Bài tập pháp luật đại cương
Nhóm 5 Chương 5: Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng và thực tiễn thực thi tại Việt Nam
I. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại quan hệ
dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật qui
định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân do gây thiệt hại
ngoài hợp đồng.
Quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân là cần
thiết vì: cá nhân gây thiệt hại và việc xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại thuộc về ai có ý nghĩa khơng những về mặt lý luận, mà cịn có
ý nghĩa về mặt thực tế rất quan trọng.Việc xác định ai là người phải
bồi thường thiệt hại do cá nhân là người thành niên hay chưa thành
niên hoặc là người mất năng lực hành vi dân sự khi họ gây thiệt hại là
mục đích điều chỉnh của pháp luật .
II. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân do gây thiệt hại
ngoài hợp đồng.
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người đủ 18
tuổi.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm pháp lý và được áp dụng với tất cả các chủ thể và tùy trong
từng trường hợp cụ thể. Theo tinh thần đó Điều 606 BLDS năm 2005
quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá
nhân tùy thuộc vào độ tuổi và khả năng nhận thức của cá nhân khi gây
thiệt hại cho người khác ở ba mức độ khác nhau. Theo đó năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đơng được quy định
như sau: Theo khoản 1 Điều 606 BLDS năm 2005 quy định: “Người từ
đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”.
Như vậy cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên khi gây thiệt hại cho người khác
phải tự chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của mình cho thiệt
hại mà mình gây ra, điểm đặc biệt ở quy định này pháp luật không hề
đề cập tới khả năng tài chính của cá nhân từ 18 tuổi trở lên có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự này. Bởi lẽ theo quy định của luật lao động
Việt Nam thì những cá nhân từ 15 tuổi đã có khả năng bằng sức lực
của mình tạo nên những tài sản nhất đinh, và họ có quyền tham gia
vào các hợp đồng lao động, nói tóm lại họ đã có thu nhập riêng cũng
đồng nghĩa với họ có tài sản riêng. Bên cạnh đó pháp luật cịn quy
định rõ ràng người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị
bệnh tâm thần, không mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức
không thể làm chủ được hành vi của minh, tóm lại họ có đầy đủ năng
lực hành vi tố tụng dân sự trước Tòa án, yếu tố này quyết định đến
việc họ có khả năng tự chịu trách nhiệm bồi thường ngồi hợp đồng
do hành vi có lỗi của họ gây thiệt hại, và là cơ sở pháp lý để các nhà
làm luật quy định về trách nhiệm bội thường thiệt hại ngoài hợp đồng
đối với những người đã thành niên gây thiệt hại ngoài hợp đồng.
2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của người chưa thành niên.
Bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra có những đặc
thù so với các trường hợp bồi thường thiệt hại khác. Đặc thù này xuất
phát từ các đặc điểm về tâm sinh lý của người chưa thành niên, do sự
phát triển chưa hoàn chỉnh về thể chất và tinh thần nên người chưa
thành niên không thể nhận thức được hoặc nhận thức chưa đầy đủ và
đúng đắn về hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó mang lại.
Theo qui định của BLDS người chưa thành niên dưới 6 tuổi khơng có
năng lực hành vi dân sự (điều 21); người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi có năng lực hành vi dân sự một phần (điều 20). Vì vậy khi người
chưa thành niên gây thiệt hại họ khơng có lỗi hoặc có lỗi nhưng lỗi đó
một phần thuộc về trách nhiệm giáo dục, quản lý của cha mẹ, người
giám hộ hoặc của nhà trường, bệnh viện, các tổ chức khác.
Trên cơ sở xác định cá mức độ năng lực hành vi dân sự của người chưa
thành niên, BLDS qui định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của
người chưa thành niên tại khoản 2, khoản 3 điều 606 BLDS:
“…….
2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà cịn
cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại; nếu tài sản của
cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại
có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ
trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại
thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu khơng đủ tài sản để bồi
thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần cịn thiếu bằng tài sản của
mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây
thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản
của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ
khơng có tài sản hoặc khơng đủ tài sản để bồi thường thì người giám
hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng
minh được mình khơng có lỗi trong việc giám hộ thì khơng phải lấy tài
sản của mình để bồi thường. ”
Theo khoản 2,3 điều 606 của BLDS thì trách nhiệm bồi thường của
người chưa thành niên được xác định dựa trên cơ sở hai yếu tố cơ bản
là độ tuổi tình trạng tài sản của người chưa thành niên.
a) Trong trường hợp nếu người chưa thành niên dưới 15 tuổi và người
đó cịn cha mẹ thì về ngun tắc cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt
hại và phải tham gia tố tụng dân sự với tư cách là bị đơn. Việc pháp
luật qui định cho phép cha mẹ lấy tài sản của người chưa thành niên
dưới 15 tuổi gây thiệt hại bồi thường không làm thay đổi sự tư cách tố
tụng của cha mẹ họ. Trường hợp người chưa thành niên không phải
liên đới cùng cah mẹ để bồi thường, đồng thời, người chưa thành niên
và cha mẹ họ không phải là đồng bị đơn trong vụ án. Qui định như vậy
nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại theo nguyên tắc: “
thiệt hại phải được bồi thường tồn bộ và kịp thời” (điều 605), bên
cạnh đó cịn có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục ý thức trách nhiệm
của người chưa thành niên, tôn trọng pháp luật, tơn trọng các quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác và của xã hội. Bởi lẽ về mặt khác
quan thì cha mẹ là người có trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái
trưởng thành, bảo vệ và tạo mọi điều kiện cho con của mình có được
một cuộc sống tốt đẹp theo như luật hôn nhân gia đình và luật bảo vệ
quyền trẻ em, Cơng ước quốc tế về bảo vệ Quyền trẻ em. Không
những thế cha mẹ phải đồng thời là người có trách nhiệm giáo dục
con của mình trở thành cơng dân có ích cho xã hội, theo quy định tại
Điều 17 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: Cha, mẹ, người đỡ
đầu phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự về những
thiệt hại do hành vi của đứa trẻ mình ni dạy gây ra”. Bên cạnh đó về
mặt pháp lý, cha mẹ là người Đại diện đương nhiên, thay mặt con
trong các quan hệ pháp luật dân sự (Khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự
việt Nam 2005), và chịu trách nhiệm thay con cái nếu như con cái gây
ra thiệt hại và việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người ở độ
tuổi này trước pháp luật phải do người đại diện đương nhiên của họ
thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của
người được đại diện mà cụ thể ở đây là con chưa thành niên dưới
mười năm tuổi gây ra. Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt
hại, về nguyên tắc cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, việc cha mẹ, người giám hộ
dùng tài sản của người chưa thành niên để bồi thường chỉ là một
trong những phương thức mà pháp luật cho phép để cha me, người
giám hộ của người chưa thành niên thực hiện trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của mình nhằm đảm bảo quyền lợi của bên bị thiệt hại.
b) Trường hợp người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi gây thiệt hại. Người từ đủ mười năm đến dưới mười tám tuổi là
những người đã có khả năng tự chủ được hành vi của mình, có khả
năng điều khiển hành vi của mình, có ý thức, kiến thức về xã hội về
pháp luật nhưng cịn hạn chế. Vậy nên ngồi việc họ có quyền, có khả
năng tham gia, thực hiện các giao dịch dân sự của nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hằng ngày, họ có thể tự mình xác lập, giao kết những
giao dịch dân sự với tư cách là một chủ thể của giao dịch dân sự, tuy
nhiên họ phải thỏa mãn được điều kiện đó là họ phải có khả năng kinh
tế để đảm bảo thực hiện giao dịch và thực hiện quyền và nghĩa vụ dân
sự phát sinh từ giao dịch dân sự mà họ thực hiện trong giới hạn, phạm
vi pháp luật cho phép họ tham gia. Nhưng đối với những giao dịch có
giá trị lớn liên quan đến vấn đề chuyển quyền sở hữu, như nhà ở,
quyền sử dụng đất thì pháp luật buộc họ phải có sự đồng ý của người
đại diện, người giám hộ về việc có hay khơng được ký kết, tham gia
giao dịch, vì xét về mặt pháp lý thì họ là những chủ thể có năng lực
hành vi dân sự một phần. Căn cứ vào quy định của Bộ luật lao động
Việt Nam đã được sửa đổi bổ sung năm 2006 thì độ tuổi lao động là từ
mười năm tuổi. Do đó họ đã có quyền tham gia vào các hợp đồng lao
động và có tư cách tố tụng đối với những tranh chấp liên quan đến
vấn đề quan hệ lao động. Hơn nữa theo quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự Việt Nam năm 2004, thì người đủ 15 tuổi đã có năng lực hành
vi tố tụng dân sự tuy còn hạn chế nhưng họ có thể tự mình thực hiện
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự, tham gia với tư cách nguyên đơn hoặc
bị đơn dân sự trước Tịa án. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trước hết thuộc về người chưa thành niên đó, chỉ khi người chưa
thành niên có tài sản nhưng khơng đủ để bồi thường thì cha mẹ phải
bồi thường phần còn thiếu, trong trường hợp này người chưa thành
niên tham gia tố tụng dân sự với tư cách là bị đơn, còn cha mẹ, người
giám hộ họ phải bồi thường phần còn thiếu, bên cạnh với tư cách là
người đại diện cho người chưa thành niên họ còn có tư cách là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của người được giám hộ là
người mất năng lực hành vi dân sự.
Người mất năng lực hành vi dân sự được hiểu là người đã có năng lực
hành vi dân sự nhưng do một số nguyên nhân nào đó dẫn đến việc họ
bị mất năng lực hành vi dân sự ( có thể do họ bị tâm thần hoặc các
bệnh khác mà bộ não phát triển khơng bình thường nên khơng thể
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, chẳng hạn như những
người thiểu năng trí tuệ, bệnh nhân thần kinh). Nhưng về nguyên tắc
họ chỉ bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết định của cơ
quan giám định và quan trọng nhất là có quyết định của Tịa án cơng
nhận họ là người bi mất năng lực hành vi dân sự. Khi họ gây thiệt hại
thì cha mẹ trước tiên là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thay con mất năng lực hành vi gây ra. Nếu khơng cịn cha mẹ thì người
giám hộ sẽ là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản
của người được giám hộ, nếu tài sản của người được giám hộ không
đủ để bồi thường thì người giám hộ có trách nhiệm dung tài sản củ
mình để bồi thường nốt phần còn thiếu, trừ trường hợp người giám
hộ chứng minh được mình khơng có lỗi trong quản lý chăm sóc thì họ
khơng phải dung tài sản của mình để bồi thường và đó được coi như
rủi ro mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Trường hợp người mất
năng lực hành vi dân sự đã có vợ hoặc chồng, có con (đã thành niên,
có năng lực hành vi dân sự) thì vợ con hoặc chồng đương nhiên là
người giám hộ theo pháp luật của người bị mất năng lực hành vi dân
sự và phải chịu trách nhiệm thay họ trước các quan hệ pháp luật mà
họ tham gia, đồng thời phải bồi thường thiệt hại thay người bị mất
năng lực hành vi dân sự theo nguyên tắc sử dụng tài sản riêng của
người bị mất năng lực hành vi dân sự trước nếu tài sản đó khơng đủ
để đền bù thì mới dùng đến tài sản chung của vợ hoặc chồng, hoặc tài
sản chung của cả gia đình để bồi thường, nếu vẫn khơng đủ thì mới
dùng tới tài sản riêng của người giám hộ khi chứng minh họ cũng có
một phần lỗi trong việc chăm sóc, giáo dục, quản lý người được giám
hộ.
4. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của người chưa thành niên
dưới 15 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự trong thời gian
trường học, bệnh viện, tổ chức khác quản lý.
Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2005 quy định: “ Người dưới 15 tuổi trong
thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi
thường thiệt hại xảy ra”. Theo đó nhà trường quản lý học sinh trong
thời gian theo học mà học sinh dưới mười năm tuổi gây thiệt hại ngồi
hợp đồng thì nhà trường phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó nếu học sinh dưới mười năm tuổi gây thiệt hại trong thời
gian thời gian thuộc nhà trường quản lý hoặc trong các hoạt động
ngoại khóa, thăm quan, vui chơi, giải trí do nhà trường tổ chức thì nhà
trường phải bồi thường. Cũng từ đó để xác định được đúng một cách
triệt để trách nhiệm thuộc về ai trong trường hợp học sinh theo học
tại trường mà gây thiệt hại ngoài hợp đồng thì pháp luật có quy định
tại khoản 3 Điều 621 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 có quy định
rằng nếu nhà trường chứng minh được mình khơng có lỗi trong việc
quản lý học sinh để họ gây ra thiệt hại thì mặc nhiên cha mẹ hoặc
người giám hộ theo pháp luật của đối tượng này sẽ phải chịu trách
nhiệm bồi thường. Trong một số trường hợp thì khoảng thời gian
ngồi giờ học tại trường hoặc thời gian từ trường về nhà hay từ nhà
đến trường; khoảng thời gian trước hoặc sau buổi học ở trường sẽ là
căn cứ chứng minh khơng có lỗi trong việc quản lý và trách nhiệm bồi
thường của nhà trường. Đối với người mât năng lực hành vi đang
được bệnh viện, tổ chức có nghĩa vụ quản lý mà theo yêu cầu của
những người thân thích, bệnh viện hay tổ chức có trách nhiệm trực
tiếp quản lý đã đồng ý cho người mất năng lực hành vi về thăm gia
đình. Trong khoảng thời gian đó, người mất năng lực hành vi gây thiệt
hại thì bệnh viện, tổ chức quản lý sẽ khơng phải chịu trách nhiệm bồi
thường. Hoặc trong trường hợp tòa án tuyên bố hủy quyết định tuyên
bố người mất năng lực hành vi dân sự mà ngay tại thời điểm ấy, người
đó trực tiếp gây thiệt hại thì họ tự chịu trách nhiệm bồi thường bằng
tài sản của mình.
5. Một số trường hợp riêng biệt về năng lực bồi thường thiệt hại.
a) Năng lực bồi thường của cá nhân là người của pháp nhân.
Điều 618 BLDS qui định: “ Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do
người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân
giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu
người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật.” Pháp luật khơng thể tự mình thực hiện cơng
việc được. Chính vì vậy, pháp nhân phải có những người nhân danh
pháp nhân và thực hiện công việc cho pháp nhân. Trong nhiều trường
hợp những người nhân danh pháp nhân gây thiệt hại khi đang thực
hiện công việc cho pháp nhân. Trong trường hợp này, pháp nhân phải
đứng ra bồi thường cho người bị thiệt hại. Nếu chứng minh được
người thực hiện công việc cho pháp nhân mà có lỗi trong việc gây ra
thiệt hại thì pháp nhân có quyền u cầu người đó hồn trả một khoản
tiền cho pháp nhân. Qua đó, đối với người của tổ chức mà gây thiệt
hại trong khi thực hiện nhiệm vụ thì pháp nhân phải trực tiếp đứng ra
chịu trách nhiệm bồi thường.
b) Năng lực bồi thường của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Người bị hạn chế năng lực là người thuộc khoản 1 điều23BLDS, đó là
người: “Người nghiện mà túy, nghiện các chất kích thích khác”. Khi có
đơn u cầu thì tòa án ra quyết định những người này là những người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đối với những người bị hạn chế
năng lực hành vi thì gây thiệt hại cho người khác cũng phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi có quyết định của tịa án thì những
người này từ người có đủ năng lực hành vi dân sự sẽ trở thành người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự vẫn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình
trong những trường hợp nhất định. Hơn nữa, người bị mất năng lực
hành vi dân sự còn vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản
của chính mình thì người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi gây ra thiệt hại.
c) Năng lực bồi thường của cá nhân là người đại diện của cơ quan nhà
nước, cán bộ công chức; người của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có một trường hợp
đặc biệt đó là khi cá nhân gây thiệt hại lại là cán bộ, cơng chức hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà
nước. Theo qui định tại điều 619, điều 620 của BLDS, cán bộ công
chức, người của cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại do lỗi cố ý
trong khi thực hiện nhiệm vụ của cơ quan thì cơ quan của người đó sẽ
chịu trách nhiệm bồi thường. Cán bộ công chức, người của cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra thiệt hại sẽ có trách nhiệm hồn trả tồn bộ
hoặc một phần khoản tiền mà cơ quan nhà nước đã bồi thường cho
người bị thiệt hại.
III. Một số trường hợp thiệt hại ngoài hợp đồng cụ thể
Các trường hợp bồi thường ngoài hợp đồng xảy ra trong thực tiễn rất
đa dạng,phong phú.Bộ luật dân sự 2015 quy định về một số trường
hợp cụ thể :
-Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt q giới hạn phịng vệ
chính đáng,u cầu của tình thế cấp thiết(điều 594,điều 595);
-Bồi thường thiệt hại do người dung chất kích thích gây ra(điều 596);
-Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra(điều 597);
Ví dụ về trách nhiệm bồi thường do người của pháp nhân gây ra
Hai thanh niên là N và M vào trung tâm thương mại X chơi, vừa đi xem
quầy hàng, vừa ăn bánh ngọt. A là nhân viên bảo vệ nhắc nhở nội quy
của trung tâm thương mại là khách không được ăn uống trong các
quầy hàng. N và M lờ đi, vẫn điềm nhiên ăn tiếp. A nói với B là một
nhân viên bảo vệ khác. A và B xơng tới, dùng cịng tay để cịng tay N
và M, vừa đánh vừa hô trộm để khách hàng khác tưởng N và M trộm
cắp hàng hóa. N và M bị giữ lại đến tối mới được thả về, sau khi phải
xin lỗi, van xin A và B nhiều lần. Do bị đánh, N và M đều bị thương tích
ở mặt và người. Riêng N do vết thương khá nặng, N phải nghỉ việc,
điều trị ở bệnh viện nhiều ngày. Sau đó, N và M đã tố cáo nhân viên
bảo vệ của trung tâm đến các cơ quan chức năng và yêu cầu được bồi
thường.
– Hành vi của A và B đúng hay sai?
Việc A, B cịng tay N, M đánh, sau đó lại giữ N, M trong trung tâm
nhiều giờ liền là trái pháp luật. Bảo vệ trung tâm thương mại không
phải là người có thẩm quyền cịng tay hay đánh người, giữ người.
– Ai phải bồi thường thiệt hại cho N, M?
N, M là nhân viên của trung tâm thương mại, gây thiệt hại khi đang
thực hiện công việc được giao. Vì vậy, theo Điều 597 Bộ luật dân sự
2015, bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra, trung tâm X
phải bồi thường thiệt hại cho N, M. Sau khi đã bồi thường cho N, M,
trung tâm X có quyền u cầu A, B phải hồn trả một khoản tiền bồi
thường thiệt hại.
– Xác định thiệt hại gây ra cho N và M?
Hành vi của A, B – bảo vệ trung tâm thương mại X đã gây ra thiệt hại
đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của N và M. Vì vậy, trung tâm phải
bồi thường thiệt hại về sức khoẻ theo Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 và
thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm theo Điều 592 Bộ luật dân sự
2015.
-Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra(điều 598);
-Bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi,người mất năng lực hành
vi dân sự gây ra trong thời gian trường học,bệnh viện,pháp nhân khác
trực tiếp quản lý(điêu 599);
-Bồi thường thiệt hại do người làm cơng,người học nghề gây ra(điều
600);
Ví dụ : Tập lái xe mà gây tai nạn thì chủ cơ sở tập lái có phải bồi
thường khơng ? Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra được Bộ luật dân sự 2015 quy định như thế nào ?
- Về mặt khái niệm:
- Người làm công: là người được thuê mướn theo hợp đồng hoặc theo
thông lệ để làm các công việc thường có tính ổn định khơng cao,
thường khơng có các đòi hỏi nhiều về tay nghề ở các cơ sở kinh doanh
sản xuất ở quy mô nhỏ hoặc chỉ đơn giản là làm việc theo thời vụ.
Người này vẫn chịu sự điều động và quản lý của chủ cơ sở hoặc người
thuê mướn nhưng mức độ ràng buộc là lỏng lẻo hơn so với pháp nhân.
- Người học nghề: là người tham gia các chương trình đào tạo nghề
nghiệp tại các cơ sở có chức năng dạy nghề hoặc chỉ đơn giản học
nghề thông qua việc làm công hằng ngày. Trong quá trình học nghề
người này phải chịu sự quản lý và điều động cơng việc có liên quan
đến việc hình thành các kỹ năng nghề nghiệp
- Người sử dụng người làm cơng: khơng phải là chủ thể có tư cách
pháp nhân, trong trường hợp ngược lại thì áp dụng Điều 597 BLDS
2015. Đối với tổ chức dạy nghề có tứ cách pháp nhân thì khơng áp
dụng Điều 597 BLDS 2015.
- Về mặt điều kiện:
- Có thiệt hại xảy ra trên thực tế: tài sản, tính mạng, sức khoẻ.
- Có hành vi trái pháp luật: là hành vi xảy ra khi đang thực hiện công
việc được người sử dụng người làm công giao cho hoặc được người
dạy nghề yêu cầu thực hiện trong q trình đào tạo nghề.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại xảy
ra
- Lỗi: cố ý hoặc vô ý
- Về mặt nội dung:
- Phương thức bồi thường cho người bị thiệt hại
- Phương thức hoàn trả
Như vậy, tập lái xe mà gây tai nạn thì chủ cơ sở tập lái phải bồi
thường.
-Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra(điều 601);
-Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường(điều 602);
-Bồi thường thiệt hại do súc vật,cây cối,nhà cửa,cơng trình xây dựng
khác gây ra(điều 603,604,605);
-Bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể,mồ mả(điều 606,607);
-Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng (điều
608)