Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Xây dựng và hoàn thiện Bộ máy Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.33 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thiết lập từ
Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngay từ buổi đầu đã thể hiện bản chất của một
kiểu nhà nước mới, một nhà nước có chế độ dân chủ rộng rãi, gắn bó chặt chẽ với
nhân dân, phục vụ lợi ích của dân tộc, của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Sau hơn nửa thế kỷ, bộ máy nhà nước ta đã được củng cố,
phát triển, hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng một chế độ xã hội
mới.
Quá trình đổi mới toàn diện đất nước mà trọng tâm là đổi mới kinh tế theo
đường lối của Đảng đang diễn ra sôi động. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước từng bước hình thành
cùng với việc thực hiện đường lối đối ngoại mở cửa và yêu cầu dân chủ hố đời
sống xã hội, tất cả đang địi hỏi một mơi trường pháp lý thuận lợi, an tồn, bộ máy
nhà nước có năng lực, đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ chính trị. Tuy vậy,
trong tổ chức và hoạt động, bộ máy nhà nước ta còn bộc lộ nhiều khuyết điểm và
yếu kém như: Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chồng
chéo về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; tiêu chuẩn cán bộ, công chức nhà nước
chưa được xác định rõ ràng, vì vậy cịn những cán bộ làm việc trong bộ máy nhà
nước chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao; hệ thống pháp luật chưa đồng bộ,
thiếu hồn chỉnh; tình trạng quan liêu, cửa quyền, xa rời quần chúng... vẫn cịn,
làm cho hiệu lực quản lý của nhà nước thấp.
Tình hình đó đặt ra u cầu cấp thiết phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nước ta, để bộ máy đó thực sự trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu
quả, bài trừ những khuyết điểm, yếu kém, luôn giữ vững và phát huy bản chất của
một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đây là nhiệm vụ to lớn của sự nghiệp
cách mạng nước ta, đặt ra nhiều thách thức, khó khăn, phức tạp cả trong lý luận và


thực tiễn mà chúng ta phải vượt qua. Việc tiến hành xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện xuất phát điểm của đất


nước ta trong giai đoạn hiện nay là một việc chưa có tiền lệ trong lịch sử. Trong
quá trình xây dựng và hồn thiện bộ máy địi hỏi chúng ta vừa thực hiện, vừa
nghiên cứu, tổng kết để hình thành dần, hồn thiện dần mơ hình phù hợp với yêu
cầu mà lịch sử đặt ra đồng thời giữ được những yếu tố truyền thống, bản sắc của
Việt Nam nhằm đưa cách mạng nước ta đến mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với lý do trên nên tôi chọn đề tài: “Xây dựng
và hồn thiện Bộ máy Nhà nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay”.


NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
1. Những tiền đề tư tưởng cho việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hóa của con
người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân dân lao
động "phá hủy nhà nước tư sản" chiếm lấy chính quyền thiết lập chuyên chính vơ
sản. Bởi vì, "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là
một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác
hơn là nên chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản”.
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân phải nắm vững
cơng cụ chun chính, phải xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở
thành một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ
thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chun chính vơ sản, xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động chống lại

sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo lực khi cần thiết.
V.I.Lênin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bất buộc của chuyên chính là trấn áp
bằng bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính cách là một giai cấp. Đồng thời,
trong thời kỳ quá độ cũng cịn có các giai cấp, tầng lớn trung gian khác và do địa vị
kinh tế - xã hội vốn có, các giai cấp này thường dao động, không thể tự mình đi lên
chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đỏ, giai cấp công nhân phải tuyên truyền, thuyết


phục, lơi cuốn họ đi theo mình trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Do đó, nhà
nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trị là thiết chế cần thiết bảo đảm sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.
Trên cơ sở tiếp thu những yếu tố tích cực trong lịch sử tư tưởng, quán triệt
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, Hồ Chí Minh cũng thể
hiện rất rõ tư tưởng của mình về một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước hết, Người
khẳng định nhà nước phải là nhà nước hợp hiến. Chính vì vậy, khi cách mạng
tháng Tám thành cơng, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ tun bố trước quốc
dân đồng bào và cộng đồng thế giới về quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam:
“Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần, lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập tự do ấy”. Vì thế, Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một nhà nước hợp hiến, nó tiêu biểu cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ, Người đã đề nghị tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội, thành lập Chính phủ
chính thức và ra Hiến pháp. Tháng 11/1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đã được thơng qua. Sự ra đời của chính thể dân chủ cộng
hoà thể hiện một tư duy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn
mơ hình tổ chức nhà nước, vừa tiếp thu được các giá trị phổ biến của nền dân chủ
nhân loại, vừa phù hợp với các đặc điểm của đất nước.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân, kiên

quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi
phạm những giá trị dân chủ chuyên chính của nhân dân, địi hịi phải có một thiết
chế nhà nước phù hợp. Chính vì vậy trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước
phải được củng cố, xây dựng để trở thành công cụ bảo vệ và phát triển thành quả
của dân chủ. Dân chủ cần phải có chun chính để giữ lấy dân chủ, để những hành
vi gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời... Các quyền đó


phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật và được thực hiện bằng những
thiết chế tương ứng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, q trình xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Quá trình này cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương
không bài trừ và phủ định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là
điều kiện, tiền đề tồn tại và phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa đó,
nhà nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ chủ yếu
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, để bảo đảm
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng thì việc xây dựng và khơng
ngừng hồn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa - một trong những cơng cụ chủ yếu
của q trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, là một yêu cầu tất yếu khách
quan trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,
về nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa là cơ sở quan trọng để chúng ta xây dựng
và hoàn thiện bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua các các
thời kì cách mạng. Ngày nay, tư tưởng ấy vẫn tiếp tục rọi sáng con đường xây
dựng và hồn thiện bộ máy nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa, phục vụ sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
2. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa

2.1 Khái niệm bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
Trong khoa học pháp lý khái niệm nhà nước được hiểu theo hai nghĩa rộng
và hẹp. Theo nghĩa rộng, nhà nước là một hiện tượng của thượng tầng chính trị
pháp lý, là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị có phạm vi hoạt động rộng
lớn nhất và có sức mạnh tồn năng nhất. Theo nghĩa hẹp, nhà nước được định


nghĩa là bộ máy quyền lực bao gồm hai yếu tố là bộ máy quản lý và bộ máy cưỡng
chế. Bộ máy đó bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, hoạt động theo những nguyên
tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất và mục đích khác với các kiểu nhà
nước đã tồn tại trước nó, vì vậy nó địi hỏi phải có một bộ máy tương ứng, phản
ánh đúng bản chất của nhà nước, phù hợp với các quy luật vận động và phát triển
khách quan của xã hội, phù hợp với các điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và các yếu tố truyền thống, đạo đức của mỗi nước trong một giai đoạn
cụ thể.
Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện lần đầu tiên ở Cơng xã Pari.
Mặc dù cịn phơi thai, cịn là bộ máy chưa hồn chỉnh và trên thực tế nó chỉ tồn tại
trong 72 ngày, nhưng bộ máy của cơng xã Pari đã có ý nghĩa như một "hình mẫu
phác thảo" cho một mơ hình của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa trong tương
lai. V.I.Lênin đã nhận xét “Công xã Pari dường như đã thay thế bộ máy nhà nước
bị đập tan bằng một chế độ dân chủ "chỉ" hồn bị hơn mà thơi ... cái “chỉ" đó là
một sự thay thế vĩ đại: Thay những cơ quan này bằng những cơ quan khác hẳn về
ngun tắc. Đó chính là một trong những trường hợp lượng biến thành chất” .
Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là hệ thống các cơ quan nhà nước tư
trung ương xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất,
tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức xuất phát từ bản chất của

nhà nước xã hội chủ nghĩa và phải phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và các yếu
tố như truyền thống dân tộc, điều kiện tự nhiên và xã hội ... của mỗi nước trong
từng thời kỳ cụ thể. Khi nhu cầu khách quan của xã hội và những điều kiện chính


trị, kinh tế văn hoá, xã hội ... thay đổi thì bộ máy nhà nước cũng phải có những cải
cách hoặc đổi mới tương ứng.
2.2. Những đặc điểm cơ bản của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà nước xã hội chủ nghĩa, có thể nêu
những đặc điểm cơ bản nhất về bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa như sau:
Thứ nhất, xuất phát từ cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội trong chủ nghĩa xã
hội, và từ bản chất của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa không thể đứng bên trên
hoặc bên lề của các quá trình phát triển kinh tế xã hội, mà nó phải đứng bên trong
các q trình đó. Nhà nước phải thực hiện sự quản lý toàn diện mọi mặt của đời
sống xã hội để bảo đảm sự ổn định về chính trị, củng cố quyền lực nhân dân, phát
huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo; phát triển văn hố,
giáo dục... Tồn bộ những hoạt động quản lý rộng lớn và phức tạp đó địi hỏi nhà
nước phải có một bộ máy có đủ năng lực và sức mạnh để thực hiện các chức năng
quản lý xã hội.
Thứ hai, bộ máy của nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ơ
các nước xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, bắt nguồn từ nhân
dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình theo hai hình thức trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các cơ quan đại diện do mình trực tiếp bầu ra. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa càng phát triển thì các hình thức dân chủ trực tiếp càng mở rộng và bộ máy
nhà nước cũng phải được tổ chức và hoạt động bảo đảm cho nhân dân tham gia
ngày càng nhiều vào việc quản lý và quyết định các vấn đề của nhà nước.
Tuy tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân

chia, nhưng trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có sự phân cơng và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,


hành pháp, tư pháp. Đó là sự phân cơng và phối hợp dựa trên cơ sở tổ chức lao
động (quyền lực) khoa học để tránh sự trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn trong việc
thực hiện ba quyền với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan, bảo
đảm sự vận hành nhịp nhàng, đồng bộ của cả bộ máy nhà nước trong quá trình thực
thì quyền lực mà nhân dân trao cho nhà nước.
Thứ ba, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có đội ngũ cán bộ là những công
chức mới. Đội ngũ cán bộ công chức của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
đáp ứng những tiêu chuẩn chung là: có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
tận tụy phục vụ nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, có quan hệ mật
thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; có trình độ lý luận và thực tiễn, kiên
định tư tưởng và quan điểm của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; có đủ
năng lực và trình độ chun mơn, nghiệp vụ để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể
được giao trong bộ máy nhà nước; có tinh thần phụng cơng, thủ pháp, chí cơng vơ
tư, không quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Họ là những người ln chịu sự giám
sát của nhân dân và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu không hồn thành nhiệm
vụ và khơng được sự tín nhiệm của nhân dân.
Bộ máy nhà nước hợp thành từ nhiều cơ quan và tổ chức nhà nước từ trung
ương xuống địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp, phong phú và đa dạng. Mỗi
cơ quan, tổ chức có vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ riêng, nhưng chúng hợp
thành một thể thống thống nhất, tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc
chung, cùng thực hiện các chức năng chung và nhằm đạt được những mục tiêu
thống nhất đặt ra trước nhà nước.
Các cơ quan nhà nước được thành lập theo qui định của pháp luật. Đó là
những tổ chức có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có biên chế xác định với đội ngũ cán bộ
được xếp theo ngạch, bậc căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể được phân cơng và năng lực,
trình độ thực tế của mỗi người. Sự thành lập hay giải thể một hay một số cơ quan

nhà nước nhất định là xuất phát từ yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ xác


định trong từng thời kỳ nhất định. Số lượng các cơ quan nhà nước nhiều hay ít, đội
ngũ cán bộ đông hay thưa phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan và chủ quan - nhu
cầu xã hội, năng lực cán bộ và cách nhìn nhận vấn đề từ phương diện tổ chức. Hệ
thống các cơ quan nhà nước bao giờ cũng có tính thứ bậc, cơ quan cấp dưới phải
phục tùng cơ quan cấp trên và làm việc theo chế độ thủ trưởng. Tuy nhiên, các cơ
quan nhà nước luôn có tính độc lập tương đối. Mỗi cơ quan nhà nước dù nhỏ cũng
là một tổ chức hoàn chỉnh bao gồm những bộ phận khác nhau, vừa bảo đảm tính
chính trị vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp để thực hiện các công việc cụ thể. Quyền
lực nhà nước (thẩm quyền) được trao cho mỗi cơ quan, hệ cơ quan là “chất keo"
liên kết giữa chúng, là cơ sở để từng cơ quan thực thi nhiệm vụ của mình và cũng
là tiêu chuẩn để phân biệt cơ quan nhà nước với các tổ chức phi nhà nước khác.
Thẩm quyền của mỗi cơ quan được pháp luật qui định một cách chặt chẽ, rõ ràng
và công khai. Trong phạm vi thẩm quyền được trao, mỗi cơ quan độc lập và chủ
động thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, mặc dù các cơ quan nhà
nước có tính thứ bậc và phụ thuộc lẫn nhau, nhưng các cơ quan nhà nước cấp trên
cũng phải tơn trọng tính chủ động sáng tạo của các cơ quan cấp dưới, không thể áp
đặt ý chí của mình một cách tùy tiện. Pháp luật là cơ sở để bảo đảm cho việc giải
quyết đúng đắn mối quan hệ đó.
Nhìn chung, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước thường được biểu hiện
trên ba mặt cơ bản là ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật
và kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy phạm pháp luật. Những công việc quản
lý và chỉ đạo cụ thể đều dựa trên cơ sở của pháp luật và suy cho cùng là bảo đảm
cho mọi hoạt động trong xã hội ổn định và được tiến hành trong khuôn khổ của
pháp luật.
Để thực hiện được việc quản lý toàn diện, thống nhất, mọi mặt đời sống xã
hội, hệ thống cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc kết
hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Toàn bộ các cơ quan được tổ



chức từ trung ương xuống địa phương để thực hiện chức năng quản lý và những
nhiệm vụ cụ thể trong một lĩnh vực nhất định hợp thành một hệ thống cơ cấu tổ
chức ngành. Hệ thống đó được trải rộng trên phạm vi toàn quốc. Trong mỗi địa
phương cụ thể, bộ máy nhà nước ở địa phương cũng có cơ cấu khá đầy đủ các cơ
quan thuộc các ngành nhưng ở cấp thấp hơn. Tuy nhiên, mọi hoạt động của các cơ
quan nhà nước xã hội chủ nghĩa đều phải bảo đảm sự thống nhất, thông suốt từ
trung ương xuống địa phương. Chế độ song trùng trực thuộc phát sinh từ yêu cầu
của thực tiễn nói trên và nhằm bảo đảm tính thống nhất của bộ máy nhà nước.
3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Việc xây dựng bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cần
quán triệt các quan điểm cơ bản sau đây:
3.1 Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước
Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của nhà nước xã hội
chủ nghĩa: quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động bộ máy
nhà nước thể hiện trên ba phương diện.
Thứ nhất, bảo đảm cho nhân dân tham gia đơng đảo và tích cực vào việc tổ
chức ra bộ máy nhà nước. Sự bảo đảm này thể hiện trước hết ở chỗ phải có đủ cơ
sở pháp lý và các biện pháp tổ chức phù hợp để nhân dân thể hiện ý chí của mình,
phát huy quyền làm chủ bầu ra các cơ quan đại diện của mình và thơng qua hệ
thống cơ quan đại diện để lập ra các hệ thống cơ quan khác.
Thứ hai, vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng là phải bảo đảm cho nhân dân
tham gia đông đảo vào việc quản lý công việc của nhà nước và quyết định những
vấn đề trọng đại của đất nước.



Thứ ba, Nhà nước phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm
tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước. Đây là vấn đề
có tính chất ngun tắc, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động đúng mục đích
phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân, chống những biểu hiện tiêu cực như quan
liêu, hách dịch, cửa quyền tham nhũng, xa rời nhân dân của đội ngũ cán bộ công
chức nhà nước.
Ở Việt Nam, từ Hiến pháp đầu tiên (1946) đến Hiến pháp (2013) đều khẳng
định: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quy định trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, và quy định những hình thức để nhân dân tham
gia vào việc thiết lập bộ máy nhà nước, quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước và kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và công chức
nhà nước. Nghị quyết TW 3 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: “Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các
hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và
bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động
của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước”.
3.2 Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định phương hướng tổ chức và hoạt
động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước là điều kiện quyết định để giữ vững bản chất của nhà nước, nâng cao
hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nguyên tắc
hiến định. Điều 4 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể
hiện ở các mặt chủ yếu: Đảng đề ra đường lối chính trị, những chủ trương phương
hướng lớn, quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước. Đảng



lãnh đạo quá trình xây dựng pháp luật, nhất là những đạo luật quan trọng nhằm
thông qua Nhà nước thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp
luật, thường xuyên theo dõi, kiểm tra hướng dẫn lanh đạo các cơ quan nhà nước
hoạt động theo đúng đường lối của Đảng và đào tạo cán bộ tăng cường cho bộ máy
nhà nước.
3.3 Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện việc kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo
tập trung thống nhất của các cơ quan nhà nước ở TW và các cơ quan nhà nước cấp
trên với việc mở rộng dân chủ phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan
nhà nước ở địa phương và các cơ quan nhà nước cấp dưới.
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện trên ba mặt chủ
yếu: Tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, chế độ thông tin và báo cáo kiểm tra xử lý
các vấn đề trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định ở Điều 6 Hiến pháp 2013:
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước đều
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
3.4 Ngun tắc bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc
Đoàn kết là truyền thống quý báu của nhân dân ta, là một trong những nhân
tố quyết định sự thành công của sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát triển đất
nước. Đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đại đoàn kết dân tộc lại là một
chính sách lớn và được khẳng định trong Điều 5 Hiến pháp 2013: “Nhà nước thực
hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát
huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”, “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập qn, truyền thống và
văn hóa tốt đẹp của mình”.
Bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc với mục tiêu chung của dân tộc ta là:
giữ vững độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, phấn đấu xóa bỏ nghèo nàn, lạc


hậu, tiến tới dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bình đẳng,

đồn kết giữa các dân tộc trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam.
3.5 Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là
nguyên tắc hiến định, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, tăng cường pháp chế lại càng trở thành một yêu cầu cấp
thiết. Bên cạnh, việc thực hiện nguyên tắc tính pháp chế thống nhất, còn phải đảm
bảo thực hiện nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa tính pháp chế thống nhất với
tính hợp lý và sự cơng bằng. Trong khi chưa có sự thay đổi của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, mọi chủ đề đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật trong nhà nước
pháp quyền chỉ có thể phát huy được hiệu lực, hiệu quả thực tế khi có sự kết hợp
với đạo đức. Đây là vấn đề có tính quy luật đã được minh chứng trong lịch sử.
Cho dù hồn thiện đến đâu, pháp luật cũng khơng bao giờ dự liệu hết được
tính chất đa dạng, phong phú của cuộc sống. Để bổ sung cho pháp luật, để pháp
luật có thể thực hiện, xã hội cịn cần tới những quy tắc điều chỉnh xã hội khác, như
các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán,… Trong quản lý xã hội, muốn cho
pháp luật được mọi người dân tôn trọng, tự giác thực hiện thì pháp luật phải được
bảo vệ, phải thể hiện được những giá trị đạo đức, được nhân dân chấp nhận, ủng
hộ, đồng tình. Do vậy, lấy đạo đức để quản lý xã hội cũng là một điều tất yếu
khách quan, xuất phát từ chính thực tiễn của cuộc sống. Nhà nước pháp quyền
quản lý bằng pháp luật nhưng không loại trừ đạo đức, bởi pháp luật trong nhà nước
pháp quyền là hướng tới những giá trị nhân đạo, công bằng, hướng tới chân - thiện
- mỹ - ích, tất cả vì mục đích phục vụ con người.


II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN
NAY
1. Thực trạng xây dựng bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1. Thành tựu

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà ra đời. Bộ máy nhà nước ngày càng được củng cố, phát triển và hoàn
thiện đã trở thành công cụ sắc bén để động viên và tổ chức nhân dân hoàn thành
xuất sắc những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam ở mỗi giai đoạn lịch
sử và ngày nay đang lãnh đạo, tổ chức nhân dân thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với sự đổi mới về tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị, nhà nước ta tiếp tục được xây dựng và hồn
thiện. Hoạt động của bộ máy nhà nước cũng có những bước tiến mới.
Chất lượng các kì họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được nâng cao:
Từ ngày 15 - 19/6/2020, Nhà nước đã tổ chức và kết thúc kỳ họp thứ 9 Quốc
hội khóa XIV, các đại biểu đã biểu quyết thông qua nhiều nghị quyết quan trọng.
Ngày 15/6, các đại biểu tiếp tục thảo luận ở hội trường và nghe thành viên
Chính phủ giải trình, làm rõ một số vấn đề về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước.
Quốc hội cũng sẽ thảo luận ở hội trường dự thảo nghị quyết về giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự
nghiệp và tổ chức khác, cùng một số dự án luật như: Luật bảo vệ môi trường (sửa
đổi), Luật cư trú (sửa đổi), Luật xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi)…
Trong ngày họp cuối, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Luật đầu tư theo
phương thức đối tác công tư (PPP), Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Luật thanh niên
(sửa đổi), Luật đầu tư (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xây
dựng; Luật hòa giải, đối thoại tại tòa án...


Ngồi ra, Quốc hội sẽ thơng qua nhiều nghị quyết quan trọng như: nghị quyết
về việc điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc
trên tuyến Bắc - Nam phía Đơng giai đoạn 2017 - 2020; nghị quyết về kết quả giám
sát chuyên đề "việc thực hiện chính sách, pháp luật về phịng chống xâm hại trẻ em";
Nghị quyết về cơng nhận và cho thi hành phán quyết của cơ quan giải quyết
tranh chấp theo quy định của Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA);

Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách tài chính - ngân sách đặc thù đối với thủ đô
Hà Nội; Nghị quyết về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030…
Hiện nay, các kỳ họp Quốc hội cũng được phát trực tiếp để người dân theo dõi,
nắm bắt và phản ánh nhanh chóng.
Các hoạt động của chính phủ dựa trên những định hướng, kết luận của các kì
họp Quốc hội đã sâu sát và thực tế hơn, bám sát vào tình hình đất nước, kịp thời
giải quyết những vấn đề khó khăn của nhân dân.
Các hoạt động của ngành tư pháp (Toà án, Viểm kiểm sát) có nhiều tiến bộ.
Năm 2019, Bộ, Ngành Tư pháp đãtập trung nguồn lực tham mưu cho Đảng,
Quốc hội, Chính phủ tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng tại
các Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6, 7 về xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phối hợp cùng
các bộ, ngành giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội thơng qua 18 dự án luật.
Đặc biệt đã được Đảng, Nhà nước tín nhiệm giao chủ trì tham mưu tổng kết, sơ kết
nhiều nghị quyết, văn bản quan trọng, như Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính
trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 33-CT/TW của Ban Bí thư


ngày 30/3/2000 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của luật sư; Chỉ thị số 39-CT/TW của Ban Bí thư ngày 09/12/2009 về hợp tác với
nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; sơ
kết Hiến pháp năm 2013...
Việc đánh giá đầy đủ, toàn diện kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân
trong quá trình thực hiện các văn bản nêu trên, nhận diện đầy đủ thời cơ và thách
thức và từng bước nghiên cứu, xây dựng các luận cứ quan trọng để tham mưu cho

Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách pháp luật đối với các lĩnh vực
nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn tới.
Bên cạnh đó, ngàn Tư pháp cũng đã thực hiện rất nhiều hoạt động nhằm khẳng
định và nâng tầm vai trò của hệ thống pháp luật vào việc xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nước như: bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia về thực thi Công ước quốc tế
và các quyền dân sự và chính trị, hoàn thành và tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị của
Ban Bí thư về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành của cán bộ, nhân dân”,... cũng như cải tổ hoạt
động ngành Tư pháp được nhanh chóng, thuận tiện hơn như cơng tác hộ tịch, công
chứng hay kết nối liên thông dữ liệu đăng ký khai sinh - cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ
em dưới 6 tuổi,…
Chức năng nhiệm vụ của một số cơ quan được điều chỉnh trước hết là các cơ
quan hành chính nhà nước theo yêu cầu chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu bao
cấp sang quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có sự phân
cấp về thẩm quyền quản lý cho các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Lĩnh vực sự nghiệp và cơng tác cán bộ có sự phân cơng nhiệm vụ rõ ràng.
Nền hành chính được cải cách một bước, đã tiến hành rà soát, hủy bỏ, sửa
đổi các thủ tục hành chính khơng phù hợp, chồng chéo, bất hợp lý gây sách nhiễu,
phiền hà cho nhân dân. Thực hiện mơ hình “một cửa một dấu”, khốn hành chính


và bước đầu thu kết quả. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước cơ quan
hành chính nhà nước cũng được điều chỉnh.
Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính
sách và quy chế đảm bảo quyền dân chủ của dân trước hết ở cơ sở bước đầu được
mở rộng và trở thành hiện thực.
Hiện nay, TW và các cấp địa phương, các bộ ban ngành đã cho ra mắt Cổng
thông tin tiếp nhận ý kiến nhân dân qua mạng xã hội, cho phép người dân nêu ý
kiến, đóng góp và liên hệ khi có những nội dung cần phản ánh, trao đổi. Chính phủ
và các cơ quan chức năng nhờ đó cũng nhanh chóng tiếp nhận và xử lý sự việc,

điều chỉnh hợp lý, giải quyết nhanh các vấn đề tồn đọng.
Đội ngũ cán bộ, công chức được xây dựng theo Luật cán bộ, cơng chức có
những quy định về chức danh, tiêu chuẩn, ngạch, bậc, công chức. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức được chú trọng.
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã có bước đổi mới, đảm bảo
tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của
các cơ quan nhà nước.
Đáng chú ý nhất là hệ thống pháp luật được đổi mới, bổ sung và tăng cường.
Qua mỗi bước phát triển quan trọng của đất nước, nhà nước ta đều có Hiến pháp và
một hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ hơn. Đồng thời, nhà nước ta đã có những
biện pháp tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật và kỷ cương xã hội. Nhờ vậy, mà
mặc dù trong điều kiện chuyển đổi cơ chế cịn nhiều lúng túng, khó khăn nhưng
chúng ta ln giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Việt Nam được bàn bè quốc tế đánh
giá là nơi ổn định và an tồn nhất trên thế giới.
Có thể khẳng định việc xây dựng bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa đúng
hướng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, lành mạnh hố các hoạt động văn hoá, xã hội giữ ổn định lâu dài cho đất nước.
1.2. Hạn chế


Bên cạnh, những thành tựu đạt được, nhà nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế,
yếu kém.
Tổ chức bộ máy cồng kềnh, trùng lặp chức năng với nhiều tầng, nấc trung gian,
trách nhiệm cá nhân, tập thể không rõ ràng, chất lượng, hiệu quả hoạt động thấp .
Cơ chế vận hành với nhiều mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở Trung
ương và địa phương còn bất hợp lý, trách nhiệm cá nhân, tập thể không rõ ràng,
chất lượng hiệu quả hoạt động thấp.
Sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp ở các cấp chưa cụ thể.
Cải cải hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả khơng cao,

cịn nhiều thủ tục gây phiền hà cho dân.
Cơng tác tổ chức cán bộ chậm được đổi mới, hiệu quả quản lý và điều hành
công việc chưa tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước có đổi mới nhưng cịn biểu hiện
“bng lỏng, bao biện”. Mối tương quan giữa các cơ quan Đảng và bộ máy nhà
nước từ trung ương đến địa phương, các tiêu chí phân định sự lãnh đạo chính trị
của các cấp ủy Đảng và quyền độc lập tự chủ của các cơ quan nhà nước còn chưa
cụ thể. Và thực tế là chúng ta còn lúng túng, chính sự lúng túng này làm cho
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất với sự phân cơng ba quyền gặp nhiều
khó khăn khi cụ thể hố về nội dung để tạo cơ sở cho sự thiết kế cơ chế, quan hệ
quyền lực trong bộ máy nhà nước ta.
2. Phương hướng và giải pháp xây dựng và hồn thiện bộ máy nhà nước cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước
Trước hết là kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội
trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, quyền quyết định những vấn đề lớn của
quốc gia và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà


nước. Để phát huy vị trí, vai trị của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc
hội phải được kiện toàn đổi mới theo hướng:
- Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, nâng cao chất
lượng các đạo luật, tăng cường ban hành luật, hạn chế ban hành các pháp lệnh,
nghị định, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở quán triệt quan điểm,
đường lối của Đảng phù hợp với thực tế Việt Nam và luật pháp quốc tế. Muốn vậy,
cần phải xây dựng chương trình làm luật, đổi mới quy trình ban hành và hướng dẫn
thực thi pháp luật.
- Làm tốt chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước,
quyết định và phân bố ngân sách nhà nước hợp lý, tiết kiệm và đúng luật.
- Làm tốt chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà

nước, trước mắt tập trung vào các vấn đề bức xúc như: việc sử dụng vốn, tài sản
nhà nước, chống tham nhũng….
Tiếp đó là thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia. Cải cách nền hành
chính quốc gia là khâu trọng tâm của tồn bộ cơng cuộc cải cách bộ máy nhà nước
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong đó, cải cách thủ tục hành
chính được xác định là khâu đột phá. Mục tiêu đặt ra cho cải cách hành chính xét
về tổng thể là nhằm chuyển dần từ nền hành chính trị trệ, nhiều tầng, nhiều nấc, thủ
tục hành chính phức tạp, khơng thuận tiện cho người dân sang nền hành chính gọn
nhẹ, trong sạch, hiệu quả phục vụ những nhu cầu của người dân và xã hội một cách
tốt nhất.
Trong nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa và một xã hội cơng dân phát triển
lành mạnh, vai trị của bộ máy tư pháp đặc biệt quan trọng. Cải cách tư pháp cần
được tiến hành trong tổng thể của cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính.
Cải cách tư pháp ở nước ta cần tập trung vào một số lĩnh vực hoạt động sau:
- Xây dựng các cơ quan tư pháp vững mạnh, trong sạch, từng bước hiện đại
hóa. Các hoạt động tư pháp phải đảm bảo tính dân chủ, giản tiện, minh bạch và


hiệu quả. Hoạt động tư pháp phải thực sự bảo vệ được các quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân.
- Xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, công bằng, kịp thời mọi hành vi vi
phạm pháp luật, giảm đến mức thấp nhất tình trạng oan sai, tồn động các vụ việc.
- Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tư pháp trong công tác điều tra,
giám định, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động tư pháp khác.
2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tiêu chí nhà nước xã hội chủ nghĩa là vấn
đề rộng lớn, liên quan đến các lĩnh vực xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý.
Trong pháp luật cần chú ý đảm bảo cả về số lượng và chất lượng các văn
bản pháp luật, cả pháp luật về nội dung và pháp luật về thủ tục. Hoàn thiện hệ

thống pháp luật theo hướng đảm bảo tính cơng bằng, minh bạch, tính khả thi của
các quy định, tính đồng bộ và thống nhất của các văn bản, tính phù hợp giữa pháp
luật với các hình thức điều chỉnh khác. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa pháp
luật quốc gia với pháp luật quốc tế.
Tổ chức thực hiện pháp luật, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp
dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xây dựng môi trường xã
hội - pháp lý thuận lợi cho những hành vi hợp pháp.
Đảm bảo thực hiện tính tối cao của luật. Trong hệ thống pháp luật, các đạo
luật phải chiếm ưu thế, điều đó thể hiện tính tối cao của quyền lực nhân dân bởi
các đạo luật được cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân ban hành, quyết định
những vấn đề quan trọng, cơ bản của xã hội.
Đảm bảo tính minh bạch, cơng khai của pháp luật, nhà nước phải đáp ứng
nhu cầu thông tin về pháp luật, về các hoạt động thực tiễn pháp lý cho cá nhân và
tổ chức. Cần triển khai chiến lược xây dựng ý thức pháp luật và nền văn hóa pháp
lý.



×