kết với bên chủ thể sử dụng lao động.
Việc làm khu vực phi chính thức: Việc làm khu vực phi chính thức là
việc làm khơng có quan hệ lao động, là việc làm của những người lao động tự
do, tự tạo việc làm và tự kiếm sống. Việc làm khu vực phi chính thức, đúng
như tên gọi, vốn đã phi chính thức bởi sự yếu thế của người lao động làm việc
trong khu vực này. Những người làm việc tự do này luôn bị đối mặt với rủi ro
bị tước đi thu nhập của họ như bị cảnh sát đuổi, giữ hàng, phạt vi phạm giao
thơng, vỉa hè, lề đường,…
Việc làm khu vực phi chính thức là một phần của phi chính thức việc
làm nói chung, nhưng nếu được “chính thức hóa” sẽ góp phần ngăn chặn tình
trạng phi chính thức việc làm nói chung. “Chính thức hóa” việc làm khu vực

phi chính thức nghĩa là đưa họ trở thành hiển hiện trong các quy định của
pháp luật, được đảm bảo các quyền lợi và nghĩa vụ. Những người lao động
khu vực phi chính thức cũng có những vấn đề của họ mà nếu khơng có các
quy định rõ ràng, họ có thể bị lạm dụng. Vì khơng có quy định nên khơng có
căn cứ rõ ràng để xác lập môi trường làm việc của người lao động khu vực
phi chính thức, từ đó điều chỉnh hành vi của các bên liên quan. Do không có
quy định và cơ chế rõ ràng nên các vấn đề nảy sinh có thể gây thiệt hại cho
người lao động và họ buộc phải chấp nhận thiệt thòi.
Như vậy, người lao động tại khu vực phi chính thức là những lao động
yếu thế trong xã hội. Họ phải chịu nhiều ảnh hưởng từ đại dịch Covid 19. Các
đặc điểm nhân khẩu học của người lao động tại khu vực phi chính thức liên
quan trực tiếp đến những ảnh hưởng về kinh tế xã hội của đại dịch.
6.2. Các lý thuyết áp dụng


6.2.1. Lý thuyết mâu thuẫn xã hội
Theo C.Mác - Ph.Ăngghen, xã hội có giai cấp bao gồm các tập đồn xã
hội có lợi ích khác nhau. Tồn bộ sự phát triển của xã hội từ buổi đầu thời đại
văn minh cho đến tận ngày nay luôn diễn ra trong mối quan hệ mâu thuẫn
giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Theo các ơng, cơ sở vật chất của
các xã hội văn minh hiện đại chính là sự bóc lột của giai cấp này với giai cấp
khác. Và chính sự mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp là nguồn gốc và động lực của
sự biến đổi, vận động của lịch sử xã hội loài người. Thuyết mâu thuẫn của
C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng phải phân tích đặc điểm xã hội, động cơ của
các bên tham gia mâu thuẫn và bản chất của mối quan hệ mâu thuẫn thì mới
đưa ra được các giải pháp thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Thuyết mâu thuẫn xã hội của C.Mác - Ph.Ăngghen coi sự căng thẳng
xã hội, phân hóa xã hội cùng với sự mâu thuẫn, cạnh tranh, xung đột và biến
đổi xã hội... là những chủ đề nghiên cứu chủ yếu. Những luận điểm chính của
thuyết này cho rằng, do sự khan hiếm các nguồn lực, sự phân công lao động

và sự bất bình đẳng trong phân bổ nguồn lực nên quan hệ giữa các cá nhân,
các nhóm xã hội ln ở trong tình trạng cạnh tranh, mâu thuẫn nhau. Những
mâu thuẫn này chủ yếu xuất phát từ lợi ích kinh tế, từ sản xuất kinh tế mà ra.
Bởi “Trong mỗi thời kỳ lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này
tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch
sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”.
Áp dụng lý thuyết mâu thuẫn xã hội vào đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ
nguyên nhân của sự bất bình đẳng xã hội, vì sao nhóm người lao động thuộc
khu vực phi chính thức lại yếu thế hơn so với những nhóm người khác, những
ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 đến đời sống kinh tế - xã hội của họ hiện
nay.
6.2.2. Lý thuyết cấu trúc chức năng


Thuyết cấu trúc chức năng, là một khuôn khổ cho việc xây dựng lý
thuyết mà thấy xã hội như là một hệ thống phức tạp mà các bộ phận làm việc
với nhau để thúc đẩy tình đồn kết và sự ổn định. Cách tiếp cận này nhìn vào
xã hội thơng qua một định hướng vĩ mơ, đó là một trọng tâm rộng trên các
cấu trúc xã hội mà định hướng xã hội như một toàn thể, và tin rằng xã hội đã
phát triển như các sinh vật. Cách tiếp cận này sẽ xem xét cả hai cấu trúc xã
hội và chức năng xã hội. Địa chỉ thuyết chức năng xã hội như một toàn thể về
các chức năng của các yếu tố cấu thành của nó; cụ thể là chuẩn mực, hải quan,
truyền thống, và các tổ chức. Một tương tự thơng thường, phổ biến bởi
Herbert Spencer, trình bày các bộ phận của xã hội là "cơ quan" mà làm việc
hướng tới các hoạt động đúng đắn của "cơ thể" như một tổng thể. Trong các
điều khoản cơ bản nhất, nó chỉ đơn giản là nhấn mạnh "các nỗ lực để impute ,
như một cách chặt chẽ nhất có thể, để mỗi tính năng, tùy chỉnh, hoặc thực
hành, tác động của nó trên các chức năng của một hệ thống cố kết được cho là
ổn định ". Đối với Talcott Parsons, "cấu trúc-thuyết chức năng" đến để mô tả
một giai đoạn cụ thể trong việc phát triển phương pháp luận của khoa học xã

hội, chứ không phải là một trường cụ thể của tư tưởng. Phương pháp thuyết
chức năng cấu trúc là một phân tích macrosociological, với một tập trung
rộng trên các cấu trúc xã hội mà hình dạng của toàn xã hội.
Vận dụng lý thuyết vào đề tài nghiên cứu để làm sáng tỏ sự thay đổi
của nhóm người lao động tại khu vực phi chính thức để thích nghi với điều
kiện sống, làm việc trong bối cảnh phải chịu những tác động từ đại dịch
Covid 19.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp thu thập thông tin
Đề tài nghiên cứu chủ yếu dựa trên hai phương pháp thu thập thơng tin
bao gồm: phương pháp phân tích tài liệu và phương pháp điều tra chọn mẫu
bằng bảng hỏi Anket.


Phương pháp phân tích tài liệu: bao gồm việc sưu tầm và sử dụng các
kết quả nghiên cứu đã có, các số liệu thống kê, các tài liệu có liên quan...
Phương pháp phân tích thứ cấp giúp cho nghiên cứu sử dụng các nguồn dữ
liệu đã có theo quan điểm của riêng mình. Việc phân tích tài liệu giúp hiểu
sâu hơn về vấn đề nghiên cứu, cụ thể là những tác động của đại dịch covid 19
tới người lao động tại khu vực phi chính thức. Ngồi ra, q trình này còn
giúp so sánh những kết quả phát hiện từ khảo sát với các kết quả được tìm
thấy trong tài liệu. Q trình phân tích tài liệu giúp đưa ra được kết luận một
cách khách quan và có hệ thống những đặc trưng của tài liệu với mục đích
nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp điều tra chọn mẫu bằng bảng hỏi Anket là phương pháp
dung hàng loạt những câu hỏi đã in sẵn vào trong phiếu để khách thể nghiên
cứu đọc và trả lời, dựa vào những tài liệu thu thập được, người nghiên cứu
phân tích, đánh giá vấn đề nghiên cứu theo cách mình muốn. Phương pháp
này khiến những câu trả lời của khách thể nghiên cứu được chuẩn hóa và có
thể so sánh với nhau, dễ được mã hóa và phân tích. Ngồi ra người trả chỉ

việc chọn một hoặc một vài khả năng được đưa ra thay vì tự mình suy nghĩ
đưa ra một câu trả lời. Tuy nhiên với tình hình dịch COVID-19, nhóm sẽ tiến
hành nghiên cứu trên nền tảng Google Form.
7.2. Phương pháp chọn mẫu
Đề tài nghiên cứu chọn mẫu theo phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên hệ
thống đối với việc chọn phường và chọn người tham gia.
Quận Cầu Giấy có 8 phường gồm:
1. phường Trung Hịa
2. phường n Hịa
3. phường Nghĩa Đơ
4. phường Nghĩa Tân


5. phường Dịch Vọng Hậu
6. phường Dịch Vọng
7. phường Quan Hoa
8. phường Mai Dịch
Nhóm sẽ tiến hành nghiên cứu 3/8 phường thuộc quận Cầu Giấy. Theo
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Khoảng cách để chọn ra phường
nghiên cứu được tính là: d = N / n (trong đó: N là số đơn vị tổng thể chung mà
ở đây là tổng số phường, n là số đơn vị của tổng thể mẫu mà ở đây là số
phường được lựa chọn để tham gia nghiên cứu).
Áp dụng: d = N / n = 8 / 3 = 2,67
Chúng ta sẽ làm tròn lên, khoảng cách được xác định d= 3
Bắt đầu từ phường Yên Hòa, với khoảng cách là 3 thì chúng ta có thể
xác định 3 phường thuộc địa bàn nghiên cứu là phường Yên Hòa, phường
Dịch Vọng Hậu và phường Mai Dịch.
Tương tự, sau khi có danh sách người lao động trên địa bàn 3 phường
nêu trên, chúng ta lại áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống để
chọn ra 200 người trả lời bảng hỏi nghiên cứu.

7.2 Phương pháp xử lý thông tin
Sau khi thu thập thông tin, nghiên cứu sẽ xử lý thông tin định lượng
bằng phần mềm SPSS 20.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. (2020),

Chênh

vênh

lao

động

phi

chính

thức,

truy

cập

18/12/2021, từ />2. Châu Giang (2017), Nghiên cứu "phủ sóng" chính sách bảo hiểm thất
nghiệp

cho


lao

động

phi

chính

thức,

truy

cập

18/12/2021,

từ

song-chinh-sach-bao-hiem-that-nghiep-cholao-dong-phi-chinh-thuc-67389.htm.
3. (2021),
19/12/2021,

Thông

Tin



Bản


Về COVID-19 ,

truy

cập

/>
covid-19/basics- covid-19.html.
4. (2016), Một số lý thuyết Xã hội học trong nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã
hội

-

nghề

nghiệp,

truy

cập

/>
19/12/2021,

từ

te/item/1640-mot-so-ly-thuyet-xa-

hoi-hoc-trong-nghien-cuu-bien-doi-co-cau-xa-hoi- nghe-nghiep.html.

5. VCCI và World Bank Group (2021), Báo cáo: Tác động của dịch bệnh
covid-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam.
6. Nguyễn Hoàng Nam (2021), Tác động của đại dịch Covid - 19 đến hoạt
động kinh tế tại Việt Nam.
7. (2020), Đánh giá nhanh tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh
nghiệp và người lao động trong một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh
và khả năng phục hồi.
8. Hồ Thiện Thơng Minh và Nguyễn Hồng Tiến (2020), Tác động của dịch
Covid-19 đến kinh tế xã hội TP.HCM và đề xuất chính sách thúc đẩy đà tăng
trưởng cho năm 2020, Đại học Quốc tế Sài Gòn.
9. Tổng cục Thống kê 2021, Báo cáo tác động của dịch Covid 19 đến tình
hình lao động, việc làm quý I năm 2021.


10. Đồng Thanh Mai, Nguyễn Mậu Dũng, Tô Thế Nguyên và Vũ Tiến
Vượng (2021), Tác động của dịch bệnh Covid 19 tới lao động di cư: Nghiên cứu
trường hợp tại xã Hoàn Sơn, Huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Tạp chí khoa học nơng
nghiệp Việt Nam.
11. Lê Phương Hịa (2021), Tác động của dịch Covid 19 tới lao động nữ di
cư tại khu vực phi chính thức (Nghiên cứu trường hợp Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh), Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
12. UNICEF, UNDP, Prospera, Viện Nghiên cứu SMERU và Văn phòng
Thống kê Quốc gia (BPS) (2021), Phân tích tác động của COVID-19 đến xã hội và
kinh tế của hộ gia đình và khuyến nghị chính sách chiến lược cho Indonesia.
13. ILO, FAO, IFAD và WHO, Impact of COVID-19 on people's livelihoods,
their health and our food systems.




×