TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA XÃ HỘI HỌC
-------------------------
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ 2 NĂM HỌC 2020-2021
MÔN HỌC: TÂM LÝ HỌC
ĐỀ TÀI : Hiện tượng bạo lực gia đình hiện nay?
Tên: Nguyễn Vĩnh Phúc
Mã Số Sinh Viên: 2056090186
TP HCM, THÁNG 01 NĂM 2022
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA XÃ HỘI HỌC
-------------------------
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ 2 NĂM HỌC 2020-2021
MÔN HỌC: TÂM LÝ HỌC
ĐỀ TÀI : Hiện tượng bạo lực gia đình hiện nay?
Tên: Nguyễn Vĩnh Phúc
TP HCM, THÁNG 01 NĂM 2022
2
Mục Lục
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................4
PHẦN II: NỘI DUNG......................................................................................................4
1. Một số khái niệm về bạo lực hố gia đình:..............................................................4
1.1. Bạo lực:................................................................................................................ 4
1.2. Bạo lực gia đình:.................................................................................................4
1.3.Nhận thức.............................................................................................................6
1.4. Đối tượng trong hành vi bạo lực gia đình:........................................................6
1.5.Gia đình:............................................................................................................... 6
1.6. Nguyên nhân khách quan:.................................................................................7
1.7. Nguyên nhân chủ quan:.....................................................................................8
2. Hiện Trạng vấn nạn bạo lực gia đình hiện nay:.....................................................8
3. Nêu các nguyên nhân hay yếu tố nào ảnh hưởng tới vấn đề đó?.........................11
3.1. Gia trưởng:.......................................................................................................11
3.2.Định kiến giới:...................................................................................................12
3.3. Phân công lao động theo giới:..........................................................................12
3.4. Bình đẳng giới:..................................................................................................12
3.5. Điều kiện kinh tế:..............................................................................................13
3.6. Điều kiện xã hội:...............................................................................................14
3.7. Môi trường văn hóa:.........................................................................................14
4. Những biện pháp cùng với đề xuất nhằm ngăn chặn và hạn chế hiện trạng bạo lực gia đình
hiện nay:...................................................................................................................... 15
PHẦN III: KẾT LUẬN...................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................17
3
BÀI LÀM
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay nước ta đang trong q trình cơng nghiệp hố – hiện đại hố đất nước. Từ đó cuộc sống của
con người ngày nay càng có nhiều thay đổi từ những điều tích cực cho đến những điều tiêu cực cũng
xuất hiện ngày càng nhiều. Việc đất nước ta ngày càng phát triển khiến cho xã hội cũng có những thay
đổi nhằm phù hợp với cách vận hành của xã hội hiện nay. Do đó hiện nay xã hội nước ta có những vấn
đề rất lớn cần được cộng đồng dành nhiều sự quan tâm hơn nữa. Đặc biệt trong đó có thể nói đến vấn
đề gia đình, khi mà mọi chúng ta đều biết gia đình chính là hạt nhân quan trọng của xã hội nếu muốn xã
hội phát triển thì ta cần đặt nền tảng từ gia đình ổn định thì mới có thể phát triển được xã hội. Và một
trong những vấn đề hiện nay của gia đình chính là hiện tượng bạo lực gia đình hiện nay cần nhận được
sự quan tâm hơn nữa từ cộng đồng. Khi mà hiện tượng bạo lực gia đình đang chính là ngun nhân
chính khiến cho nhiều gia đình hiện nay tan vỡ. Hậu quả của bạo lực gia đình gây ra là một đặc biệt
nghiêm trọng, nó khơng chỉ gây tổn thương đến cuộc sống, sức khoẻ, danh dự của các thành viên trong
gia đình, mà cịn vi phạm tới các chuẩn mực đạo đức xã hội, tiếp tay cho sự gia tăng của các tệ nạn như:
mại dâm, ma tuý, người lang thang cơ nhỡ, nạn buôn bán trẻ em và phụ nữ.Qua đó cho thấy bạo lực
khơng cịn là việc nội bộ tự giải quyết trong mỗi gia đình, mà nó đã trở thành một tệ nạn cần sự quan
tâm của toàn xã hội. Đây thực sự là vấn đề lớn cần nhận được sự quan tâm nhiều hơn từ cộng đồng vì
nó đang ảnh hưởng rất lớn đến nhiều mặt của xã hội nói chung và những gia đình đang có hiện tượng
bạo lực nói riêng. Mục đích bài viết là tăng thêm sự hiểu biết của cá nhân em về các quy luật tâm lý của
các thành viên trong gia đình, từ thành viên nhỏ đến lớn.Tìm hiểu về thực trạng cuộc sống của các
thành viên trong gia đình Việt Nam hiện nay. Tìm hiểu thực trạng tình trạng bạo lực trong gia đình
nước ta, nguyên nhân gây ra tình trạng. Qua bài viết nhằm phổ biến cho mọi người thấy được thực
trạng vấn đề bạo lực gia đình từ đó giúp cho nhận thức về vấn đề này ngày càng có cách nhìn đúng đắn
hơn cùng với đó là ý thức được hành vi để mọi người tránh khỏi vấn nạn này. Cùng với đó là dần dần
làm giảm tình trạng bạo lực gia đình qua đó từng bước xoá bỏ đi hiện tượng tiêu cực này tại các gia
đình để cùng nhau chung tay giữ gìn, xây dựng gia đình hạnh phúc. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
từ đó lựa chọn nguồn thơng tin phù hợp, cơ sở dữ liệu sẵn có qua đó hồn thành bài tiểu luận nhằm mục
đích phổ biến và ngăn chặn từng bước đi đến xoá bỏ hiện tượng bạo lực gia đình đang là vấn đề hết sức
nhức nhối của xã hội hiện nay.
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Một số khái niệm về bạo lực hố gia đình:
1.1. Bạo lực: Theo nội dung của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa về “bạo lực là
hành vi sử dụng sức mạnh thể chất với mục đích gây thương vong, tổn hại một ai đó. Bạo lực thể chất
có thể là điểm tột đỉnh của các cuộc xung đột. Trên thế giới, bạo lực là một vấn đề được luật pháp và
văn hóa quan tâm với những nỗ lực nhằm khống chế và ngăn chặn bạo lực. Bạo lực bao trùm một
khn khổ rộng lớn. Nó có thể là một cuộc chiến giữa hai quốc gia hay sự diệt chủng làm hàng triệu
người chết”. Theo định nghĩa của tổ chức y tế thế giới WHO đưa ra thì “Bạo lực là hành vi cố ý sử
dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hoặc quyền lực để hủy hoại mình, chống lại người khác hoặc một
4
nhóm người, một tập thể cộng đồng làm họ bị tổn thương hoặc có nguy cơ tổn thương, hoặc tử vong
hoặc sang chấn tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển của họ hoặc gây ra các ảnh hưởng khác”.
1.2. Bạo lực gia đình:
Bạo lực gia đình là một dạng của bạo lực xã hội, là “Hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại
hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”
(Điều 1 Luật Phịng, chống bạo lực gia đình 2007). Có thể nhận diện bạo lực gia đình ở những hình
thức chủ yếu sau:
- Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, làm tổn thương tới sức khỏe,
tính mạng của họ.
- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương tới danh dự, nhân phẩm, tâm
lý của thành viên gia đình.
- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế của thành viên gia đình (quyền
sở hữu tài sản, quyền tự do lao động...).
- Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép trong các quan hệ tình dục giữa
các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép sinh con. Hành vi bạo lực gia đình: Mỗi hình thức bạo lực
có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác nhau. Luật Phịng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã
quy định:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ơng, bà và cháu; giữa cha, mẹ và
con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên
khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viờn gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động q sức, đóng góp tài chính q khả năng của họ; kiểm soát
thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
5
Nguồn: />1.3.Nhận thức (tiếng Anh: cognition) là hành động hay q trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu
thơng qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các quy trình như là tri thức, sự chú ý, trí nhớ,
sự đánh giá, sự ước lượng, sự lý luận, sự tính tốn, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự
lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ. Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức là quá trình biện
chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không
ngừng tiến đến gần khách thể. Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá
trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng
động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
Theo “từ điển Bách khoa Việt Nam” thì nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới
khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
1.4. Đối tượng trong hành vi bạo lực gia đình:
Bạo lực gia đình xảy ra giữa các thành viên gia đình hoặc những người đã từng có quan hệ gia đình.
Bạo lực gia đình tồn tại dưới nhiều kiểu loại và dạng thức khác nhau. Có thể là bạo lực gia đình giữa vợ
– chồng, cha mẹ – các con, ơng bà – các cháu, anh, chị, em trong gia đình với nhau.
1.5.Gia đình:
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với
nhau bởi quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh
hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như
để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.
6
Gia đình là một nhóm xã hội có đặc trưng là cùng cư trú, cùng hợp tác tái sản xuất, nó bao gồm người
lớn của cả hai giới, có ít nhất hai người trong số họ có quan hệ tình dục được mọi người chấp nhận, họ
có một hoặc nhiều con cái do họ sinh ra hoặc nhận nuôi.
Xét về quy mơ, gia đình có thể phân loại thành:
-Gia đình hai thế hệ (hay gia đình hạt nhân): là gia đình bao gồm cha mẹ và con.
-Gia đình ba thế hệ (hay gia đình truyền thống): là gia đình bao gồm ơng bà, cha mẹ và con cịn được
gọi là tam đại đồng đường.
-Gia đình bốn thế hệ trở lên: là gia đình nhiều hơn ba thế hệ. Gia đình bốn thế hệ còn gọi là tứ đại đồng
đường. Dưới khía cạnh xã hội học về quy mơ các thế hệ trong gia đình, cũng có thể phân chia gia đình
thành hai loại:
-Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thường được coi là gia đình truyền thống liên
quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Nó liên kết ít nhất là vài gia đình nhỏ và những người lẻ loi. Các
thành viên trong gia đình được xếp đặt trật tự theo ý muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường là
người đàn ơng cao tuổi nhất trong gia đình.
-Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) là nhóm người thể hiện mối quan hệ của
chồng và vợ với các con, hay cũng là mối quan hệ của một người vợ hoặc một người chồng với các
con. Gia đình nhỏ là dạng gia đình đặc biệt quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của
tương lai và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển.
-Tương tác hành vi trong gia đình: Cha mẹ quan hệ nhiều với con cái (giúp làm bài tập ở nhà, nhắc nhở
hạn chế xem tivi...) thì những đứa trẻ tử tế với người khác hơn, trách nhiệm hơn và ít có những vấn nạn
về hành vi hơn; Tương tác giữa vợ và chồng: nói chuyện, chia sẻ việc gia đình, cãi nhau,...
-Chức năng của gia đình: Các nhà chức năng luận cho rằng gia đình có các chức năng cơ bản sau:
+ Sinh sản: Gia đình góp phần vào sự sinh tồn của con người.
+ Bảo vệ: Gia đình có trách nhiệm tối cao trong việc bảo vệ và nuôi dạy con cái.
+ Xã hội hoá: Cha mẹ và người thân theo dõi hành vi của con trẻ và truyền đạt những chuẩn tắc, giá trị
cũng như ngơn ngữ của một nền văn hố.
+ Điều tiết hành vi tình dục: Gia đình quy định về hành vi tình dục rất rõ ràng.
+ Tình cảm và sự gắn bó: Gia đình buộc phải phục vụ các nhu cầu tình cảm của thành viên.
+ Cung cấp địa vị xã hội: Cá nhân kế thừa chỗ đứng trong xã hội vi gia thế của cha mẹ và anh chị em.
Hơn nữa tài lực và vật lực của gia đình cũng ảnh hưởng đến khả năng và cơ hội theo đuổi những cơ hội
nào đó của trẻ như học cao hơn, chuyên sâu hơn.
1.6. Nguyên nhân khách quan:
7
Cuộc sống thay đổi do đại dịch COVID-19 khiến nhiều gia đình khơng có sự chuẩn bị nên khơng biết
phải ứng phó và đối diện như thế nào. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 các doanh nghiệp đóng cửa,
thực hiện giãn cách xã hội,... dẫn đến tình trạng thất nghiệp, mất việc làm. Gây ra những khó khăn về
kinh tế, tạo ra các áp lực, căng thẳng, bế tắc đối với thành viên gia đình và do đó dễ dẫn tới các mâu
thuẫn, tranh chấp nếu không biết cách xử lý phù hợp có thể gây nên bạo lực gia đình. Khi thu nhập
giảm, hầu hết các xung đột, tình trạng kiểm soát, bạo lực tinh thần, thể xác... thường tăng lên.
1.7. Nguyên nhân chủ quan:
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, việc vợ chồng/ các thành viên trong gia đình ở nhà trong thời gian
dài, mâu thuẫn gia đình gia tăng, đặc biệt với những người vốn có hành vi bạo lực. Tâm lý tù túng và lo
lắng về bệnh tật, thảm họa, nhiều người rơi vào cảnh mất việc, lo lắng về kinh tế đã gây ra tâm lý căng
thẳng và gia tăng nguy cơ bạo lực gia đình. Họ phải chịu cảnh bạo lực tình dục, bạo hành thể chất và
nhiều cách thức tra tấn tinh thần khác. Nếu trước đây khi COVID-19 chưa xuất hiện, cả hai vợ chồng đi
làm không gặp nhau nhiều nên số lần bị bạo lực khơng nhiều, thì trong thời gian nghỉ việc ở nhà tránh
dịch trở nên tồi tệ hơn. Nhiều ông chồng dành thời gian uống rượu, đánh đập, chửi bới và tấn cơng vợ
mình.
Cộng đồng và các gia đình vẫn coi bạo lực gia đình là vấn đề riêng tư trong mỗi gia đình và người
ngồi khơng nên can thiệp.
Cơng tác tun truyền, giáo dục pháp luật về phịng, chống bạo lực gia đình cịn hạn chế. Trình độ nhận
thức và sự hiểu biết về pháp luật trong một bộ phận người dân còn thấp cũng là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng bạo lực gia đình vẫn cịn tiếp tục xảy ra.
2. Hiện Trạng vấn nạn bạo lực gia đình hiện nay:
Dưới đây chính là số liệu thống kê về vụ bạo lực gia đình hiện tại nước ta trong những năm gần đây.
Trong những năm trở lại đây nhìn chung thì số vụ bạo lực gia đình có xu hướng giảm nhưng nó vẫn cịn
ở mức khá cao. Ngồi ra những vụ bạo lực gia đình vẫn cịn diễn ra nhiều nơi vẫn cịn chưa thơng kê
hết khi đa phần là vẫn vụ ở những vùng nông thôn nơi mà người phụ nữ luôn cam chịu không dám
đứng lên đấu tranh giành lại cơng bằng cho mình. Có thể vai trị của người phụ nữ ở nơng thơn cịn hạn
chế cùng với đó là những quan niệm tiêu cực như “trọng nam khinh nữ” khiến họ không dám đấu tranh
vì lợi ích mà mình xứng đáng có được. Nhìn chung đây thực sự là một vấn đề nan giải cần có những
phương hướng và hoạch định chính sách cũng như là giáo dục đúng đắn để hạn chế những điều xấu có
thể xảy ra gây ra những hậu quả hết sức tiêu cực khơng chỉ trong gia đình mà còn là cả xã hội.
Tổng hợp báo cáo số liệu về vụ bạo lực gia đình từ các Sở Văn Hố Thể Thao Du Lịch/Văn hóa và Thể
thao từ năm 2009 đến 2017 cho thấy, tổng số vụ bạo lực gia đình các địa phương đã phát hiện, tổng hợp
báo cáo là 292.268 vụ, tính trung bình mỗi năm tổng hợp được 36.534 vụ bạo lực. Tuy nhiên, xem xét
theo số vụ diễn biến qua các năm thì năm sau thấp hơn năm trước. Nếu như số vụ bạo lực gia đình được
tổng hợp năm 2009 là 53.206 vụ thì vào năm 2019 chỉ cịn 8.176 vụ.
Tổng hợp số liệu do Tòa án nhân dân các cấp thực hiện từ ngày 01/7/2008 đến ngày 31/7/2018, Tòa án
nhân dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 1.422.067 vụ án ly hôn, đã giải quyết 1.384.660 vụ, đạt
tỷ lệ 97,4%, cịn lại 37.407 vụ đang trong q trình giải quyết. Trong số 1.384.660 vụ án ly hơn Tịa án
đã giải quyết, có 1.060.767 vụ xuất phát từ nguyên nhân bạo lực gia đình như: bị đánh đập, ngược đãi;
vợ hoặc chồng nghiện ma túy, rượu chè, cờ bạc; ngoại tình (chiếm 76,6% các vụ án ly hơn).
8
Báo cáo của ngành Tư pháp cho thấy năm 2014 tiếp nhận hòa giải 31.528 vụ việc BLGĐ; năm 2015 là
33.966 vụ; (năm 2016 và 2017 số liệu cung cấp khơng rõ nên khơng tách được số vụ hịa giải do bạo
lực gia đình). So sánh số liệu của 2 cơ quan trong 2 năm 2014 và 2015 cho thấy diễn biến trái ngược
nhau, thiếu thống nhất giữa các cơ quan chức năng dẫn đến khó khăn trong thu thập và báo cáo số liệu
về tình hình bạo lực gia đình.
Cùng với đó là những loại bạo lực gia đình phổ biến nhất hiện nay. Nhìn vào những điều đó ta thấy
được sự nghiêm trọng của vấn đề cùng với đó là sự phức tạp địi hỏi phải xử lý đúng cách nhằm ngăn
chặn, giảm đến mức tối thiểu rồi đi đến xố bỏ tình trạng bạo lực gia đình. Đây quả thực là một vấn đề
hết sức nan giải địi hỏi sự phối hợp từ nhiều phía chứ khơng phải chỉ ở gia đình hay là các cấp chính
quyền là được. Mọi người cần có cách nhìn nhận đúng đắn hơn về bạo lực gia đình và cũng là cách
giúp cho bản thân hoặc người trong gia đình rơi vào tình trạng nhức nhối này.
Bạo lực giữa người chồng đối với người vợ trong gia đình có thể thấy là dạng bạo lực phổ biến nhất
trong gia đình. Hành vi người chồng gây ra chủ yếu và lớn nhất là bạo lực về thể chất, đây là dạng dễ
nhận thấy và bị lên án mạnh mẽ nhất. Sỡ dĩ đa phần người đàn ông sử dụng “nắm đấm” để dạy vợ là do
họ không nhận thức được rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không phải tất cả
hành vi bạo lực của người chồng đều là bạo lực về thể chất mà có những lúc, họ dùng tới nhiều cách
khác để gây ra những tổn thương về tâm lý cho người vợ: mắng mỏ, chửi bới, xúc phạm danh dự hoặc
có những hành vi cưỡng bức về tình dục, kiểm sốt về kinh tế. Nhưng trong xã hội ngày nay, hiện
tượng người vợ sử dụng bạo lực đối với chồng cũng không phải là hiếm. Không chỉ dừng lại ở những
lời lẽ chửi bới, những cách ứng xử thơ bạo mà họ cịn trực tiếp gây ra những tổn thương về thể chất
hoặc tính mạng của người chồng.
Tóm lại, bạo lực gia đình xuất phát từ cả hai phía vợ và chồng đang ngày càng phát triển và gây
nhức nhối trong xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là
trẻ em. Nguyên nhân của hiện tượng này rất nhiều, ngồi vấn đề tâm lý cịn phải kể đến vấn đề đạo đức,
kiến thức giải quyết mâu th̃n gia đình…
Ngồi ra hiện nay cịn có tình trạng bạo lực giữa cha mẹ và con cái. Với tâm lý, truyền thống, thói
quen của người Việt, thì vấn đề bạo lực giữa cha mẹ với con cái được xã hội chấp nhận và khá phổ
biến. Có thể dễ dàng nhận thấy đó là những hành động “dạy bảo” con cái xuất phát từ cái quan niệm
gọi là “Yêu cho roi cho vọt – Ghét cho ngọt cho bùi” và giáo dục thì cần phải nghiêm khắc. Rất nhiều
ơng bố bà mẹ coi việc đánh đập, chửi mắng con cái khi chúng mắc lỗi là cần thiết để chúng nhận ra sai
lầm và sửa chữa; hay coi việc mạt sát, trách móc là động lực để chúng phấn đấu. Trên thực tế chúng ta
đều có thể nhận thấy, cách làm này phần nào phù hợp với tâm lý của người Việt và đạt được những kết
quả nhất định. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, khi những chuẩn mực tiến bộ về quyền con người đã
và đang phổ biến trên thế giới thì những tư tưởng, cách làm này cần được sớm loại bỏ. Đặc biệt, là
những trường hợp bạo lực với con cái vượt ra ngoài phạm vi giáo dục - một tình trạng ngày càng gia
tăng thì cần phải bị trừng trị nghiêm khắc.
Bên cạnh những hành vi từ phía cha mẹ đối với con cái, thì bạo lực gia đình xuất phát từ người con
đối với cha mẹ mình cũng đang ngày càng gia tăng. Một số trường hợp người trẻ tuổi gây ra những tổn
thương về cả vật chất, tinh thần cho cha mẹ do sự thiếu kiềm chế, do đua đòi hư hỏng hoặc một vài lý
do khác. Tuy nhiên, không thể bào chữa, biện hộ cho những người con đã khôn lớn trưởng thành dưới
bàn tay yêu thương, nuôi dạy của cha mẹ nhưng lại bỏ bê, khơng chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, thậm
chí hơn là đánh đập, chửi mắng, sỉ nhục những người đã có cơng sinh thành, ni dưỡng mình. Chúng
ta có thể dễ dàng nhìn thấy ngun nhân đơn giản dẫn đến hành vi trên là do: những người già thì sức
khỏe yếu, khơng cịn sức lao động nên cần có người chăm sóc; trong khi những đứa con không đủ yêu
thương nên không muốn tốn kém tiền của, thời gian, cơng sức của mình cho cha mẹ, đúng như câu ca
9
dao xưa “Cha mẹ nuôi con bằng trời bể - Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày”. Điều này chứng tỏ một
sự xuống cấp đạo đức nghiêm trọng của một bộ phận giới trẻ hiện nay, nó hồn tồn đi ngược lại với
truyền thống đề cao chữ “hiếu” của dân tộc Việt Nam.
Bạo lực gia đình giữa các thành viên khác trong gia đình với nhau cũng đã tồn tại từ lâu nhưng
chiến tỷ lệ khơng lớn, vì mức độ phụ thuộc giữa các thành viên này không cao như giữa vợ chồng hay
cha mẹ với con. Nạn nhân chủ yếu của loại bạo lực này là phụ nữ và trẻ em khi mà các thành viên này
muốn tham gia vào sự “giáo dục” những người làm dâu, làm con trong gia đình. Ngồi ra, những mâu
th̃n trong gia đình khơng tìm được cách giải quyết cũng dẫn tới nạn bạo lực giữa các thành viên khác:
anh em, chú cháu đánh nhau vì xích mích, mâu th̃n trong cuộc sống, vì tranh chấp tài sản, chị em
mắng chửi, nói xấu nhau.
Ví dụ: Trong những ngày cuối năm mới 2021 lại xuất hiện một vụ việc hết sức thương tâm và gây ra sự
bức xúc và xót thương từ cộng đồng khi một bé gái 8 tuổi bị “dì ghẻ” bạo hành đến chết. Người dì ghẻ
này này đã bạo hành bé gái 8 tuổi đến chết hành động này diễn ra hết sức thường xuyên và đáng nói
hơn nữa là sự vô cảm của người cha ruột cháu bé dù biết con mình bị dì ghẻ bạo hành như vậy nhưng
vẫn hờ hững, vô tâm không nghĩ đến hậu quả và quan trọng hơn bé gái là con ruột của mình. Việc làm
của người cha và dì ghẻ quả thực hết sức đáng lên án vì hậu quả nghiêm trọng mà nó đã để lại và người
chịu hậu quả đó khơng ai khác chính là bé gái 8 tuổi khi bị bạo hành đến chết trong khi tương lai và
cuộc sống của bé còn rất rất nhiều điều ở phía trước. Thử hỏi ai lại dám cho mình quyền tước đi mạng
sống của bé gái 8 tuổi liệu người cha ruột và dì ghẻ có máu lạnh tới mức độ nào để gây ra một điều mà
nhiều người không bao giờ dám nghĩ tới. Có phải đã đến các cơ quan nhà nước phải có những chính
sách, quy định xử phạt, biện pháp bảo vệ trẻ em cùng với quy định về phịng chống bạo lực gia đình
nhằm siết chặt hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa để khơng có những câu chuyện thương tâm như thế có thể
xảy ra thêm một lần nào nữa.
Bé gái 8 tuổi bị “dì ghẻ” bạo hành đến chết
10
Nguồn: />3. Nêu các nguyên nhân hay yếu tố nào ảnh hưởng tới vấn đề đó?
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng bạo lực gia đình dưới đây ta sẽ cùng nhau tìm hiểu những
nguyên nhân phổ biến dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình hiện nay là vì lí do nào. Qua đó có thể hiểu
thêm về hiện trạng đó nhằm có thể tìm ra những giải pháp khắc phục hiệu quả nhất.
Nguồn:DOMESTIC ABUSE INTERVENTION PROJECT
3.1. Gia trưởng:
Là hành động giới hạn sự tự do hoặc tự chủ của một cá nhân hay hội nhóm với ý định là mang lại lợi
ích cho cá nhân, hội nhóm đó. Gia trưởng cũng có thể hàm ý rằng hành vi này chống lại hay bất chấp ý
muốn của một người, hoặc hành vi đó thể hiện một thái độ bề trên kẻ cả. Hành vi gia trưởng, tính gia
trưởng, thái độ gia trưởng thường mang sắc thái tiêu cực.
Người đàn ơng gia trưởng ln muốn kiểm sốt mọi thứ từ người vợ và con mình, họ muốn kiểm sốt
mọi thứ trong nhà của mình ngay cả những điều riêng tư nhất của vợ, con. Họ ln muốn mình phải
biết tất cả mọi thứ và là người quản lý lớn nhất ở trong gia đình nếu người vợ hoặc con dám phản
kháng hoặc khơng đồng ý họ có thể dùng vũ lực hoặc những hành vi bạo lực khác nữa. Họ ln ghen
tng một cách thối hố, trong mắt của họ, bạn là một người không đáng tin tưởng và có nhiều điểm
xấu. Khi nóng giận, họ thường chỉ trích bạn một cách nặng lời. Mà không quan tâm đến cảm xúc, suy
nghĩ của bạn. Ln tự cho mình là đúng, trong các cuộc tranh luận, cãi vã, người gia trưởng thường
không chịu lắng nghe ý kiến người khác. Họ ln cho là mình đúng và người khác là sai. Trên thực tế
để một người gia trưởng nhận sai là điều không thể. Không muốn vợ hoặc con nhận sự giúp đỡ nào
khác ngồi họ, Người gia trưởng ln muốn anh ta là người đầu tiên và duy nhất mà bạn nghĩ đến khi
cần sự giúp đỡ. Họ không muốn ai khác giúp đỡ bạn ngoại trừ anh ta, đặc biệt là người khác giới.
Thường sử dụng bạo lực, Vì tính ghen tng, ích kỷ, ln thích kiểm sốt mọi thứ. Cho nên nếu khơng
đạt được mục đích, anh ta thường trở nên nóng giận, cáu gắt và rất thích dùng bạo lực để giải quyết.
Trong tình yêu thì bạo lực, vũ phu là một điều cấm kỵ cần hết sức tránh. Nếu chẳng may yêu phải một
11
người thích dùng bạo lực thì bạn nên suy nghĩ lại. Không san sẻ việc nhà với vợ, Người gia trưởng ln
cho rằng việc nhà là của phụ nữ. Cịn việc của đàn ông là những chuyện to lớn ở ngồi kia. Do vậy, anh
ta thường khơng thích san sẻ công việc nhà với bạn. Không muốn phụ bạn quét nhà, rửa chén bát, giặt
quần áo… Thậm chí họ cịn khơng thích bạn ra ngồi làm việc mà chỉ muốn bạn quanh quẩn trong nhà.
3.2.Định kiến giới:
Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trị và năng
lực của nam hoặc nữ (nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về khả năng của nam và nữ, về
vị trí cơng tác mà nam, nữ nên đảm nhận trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, về nghề nghiệp mà phụ
nữ và nam giới nên làm, về tính cách mà phụ nữ và nam giới nên có...). Các định kiến giới thường là
không đúng, không phản ánh đúng khả năng thực tế của từng người và thường giới hạn những gì mà xã
hội cho phép hoặc mong đợi các cá nhân thực hiện. Các định kiến giới có thể khác nhau ở các vùng
khác nhau, các nước khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hoá, phong
tục, tập quán.
Người đàn ông luôn cho rằng: phụ nữ là phụ thuộc, yếu đuối, thụ động; nam giới là độc lập, mạnh mẽ,
có năng lực và là người ra quyết định, nội trợ là công việc của phụ nữ, không phải là việc của đàn ơng,
chồng có quyền dạy vợ, vợ phải nghe lời chồng, nam là trụ cột trong gia đình, quyết định các việc lớn
trong gia đình ; nữ ni dạy con cái, nội trợ, quản lý chi tiêu; nam giỏi việc xã hội, nữ giỏi việc nhà.
Định kiến giới chủ yếu tác động tiêu cực tới cơ hội phát triển, thăng tiến của nữ vì các đa phần các định
kiến này là các định kiến tiêu cực đối với nữ. Những định kiến này cũng gây ra khơng ít thiệt thòi cho
phụ nữ về tinh thần, vật chất và còn là nguyên nhân tác động tới tình trạng bạo lực gia đình. Tuy nhiên,
định kiến giới trong một số trường hợp cũng tác động tiêu cực đến nam giới như định kiến coi nghề làm
giáo viên mầm non là nghề của phụ nữ; nghề làm hộ lý trong các bệnh viện là nghề của phụ nữ, đã cản
trở và thu hẹp khả năng lựa chọn nghề nghiệp của cả nam giới và phụ nữ.
3.3. Phân công lao động theo giới:
Phân công lao động theo giới (hay hành động giới) là những chức năng xã hội, những khả năng và
những cách thức của hành động thích hợp để các thành viên của một xã hội căn cứ vào khi họ là một
phụ nữ hoặc là một nam giới. Theo quan niệm kinh tế học bắt nguồn từ A Smith , phân cơng lao động
là sự chun mơn hóa lao động , là sự phân chia quá trình lao động thành các đoạn , các khẩu , các thao
tác kỹ thuật để tăng năng suất và hiệu quả lao động - Theo quan niệm xã hội học do A Comte khởi
xướng , phân cơng lao động là sự chun mơn hóa nhiệm vụ lao động nhằm thực hiện chức năng ổn
định và phát triển xã hội , củng cố mối quan hệ gắn bó giữa các cá nhân và trật tự xã hội . Sự phân cơng
lao động xã hội có thể xảy ra trên cơ sở khác nhau về đặc điểm tự nhiên của chủ thể lao động cũng như
dựa vào các đặc điểm yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội. Sự phân công lao động theo giới trong gia
đình là sự đảm nhiệm các cơng việc gia đình của vợ, chồng nhằm thực hiện các chức năng trong gia
đình như chăm sóc, giáo dục đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình. Sự phân cơng
lao động trong gia đình chủ yếu dựa trên 3 nhóm cơng việc các cơng việc tạo ra thu nhập, các công việc
tái tạo sức lao động và các hoạt động nhằm duy trì mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình với họ
hàng, cộng đồng. Trong đề tài này chủ yếu đi sâu vào phân tích làm rõ sự phân cơng lao động trong các
hoạt động tái sản xuất sức lao động cho các thành viên trong gia đình, một lĩnh vực hoạt động mà các
nghiên cứu trước đã có nhiều tên gọi khác nhau như cơng việc gia đình, cơng việc nội trợ. Phân cơng
lao động theo giới là yếu tố hình thành vai trị giới trong gia đình và xã hội phụ nữ có vai trị biểu đạt
tình cảm, nam giới có vai trị cơng cụ tạo ra thu nhập.
12
3.4. Bình đẳng giới:
Bình đẳng giới trong gia đình là việc vợ và chồng, con trai và con gái, các thành viên nam và nữ trong
gia đình có vị trí, vai trò ngang nhau, quyền được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình
cho sự phát triển của gia đình như nhau, quyền được thụ hưởng về thành quả phát triển của gia đình và
xã hội ngang nhau, quyền được tham gia quyết định các vấn đề của bản thân và của gia đình. Trên cơ
sở các quyền đó, các thành viên trong gia đình được tự do tham gia vào các cơng việc gia đình và ngồi
xã hội tùy theo khả năng và sở thích của mình, được tự do lựa chọn những vai trị giống nhau hoặc khác
nhau trong gia đình tùy theo mục đích của mỗi người, được tự do lựa chọn cách thức thụ hưởng các
thành quả tùy theo sở thích của mỗi người.
Theo cơng ước CEDAW, bình đẳng giới là tình trạng (điều kiện sống, sinh hoạt, làm việc,...) mà trong
đó có phụ nữ và nam giới được hưởng vị trí như nhau, họ có cơ hội bình đẳng để tiếp cận, sử dụng các
nguồn lực để mang lại lợi ích cho mình, phát hiện và phát triển tiềm năng của mỗi giới nhằm cống hiến
cho sự phát triển của quốc gia và được hưởng lợi từ sự phát triển đó.
Bình đẳng kiểu hình thức là coi nam và nữ như nhau, vì vậy đối xử với họ như nhau, khơng để ý đến sự
khác biệt về sinh học và sự khác biệt do xã hội quy định, cho rằng phụ nữ có thể tiếp cận các cơ hội
như cách của nam giới.
Bình đẳng kiểu bảo vệ là nhìn nhận sự khác biệt nhưng xem xét các điểm yếu của phụ nữ để đối xử
khác biệt, cản trở sự lựa chọn của phụ nữ. Bình đẳng thực chất là nhìn nhận sự khác biệt giữa nam và
nữ về sinh học và sự khác biệt xã hội do lịch sử để lại, chú ý đến bình đẳng trong pháp luật và bình
đẳng trong thực tế; điều chỉnh các mơi trường có ảnh hưởng tiêu cực đối với phụ nữ. Căn cứ theo khoản
3, điều 5 Luật Bình đẳng giới 2006, bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được
tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
3.5. Điều kiện kinh tế:
Kinh tế là tổng hòa các các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội - liên quan trực
tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại hàng hóa sản phẩm dịch vụ, nhằm thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Kinh tế
dùng để chỉ phương thức sản xuất bao gồm cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chỉ tổng hợp
quan hệ vật chất trong xã hội phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Kinh tế học gia đình áp dụng các khái niệm kinh tế như sản xuất, phân công lao động, phân phối và ra
quyết định cho nghiên cứu về gia đình. Nó cố gắng giải thích các kết quả duy nhất cho gia đình - chẳng
hạn như kết hơn, quyết định sinh con, khả năng sinh sản, đa thê, thời gian dành cho sản xuất trong nước
và thanh toán của hồi mơn bằng phân tích kinh tế.
Kinh tế hộ gia đình là một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu của hộ gia đình, trong đó các thành viên có
tài sản chung, cùng đóng góp cơng sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. Kinh tế gia đình là loại
hình kinh tế tương đối phổ biến và được phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Sự trường tồn của hình
thức sản xuất này đang tự chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của xã hội, góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước. Ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình cũng có vai trị và
13
ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế thị trường với gần 80% dân số đang sinh sống ở
nông thôn với xuất phát điểm thấp, kinh tế hộ gia đình đang là một đơn vị sản xuất phổ biến. Đây là mơ
hình kinh tế có vị trí quan trọng trong q trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế vĩ mô, nhằm huy động
mọi nguồn lực tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước
3.6. Điều kiện xã hội:
Xã hội là một nhóm những cá nhân liên quan đến tương tác xã hội một cách thường xuyên, hoặc một
nhóm xã hội lớn có chung lãnh thổ khơng gian hoặc xã hội, thường chịu cùng thẩm quyền chính trị và
các kỳ vọng văn hóa chi phối. Xã hội và con người là hai mối tương quan, quan hệ mật thiết với nhau,
có con người mới có xã hội, xã hội tồn tại và phát triển theo sự tồn tại và phát triển của lồi người.
Điều kiện xã hội của hộ gia đình bao gồm các yếu tố thuộc về xã hội và có tác động đến đời sống gia
đình như: giáo dục, y tế, dân số.
- Giáo dục: là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của
người khác, nhưng cũng có thể thơng qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên
cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Điều
kiện giáo dục tác động đến khả năng các thành viên trong gia đình được tiếp cận với nền giáo dục, được
đến trường và tham gia học tập.
-Y tế: nghĩa là chữa bệnh và cứu giúp, hay Chăm sóc sức khỏe, là việc chẩn đốn, điều trị và phịng
ngừa bệnh, bệnh tật, thương tích, và suy yếu về thể chất và tinh thần khác ở người. Nó đề cập đến
những việc cung cấp chăm sóc sức khỏe ban đầu, chăm sóc thứ cấp và chăm sóc thứ 3, cũng như trong
y tế cơng cộng. Điều kiện y tế của hộ gia đình thể hiện mức độ tiếp cận được tiếp cận với các dịch vụ y
tế, tham gia chăm sóc y tế của các thành viên trong gia đình.
- Dân số: là tập hợp của những con người đang sống ở một vùng địa lý hoặc một không gian nhất định,
là nguồn lao động quý báu cho sự phát triển kinh tế – xã hội, thường được đo bằng cuộc điều tra dân số
và biểu hiện bằng tháp dân số. Dân số của một quốc gia tác động đến khả năng có việc làm và chất
lượng sống của các hộ gia đình trong cả nước.
3.7. Môi trường văn hóa:
-Mơi trường văn hóa là tổng thể sống động các yếu tố văn hóa nghệ thuật vật thể và phi vật thể bao
quang con người trong khoảng khơng gian, thời gian xác định, các yếu tố đó tác động lẫn nhau và có
quan hệ tương tác với con người, nhàm phát triển phát huy vai trò của con người vừa là sản phẩm, vừa
là chủ thể văn hóa.
Tư tưởng: là hệ thống gồm nhiều, tức là gồm nhiều biểu thị trí thức về một vật hay một người
Quan niệm: là ý tưởng hay tư tưởng người ta về một đối tượng gì, thường gồm nhiều ý tưởng để làm
thành 1 hệ thống
Định kiến: là những ý kiến, quan điểm đã được hình thành, trước khi nhận thức các dữ kiện có liên
quan hoặc biết rõ những thơng tin liên quan của một sự kiện cụ thể. Từ Định kiến thường được sử dụng
để miêu tả những nếp suy nghĩ, quan điểm thường không thuận lợi, đánh giá chủ quan đối với người
14
hoặc một nhóm người, bởi vì giới tính, quan điểm chính trị, quan hệ xã hội, tuổi tác, tơn giáo, chủng
tộc/dân tộc, ngơn ngữ, quốc tịch, hình dáng bên ngồi hay đặc điểm cá nhân khác, từ đó dẫn đến việc
phân biệt đối xử. Trong trường hợp này, định kiến có thể đề cập đến một đánh giá tích cực hay tiêu cực
của một người dựa trên nhận thức của họ trong tư cách thành viên một nhóm hay những quan hệ xã hội
của họ (bị lôi kéo, tác động ảnh hưởng của xã hội, đám đông, do tuyên truyền, tác động truyền thông
hay là do cả nể) Định kiến, do đó có thể hình thành từ những niềm tin vơ căn cứ, và có thể bao gồm
"bất kỳ thái độ không hợp lý và bất thường chống lại những ảnh hưởng hợp lý", Gordon Allport định
nghĩa định kiến như là một "cảm giác, thuận lợi hay bất lợi, đối với một người hay một vật, trước khi
tiếp cận, hoặc khơng dựa trên kinh nghiệm thực tế".
-Và văn hóa cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi bạo lực gia đình. Ảnh hưởng của
những nền văn hóa phong kiến với những quan niệm mang màu sắc định kiến giới, đó là những định
kiến nằm ngay trong truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, chuẩn mực đạo đức bấy lâu nay của xã
hội: tư tưởng trọng nam khinh nữ, chồng chúa vợ tôi, tư tưởng gia trưởng, định kiến giới, phụ nữ là
người gìn giữ hạnh phúc gia đình, “Một điều nhịn chín điều lành”,...Những quan niệm này khiến cho
những người nam giới cho rằng họ có vai trị trụ cột trong gia đình, có quyền định đoạt mọi việc, họ
ln có tư tưởng mình là “tiếng nói” trong gia đình nên có thể mắng chửi vợ vài câu là điều bình
thường, thậm chí tát vợ một cái cũng không sao, hay do hiểu sai mục đích của biện pháp nghiêm khắc
trong giáo dục con cái theo quan niệm “thương cho roi cho vọt” dẫn đến nhiều bậc cha mẹ tự cho mình
quyền được đánh đập, hành hạ con cái mình. Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình cịn do quan điểm
về văn hóa như: Quan điểm gia đình là do nam giới kiểm sốt, quan niệm việc chấp nhận bị bạo hành
sẽ có thể giải quyết xung đột.
4. Những biện pháp cùng với đề xuất nhằm ngăn chặn và hạn chế hiện trạng bạo lực gia đình
hiện nay:
Dựa theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Phịng, chống bạo lực gia đình, ngun tắc phịng, chống
bạo lực gia đình gồm: “Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy
phịng ngừa là chính, chú trọng cơng tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hồ giải phù hợp
với truyền thống văn hố, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”.Đây là ngun tắc chủ
đạo trong phịng, chống bạo lực gia đình bởi nhiều lý do. Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình
mang tính khép kín, với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia đình
thì người ngồi ít có cơ hội xen vào.Vì thế những vụ bạo lực gia đình thường khó phát hiện, khi bị phát
hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e ngại của nạn nhân và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử
lý rồi thì khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là không dễ. Các quy
định pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức của người dân về vấn đề này cịn hạn chế, sự
can thiệp thơ bạo của pháp luật có thể dẫn tới phá hoại các mối quan hệ các thành viên gia đình. Chính
vì vậy, cơng tác tun truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hịa giải trong vấn đề này là rất quan trọng,
góp phần định hướng hành vi của mỗi người: nạn nhân được trang bị kiến thức để tự bảo vệ; người có
thể có hành vi bạo lực có thể nhận thức được tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế tốt hơn;
những người xung quanh biết được trách nhiệm tham gia phịng chống bạo lực gia đình và có ứng xử
phù hợp.
Đối với gia đình: để hạn chế tình trạng bạo lực gia đình, mỗi thành viên phải sống dựa trên sự tôn trọng
lẫn nhau. Các thành viên trong gia đình cần biết lắng nghe và thấu hiểu lẫn nhau. Khi có dấu hiệu bạo
lực gia đình, bạn cần thơng báo cho người thân và chính quyền địa phương để khuyên can và ngăn chặn
kịp thời. Nạn nhân của bạo lực gia đình khơng nên nhẫn nhịn.
15
Đối với xã hội: xóa bỏ bạo lực gia đình là trách nhiệm của toàn xã hội. Trước hết, cần tăng cường công
tác thông tin tuyên truyền cho người dân về hậu quả nghiêm trọng của bạo lực gia đình. Từ đó, nâng
cao nhận thức của người dân về vấn đề này. Các hình thức giáo dục cũng cần được thực hiện từ phạm
vi gia đình đến ngồi xã hội.Tiếp theo đó, cần đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, nếp
sống văn minh trong mọi tầng lớp nhân dân. Cần xóa bỏ việc lạm dụng cờ bạc, rượu bia để thực hiện
hành vi bạo lực gia đình.Cuối cùng, cần xử phạt nghiêm minh, răn đe các hành vi bạo lực gia đình để
làm gương cho mọi người trong xã hội.
Giúp đỡ những nạn nhân, bảo vệ quyền lợi của những người bị ảnh hưởng bởi bạo lực gia đình và có
trong pháp luật là điều quan trọng và mọi người cần tuân thủ điều đó. Những vấn đề về gia đình, trong
đó có bạo lực gia đình thường không nhận được sự quan tâm sâu sắc và đúng đắn của những người
xung quanh, bởi vì họ coi đấy là chuyện riêng, chuyện nội bộ của mỗi nhà. Từ đó, việc giúp đỡ nạn
nhân trở nên hạn chế, nhất là khi họ còn lo sợ sự trả thù của người có hành vi bạo lực. Ngồi ra việc
giúp đỡ nạn nhân như thế nào, bằng những phương tiện gì cũng gây cho họ những lúng túng nhất định,
do đó pháp luật cho phép họ tùy khả năng, tình hình mà đưa ra những xử sự phù hợp nhất, ưu tiên
những đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi.
Đặc biệt là việc tuyên truyền giáo dục nếu kết hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập qn tốt
đẹp của dân tộc thì sẽ càng được phát huy tốt hơn nữa, bởi vì người Việt Nam nói chung chịu tác động
khá lớn từ những tư tưởng này. Đặc biệt, ở những quan niệm “phép vua thua lệ làng”, trình độ dân trí
thấp thì việc giáo dục người dân thông qua các phong tục, tập quán mới có thể phát huy hiệu quả lớn
nhất.
Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật.Đây
là một trong những nguyên tắc chung của pháp luật. Riêng trong lĩnh vực bạo lực gia đình, việc phát
hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi càng có ý nghĩa quan trọng, nếu khơng thì có thể trở thành
“thói quen”, được chấp nhận với cả nạn nhân, người vi phạm và người xung quanh.
Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng kéo dài thì càng gây ra nhiều tổn thương cho nạn nhân, tổn thương
tới mối quan hệ gia đình. Điều này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu hành vi bị phát hiện và xử lý kịp
thời.“Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ
và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao
tuổi, người tàn tật và phụ nữ.”
Đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức lãnh đạo cần có được những chính sách cụ thể nhằm giải quyết
vấn nạn bạo lực gia đình hiện nay. Cùng với đó là cần có những biện pháp cụ thể, hình phạt đủ sức răn
đe nhằm ngăn chặn nhằm đi đến xoá bỏ hiện trạng bạo lực gia đình. Bên cạnh đó là tại xã, phường, thị
trấn cần có những buổi tun truyền về vấn đề bình đẳng giới cũng như là hướng dẫn, hỗ trợ, giải đáp
thắc mắc nhằm giúp phòng chống vấn nạn bạo lực gia đình.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Gia đình chính là tế bào cực kì quan trọng của xã hội vì vậy hiện trạng bạo lực gia đình quả thực đang
là vấn đề hết sức nhức nhối của xã hội. Mặc dù vấn đề này khơng cịn mới và nó vẫn cịn đang diễn ra
hết sức phức tạp vì vậy cần nhận được sự quan tâm nhiều hơn nữa từ cộng đồng. Bạo lực gia đình cũng
lại gây ra rất nhiều những hậu quả khơn lường của bạo lực gia đình là rất lớn. Bạo lực gia đình ln
ln có được những ảnh hưởng của nó cũng rất lâu dài, đặc biệt có thể thấy được rằng bạo lực lại cịn
có ảnh hưởng tới đời sống tinh thần, ảnh hưởng lớn đến đạo đức của con người khiến nạn nhân luôn
phải sống trong lo âu và có biết bao nhiêu đau đớn và sợ hãi, bị tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần.
16
Khi một người ln sống trong sợ hại và có những mối đe dọa ln thường trực với họ thì làm sao họ
có thể thoải mái học tập, làm việc được cơ chứ. Nhất là lại trong không gian gia đình ln được biết
đến là một khơng gian cực hạnh phúc của mỗi người. Khi các thành viên trong gia đình mà chịu những
cảnh bạo lực thì khả năng tan vỡ của gia đình đó cũng rất lớn. Bạo lực gia đình có khả năng biến đứa bé
lì lợm, khó bảo hoặc hoảng loạn về tâm lý có những biểu hiện không tốt và rất dễ bị cám dỗ. Bên cạnh
đó việc phịng chống bạo lực gia đình, bảo vệ người phụ nữ, trẻ em không phải là chuyện một sớm một
chiều có thể giải quyết ngay được. Từ những hậu quả nghiêm trọng trên, ta nhận thấy bạo lực gia đình
là một hành động cực kì sai trái và cần được xã hội chung tay giải quyết triệt để. Giải pháp tốt nhất để
đẩy lùi vấn đề bạo lực gia đình là nâng cao trình độ nhận thức của người dân về cuộc sống và pháp luật,
để phụ nữ và trẻ em hiểu được quyền được bảo vệ, để những người có hành vi sai trái biết được tội lỗi
của mình trước pháp luật. Muốn có thêm hiểu biết, thì việc làm thiết thực nhất đó chính là các hoạt
động tuyên truyền. Ở những vùng núi, hải đảo xa xơi, nơi chưa có những phương tiện thơng tin đại
chúng, nơi người dân vùng bản không biết con chữ là gì, cần lắm những buổi tuyên truyền cho họ để
giảm bớt vấn nạn bạo lực. Bên cạnh đó, xã hội cũng cần phải lên án, tố cáo những hành vi bạo lực gia
đình, để những tội ác đó được đưa ra pháp luật nghiêm trị, răn đe cho những trường hợp về sau. Điều
này địi hỏi phải có thời gian, mà điều tiên quyết là phải nâng cao dân trí, tích cực tun truyền đi đơi
với việc thực hiện bình đẳng giới, thi hành luật và các chế tài nghiêm minh. Phịng chống bạo lực gia
đình khơng phải là việc của một cá nhân hay một tổ chức độc lập mà là cơng việc chung, cần có sự kết
hợp đồng bộ, sự phối hợp của các cơ quan hữu quan và cả hệ thống chính trị, cả xã hội vào cuộc mới
mang lại hiệu quả thiết thực nhằm xây dựng xã hội văn minh tiến bộ, gia đình hạnh phúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[ 1 ]. Đào Xuân Cường, (2016), Pháp luật về phịng, chống bạo lực gia đình – thực tiễn tỉnh Tuyên
Quang, Hà Nội.
[ 2 ]. Luật Phòng, Chống Bạo Lực Gia Đình Và Văn Bản Hướng Dẫn Thi Hành, Nxb. Lao Động, Hà
Nội, 2020.
[ 3 ]. Nguyễn Thị Ngọc Tú, (2017), Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại Thành Phố Hồ Chí
Minh.
[ 4 ]. Tài liệu thảo luận của Liên Hợp Quốc, (2014),Từ bạo lực gia đình đến bạo lực giới tại Việt Nam:
Mối liên hệ giữa các hình thức bạo lực, Hà Nội.
[ 5 ]. Tổng Cục Thống Kê, (2010),“Chịu nhìn là” Kết quả từ nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình
với phụ nữ Việt Nam, Hà Nội.
[ 6 ]. UNFPA Vietnam, (2020), Công bố báo cáo điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt
Nam năm 2019: “Hành trình để thay đổi”, Hà Nội.
[ 7 ]. Nguyễn Hữu Minh, Lê Ngọc Lân, Nguyễn Thị Mai Hoa, Trần Thị Cẩm Nhung (2006), Bạo lực
của chồng đối với vợ ở Việt Nam trong những năm gần đây (tổng quan phân tích), Tạp chí Khoa học về
phụ nữ, số 3.
[ 8 ]. Tổng cục Thống kê (2010), Báo cáo quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam.
17
[ 9 ]. PGS. TS Đặng Thị Hoa, (2020), Bạo lực gia đình ở Việt Nam thực trạng và các yếu tố tác động,
Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Nhà xuất bản KHXH.
[ 10 ].Theo xây dựng môi trường văn hóa để phát triển văn hóa và con người , phát triển bền vững đất
nước, Tạp chí Lý Luận chính trị, 2016.
[ 11 ]. Báo tuổi trẻ online, Nghiên cứu bạo lực gia đình ở Việt Nam. />[ 12 ]. Báo điện tử VTV, Hơn 30% phụ nữ từng hứng chịu bạo lực gia đình. />[ 13 ]. Báo điện tử VTV, Vụ bé gái 8 tuổi bị bạo hành: Xin đừng lặng im!. />[ 14 ]. Trung tâm chăm sóc sức khoẻ Vũ Quang, Số liệu thống kê về bạo hành gia đình đáng báo động
ở Việt Nam. />[ 15 ]. Trang tin pháp luật, Tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam – thực tảng và nguyên nhân. https://
trangtinphapluat.com/blog/bai-viet-hay/hon-nhan-va-gia-dinh/tinh-hinh-bao-luc-gia-dinh-o-viet-nam/
[ 16 ]. Wellcare.vn, Bạo hành gia đình và những dấu hiệu của bạo hành tâm lý.
/>[ 17 ]. Luat Duong Gia.vn, bạo lực gia đình là gì? Đặc điểm và hậu quả của bạo lực gia đình?. https://
luatduonggia.vn/bao-luc-gia-dinh-va-dac-diem-cua-bao-luc-gia-dinh/
[ 18 ]. />[ 19 ]. />[20].. />View_Detail.aspx?ItemID=56
[ 21 ]. />[ 22 ]. Từ điển và danh từ triết học, trang Xã hội học Việt Nam.
18