Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Luận văn Đề tài Trả đũa thuế quan và sự triệt tiêu thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.94 KB, 45 trang )

LUẬN VĂN
ĐỀ TÀI:
TRẢ ĐŨA THUẾ QUAN VÀ SỰ TRIỆT
TIÊU THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh
Phần I: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Thực tiễn hoạt động buôn bán giữa các nước trên thế giới hiện nay đã cho
thấy rõ xu hướng tự do hóa thương mại và vai trò của thương mại quốc tế với tăng
trưởng quốc tế của các nước. Thương mại quốc tế đã trở thành một lĩnh vực quan
trọng tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát
triển kinh tế và làm giàu cho đất nước mình.
Thương mại quốc tế ngày nay không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán
mà thể hiện sự phụ thuộc tất yếu của các quốc gia vào phân công lao động quốc
tế.vì vậy thương mại quốc tế được coi như là một tiền đề, một nhân tố để phát
triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động
và chuyên môn hóa quốc tế.
I. Thương mại quốc tế và lợi ích thương mại quốc tế, đặc trưng thương
mại quốc tế
1. Thương mại quốc tế là gì?
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ quan biên giới quốc
gia hoặc lãnh thổ. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương với một tỷ lệ lớn
trong GDP. Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài
người, tầm quan trong kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một
cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng
với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa
quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài. Việc tăng cường thương mại quốc
tế thường được xem như ý nghĩa cơ bản của "toàn cầu hoá".
Thương mại quốc tế với tư cách là một khoa học cũng là một nhánh của kinh
tế học. Thương mại quốc tế hợp cùng tài chính quốc tế tạo thành ngành kinh tế học
quốc tế.
2. Lợi ích từ thương mại quốc tế


Không thể phủ nhận vai trò cần thiết của thương mại quốc tế đối với sự phát
triển của kinh tế các nước ngày nay. Có thể nói rằng thương mại quốc tế có ý
nghĩa sống còn đối với các nước tham gia vì nó cho phép các quốc gia tiêu dung
các mặt hàng với số lượng nhiều hơn và chúng loại phong phú hơn mức có thể tiêu
dung với ranh giới của đường giới hạn khả năng sản xuất, trong điều kiện đóng
cửa nền kinh tế của nước đó, hay nói cách khác là thương mại quốc tế giúp mở
rộng khả năng tiêu dung của một nước. Bên cạnh đó nó còn cho phép các quốc gia
thay đổi ngành nghề kinh tế, cơ cấu vật chất của sản phẩm theo hướng phù hợp với
đặc điểm sản xuất của mình hơn. Cụ Thể:
- Thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển
- Thông qua thương mại quốc tế có thể nhận thấy được, giới thiệu được
và khai thác được những thế mạnh, những tiềm năng của đất nước mình,
từ đó có thể tiến hành phân công lao động xã hội cho phù hợp nhất
- Tạo điều kiện các nước tranh thủ khai thác tiềm năng, thế mạnh của các
nước khác để thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển trên cơ sở
tiếp thu những tiến bộ khoa học công nghệ và sử dụng những hàng hóa,
dịch vụ tốt, rẻ mà mình chưa sản xuất được hay sản xuất không hiệu
quả.
- Thúc đẩy quá trình liên kết quốc tế, xã hội giữa các nước ngày càng chặt
chẽ và mở rộng hơn, điều đó sẽ góp phần làm ổn định tình hình kinh tế,
chính trị của các quốc gia và của toàn thế giới.
- Nâng cao khả năng tiêu dung, tăng mức sống của dân cư
- Làm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước và
mở rộng mối quan hệ quốc tế.
3. Đặc trưng thương mại quốc tế
Bên cạnh việc thương mại quốc tế phải khai thác được mọi lợi thế tuyệt đối
của đất nước phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế thì cũng cần
phải nói đến lợi thể tương đối có thể đạt được. Có nghĩa là phải luôn tính toán giữa
cái có thể thu được và cái phải trả khi tham gia vào thương mại quốc tế để có biện
pháp, chính sách thích hợp. So với buôn bán trong nước thì thương mại quốc tế có

những đặc trưng riêng.
Quan hệ buôn bán trong nước là mối quan hệ giữa những người tham gia vào
quá trình sản xuất và lưu thông trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hóa
trong nước trong khi đó thương mại quốc tế thể hiện sự chuyên môn hóa và phân
công lao động ở trình độ cao hơn và quy mô hơn. Nó được phát triển trong một
môi trường hoàn toàn khác so với các quan hệ buôn bán trong nước.
Thương mại quốc tế là quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể của các nước
khác nhau, các chủ thể có quốc tịch khác nhau. Vì vậy liên quan đến thương mại
quốc tế là liên quan đến hàng loạt các vấn đề khác nhau giưa các nước. điều này
làm cho thương mại quốc tế phức tạp hơn rất nhiều so với các quan hệ buôn bán
trong nước.
Các đặc điểm riêng của thương mại có thể tóm gọn lại như sau:
- Trong thương mại quốc tế các nhà kinh doanh phải quan tâm đến không chỉ
một đồng tiền của quốc gia mình mà cần phải nắm rõ tình hình thị trường
tiền tệ, chính sách tiền tệ của các nước khác nữa để lựa chọn sử dụng một
đồng tiền thanh toán hợp lý nhất vì đồng tiền thanh toán trong thương mại
quóc tế là ngoại tệ đối với ít nhất là một bên tham gia.
- Trong thương mại quốc tế thì hàng hóa và dịch vụ được chuyển đi qua biên
giới của các quốc gia. Vì vậy quan hệ thương mại quốc tế phụ thuộc rất
nhiều vào chính sách thương mại của các nước, đặc biệt là việc quản lý
thương mại quốc tế thông qua các công cụ chinh sách như thuế, hạn ngạch
và các công cụ phi thuế quan. Chính phủ của các nước có thể sử dụng các
hàng rào để ngăn ngừa hay điều tiết luồng hàng hóa nhập khẩu để bảo hộ
cho các doanh nghiệp nội địa hay cũng có thế sử dụng các công cụ khác
như trợ giá để giúp các doanh nghiệp nội địa tăng khả năng cạnh tranh trên
thị trường. Ngoài ra do vận chuyển cũng trở nên phức tạp hơn rất nhiều, đòi
hỏi thêm nhiều hoạt động kèm theo như các thủ tục thông quan, vận chuyển
thường thông qua các hang vận tải, mua bảo hiểm cho hàng hóa.
- Các hàng hóa tham gia vào thương mại quốc tế phải phù hợp với quy định
của các nước về hcinsh sách mặt hàng và loại hàng hóa, dịch vụ mà thế giới

chấp nhận. Vì vậy đối với hàng hóa và dịch vụ tham gia vào thương mại
quốc tế phải đạt một số tiêu chuẩn nhất định.
Nói chung so với thương mại trong nước thì thương mại quốc tế có những
nét đặc trưng riêng của mình. Chính những nết đặc trưng này làm cho thương mại
quốc tế trở nên phức tạp hơn, điều này đỏi hỏi các doanh nghiệp khi tham gia vào
thương mại quốc tế thì phải có một cái nhìn tổng quát, đồng thời phải hiểu rõ được
bản chất của các quan hệ thương mại quốc tế chứ không thể nghĩ một cách đơn
giản rằng cứ buôn bán trong nước được thì cũng có thẻ buôn bán với nước ngoài
được.
II. Các lý thuyết về thương mại quốc tế
1. Lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương
Giai đoạn xuất hiện : thế kỷ 17
Tiền tệ: vàng, bạc được sử dụng như tiền tệ và là thước đo của cải của nhà
nước.
Xuất khẩu sẽ kích thích sản xuất trong nước, đồng thời dẫn đến dòng kim
loại quý đổ vào bổ sung cho kho của cải của quốc gia đó. Ngược lại nhập khẩu sẽ
là gánh nặng vi làm giảm nhu cầu dối với hàng sản xuất trong nữa và hơn nữa dẫn
đén sự thất thoát của cải của quốc gia do phải dung vàng bạc chi trả cho nước
ngoài. Như vậy của cải của một quốc gia sẽ tăng lên nếu xuất khẩu nhiều hơn nhập
khẩu.
 Nhà nước phải thi hành chính sách bảo họ mậu dịch, theo đuổi chủ nghĩa
dân tộc về kinh tế. Cụ thể là nhà nước phải hạn chế tối đa nhập khẩu, đồng
thời khuyến khích sản xuất và xuất khẩu thông qua các công cụ của chính
sách thương mại như thuế quan hay trợ cấp.
Hạn chế:
- Chưa giải thích được cơ cấu hàng hóa trong thương mại quốc tế.
- Chưa thấy được tính hiệu quả và lợi ích từ quá trình chuyên môn hóa sản
xuất và trao đổi.
- Chưa nhận thức được rằng các kết luận này chỉ đúng trong một số trường
hợp nhất định

- Coi vàng bạc là hình thức của cải duy nhất => bị phê phán
- Gắn mức cung tiền cao với sự thịnh vượng của quốc gia
- Coi thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích bằng 0
 Nhìn chung thuyết trọng thương sớm đánh giá được tầm quan trọng của
thương mại quốc tế, coi trọng vai trò chủ thể, điều chỉnh quan hệ buôn bán
nước ngoài và nhà nước. Tuy nhiên quan điểm trọng thương về thương mại
còn đơn giản, ít tính lý luận, nặng tính kinh nghiệm, chưa cho phép giải
thích bản chất của thương mại quốc tế.
2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
Là lý thuyết có tính hệ thống đầu tiên về thương mại quốc tế
Tác gia tiêu biểu: Adam Smith
Nội dung thuyết:
 Nếu quốc gia A có thể sản xuất mặt hàng X rẻ hơn so với quốc gia B và
quốc gia B có thế sản xuất mặt hàng Y rẻ hơn quốc gia A thì lúc đó mỗi
quốc gia nên tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có hiệu quả hơn và
xuất khẩu mặt hàng này sang bên quốc gia kia. Trong trường hợp này mỗi
quốc gia được xem là có lợi thế tuyệt đối về sản xuất từng mặt hàng cụ thể.
 Theo ông, mỗi nước có lợi thế khác nhau nên chuyên môn hóa sản xuất
những sản phẩm mà mình có lợi thế tuyệt đối và đem trao đổi với nước
ngoài lấy những sản phẩm mà nước ngoài sản xuất có hiệu quả hơn thì các
bên đều có lợi
Ví dụ:
Mô hình 2-2 đơn giản gồm:
Hai quốc gia : Việt Nam – Hàn Quốc
Hai mặt hàng : cà phê và thép
Giả định:
Chi phí vận chuyển là không đáng kể và coi như bằng 0
Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được tự do di chuyển
giữa các ngành sản xuất trong nước nhưng không di chuyển được
giữa các quốc gia

Tất cả các thì trường đều là cạnh tranh hoàn hảo
Không sử dụng tiền trong trao đổi
Số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản lượng cà phê và
thép ở mỗi nước được cho trong bảng 2.1
Bảng 2.1: Chi phí lao động cho sản xuất cà phê và thép ở Việt Nam và Hàn Quốc.
Việt Nam Hàn Quốc
Thép 5 3
Cà phê 2 6
Trường hợp 1: Khi chưa có sự trao đổi thương mại
Khi chưa có sự trao đổi thương mại thì Hàn Quốc và Việt Nam là hai thị
trường biệt lập.
Trong điều kiện kinh tế tự cung tự cấp thì :
- Hàn Quốc là nước có hiệu quả cao hơn trong sản xuất thép
Để làm ra một đơn vị thép Hàn Quốc chỉ cần 3 lao động
Để làm ra một đơn vị thép Việt Nam cần tới 5 lao động
- Ngược lại Việt Nam lại có hiệu quả cao hơn trong sản xuất cà phê
Để sản xuất 1 đơn vị cà phê thì Việt Nam cần 2 lao động
Để sản xuất 1 đơn vị cà phê thì Hàn Quốc cần 6 lao động.
 Việt Nam có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cà phê và bất lợi tuyệt đối
trong sản xuất thép. Và Hàn Quốc có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất thép
và bất lợi tuyệt đối trong sản xuất cà phê
Trường hợp 2: Có sự trao dổi thương mại
Theo lý thuyết thì Hàn Quốc sẽ chuyên môn hóa vào sản xuất thép còn Việt
Nam chuyên môn hóa vào sản xuất cà phê rồi trao đổi với nhau thì cả hai quốc gia
đều thu được lợi ích do xuất phát từ nhu cầu của cả hai nước với giá tiêu dung là
thấp nhất.
 Hàn Quốc sẽ có lợi hơn khi mua cà phê từ Việt Nam thay vì tự mình sản
xuất
 Ngược lại Việt nam cũng sẽ thu được lợi nhiều hơn khi mua thép của Hàn
Quốc thay vì tự mình sản xuất

Ngoài ra thương mại còn có thể làm tăng khối lượng sản xuất và tiêu dung
của toàn thé giới do mỗi nước thực hiện chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng mà
mình có lợi thế tuyệt đối
Trường hợp 1: Tự cấp tự túc
Giả sử Hàn Quốc và Việt Nam,mỗi nước có 60 đơn vị lao động và số lao
động đó chia đều cho hai ngành sản xuất
Bảng 2.2. Sản lượng tiêu dung của hai nước trong trường hợp tự cung, tự
cấp
Việt Nam Hàn Quốc
Thép 6 10
Cà phê 15 5
Sản lượng của toàn thế giới lúc bấy giờ là 16 thép và 20 cà phê
Trường hợp 2: khi thương mại quốc tế được tiến hành trên cơ sở chuyên
môn hóa sản xuất theo quan điểm của lợi thế tuyệt đối, lượng lao động ở
mỗi nước sẽ được phân bố lại.
Giả sử 60 lao động của Hàn Quốc thì tập trung vào sản xuất thép và 60 lao
động của Việt Nam tập trung vào sản xuất cà phê,
Bảng 2.3. Sản lượng sản xuất của hai nước trong trường hợp thương mại
quốc tế được tiến hành
Việt Nam Hàn Quốc
Thép 0 20
Cà phê 30 0
Sản lượng của toàn thế giới lúc này là 30 cà phê và 20 thép.
 Thông qua chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi lượng hàng hóa
của toàn thế giới đã tăng lên lớn hơn mức sản xuất của mỗi nước
như trong trường hợp tự cung tự cấp. Vì vậy mỗi nước đều có thể
tiêu dung nhiều hơn lượng mà họ có thể sản xuất ra được trong
điều kiện không có trao đổi thương mại quốc tế . Mở rộng khả
năng tiêu dung ra khỏi đường giới hạn khả năng sản xuất trong
điều kiện tự cấp tự túc chính là động lực của trao đổi thương mại

quốc tế.
Ưu điểm: Lý thuyết này không chỉ giúp mô tả hướng chuyên môn
hóa sản xuất và trao đổi giữa các quốc gia mà còn được coi là công
cụ để các quốc gia gia tăng phúc lợi. Mô hình thương mại này có thể
giúp giải thích được một phần của thương mại quốc tế.
Hạn chế: vẫn chưa giải thích được lý do cảu thương mại quốc tế
trong mọi trường hợp.
3. Lý thuyết lợi thế tương đối
Lý thuyết lợi thế tương đối và mô hình giản đơn của D. Ricardo
 Ông cho rằng nếu mỗi nước chuyên môn hóa vào các sản phẩm mà nước đó
có lợi thế tương đối ( có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại
sẽ có lợi cho các bên. Nói cách khác một quốc gia sẽ có lời khi sản xuất và
xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao
hơn một cách tương đối hay giá cả thấp hơn một cách tương đối so với
quốc gia kia.
Ví dụ: vẫn sử dụng mô hình đơn giản 2-2
Mô hình 2-2 đơn giản gồm:
Hai quốc gia : Việt Nam – Hàn Quốc
Hai mặt hàng : cà phê và thép
Giả định:
Chi phí vận chuyển là không đáng kể và coi như bằng 0
Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được tự do di chuyển
giữa các ngành sản xuất trong nước nhưng không di chuyển được
giữa các quốc gia
Tất cả các thì trường đều là cạnh tranh hoàn hảo
Không sử dụng tiền trong trao đổi
Chi phí lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm cà phê và thép
tính theo lượng lao động cần thiết được trình bày trong bảng sau:
Bảng 3.1. Chi phí lao động cho sản xuất cà phê và thép ở Việt Nam và Hàn
Quốc

Việt Nam Hàn Quốc
Thép 5 6
Cà phê 2 12
Hàn Quốc cần nhiều lao động hơn so với Việt Nam để sản xuất ra cả hai mặt
hàng
Theo lý thuyết tương đối thì việc Hàn Quốc không có lợi thế tuyệt đối so với
Việt nam cũng không cản trở trao đổi thương mại diễn ra giữa hai nước
Lợi thế tương đối được xác định trên cơ sở so sánh các mức giá tương quan
của hai hàng hóa. Giá tương quan của hai mặt hàng hóa được định nghĩa một cách
đơn giản là giá của mặt hàng này được tính bằng số lượng của mặt hàng kia. Trong
mô hình giản đơn trên, giá cả tương quan giữa cà phê và thép được xác định thông
qua chi phí lao động. từ bảng 3.1 có thế tính được các mức giá tương quan của cà
phê và thép như trong bảng 3.2 sau:
Bảng 3.2. Giá cả tương quan giữa hai hàng hóa
Việt Nam Hàn Quốc
Thép( 1 đơn vị) 2.5 cà phê 0.5 cà phê
Cà phê( 1 đơn vị) 0.4 thép 2 thép
Trong mô hình này, mặc dù Việt Nam có lợi thế về cả hai mặt hàng nhưng do
mức lợi thế về sản xuất cà phê lớn hơn mức lợi thế về sản xuất thép, thể hiện qua:
2/12 < 5/6 ( hay giá cà phê ở Việt Nam rẻ hơn một cách tương đối), cho nên nước
này có lợi thế tương đối về mặt cà phê.
Đối với Hàn Quốc, mặc dù có bất lợi tuyệt đối về cả hai mặt hàng, nhưng
nhìn chung Hàn Quốc vẫn có lợi thế về thép.
Nếu thay vì sử dụng 5 đơn vị lao động để sản xuất một đơn vị thép thì Việt
Nam dành 5 đơn vì này để sản xuất cà phê thì sẽ sản xuất được 2,5 đơn vị cà phê.
Trong điều kiện thương mại tự do nếu 2.5 đơn vị cà phê này được bán sang Hàn
Quốc với mức giá của quốc tế bằng mức giá của hàn quốc là 1 cà phê = 2 thép thì
việt nam sẽ thu về được 5 đơn vị thép, lợi hơn 4 đơn vị thép so với tự sản xuất
trong nước. tương tự, nếu hàn quốc dung 12 đơn vị lao động để sản xuất thép sẽ
được 2 đơn vị thép thay vì sản xuất 1 đơn vị cà phê và bán sang việt nam với mức

giá quốc tế bằng mức giá của việt nam là 1 thép =2.5 cà phê thì hàn quốc sẽ thu về
được 5 đợn vị cà phê (cũng có lợi hơn 4 đơn vị cà phê so với việc tự sản xuất cà
phê trong nước). nếu tỉ lệ trao đổi nằm giữa 2 mức giá tương quan của 2 nước việt
nam và hàn quốc thì cả 2 nước vẫn sẽ thu được lợi ích từ thương mại quốc tế
nhưng không được nhiều như 2 trường hợp trên.
4. Học thuyết H.O
Hai nhà kinh tế học Eli F. Heckscher (1879-1952) và Bertil Ohlin (1899-1979)
đã đưa ra lời giải thích dựa vào sự khác biệt về nguồn lực giữa hai quốc gia (Hàn
nhiều vốn, Việt Nam nhiều lao động) và sự khác nhau trong tỷ lệ các yếu tố sản
xuất được sử dụng để sản xuất ra các hàng hóa (sản xuất máy tính cần nhiều vốn,
sản xuất áo quần cần nhiều lao động) như là nguồn gốc duy nhất của lơi thế so
sánh. Học thuyết nay sau đó được cá nhà kinh tế học khác như Paul Samuelson,
Jaroslav tiếp tục phát triển, và còn được gọi là học thuyết về tỷ lệ các yếu tố sản
xuất.
 Nội dung cơ bản của học thuyết.
- Trong một nên kinh tế mở cửa, mỗi bước tiến đến chuyên môn hóa ngành
sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là
thuện lợi nhất. Trao đổi quốc tế la sự trao đổi các yếu tố dư thừa lấy các
yếu tố khan hiếm. các nước chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm cân
nhiều yếu tố dư thừa của nước mình để xuất khẩu và nhập khẩu những sản
phẩm mà để sản xuất ra nó đòi hỏi nhiều yếu tố khan hiếm.
Cụ thể các yếu tố của các sản xuất chúng ta thường nói đến đó là gì? Có bốn
yếu tố cơ bản là: vốn, lao động, công nghệ, đất đai. Những yếu tố này không phân
bố đều ở các quốc gia . chẳng hạn, các nước phát triển có thể coi là dư thừa về vốn
và công nghệ, trong khi các nước ddng phát triển lại có nhiều lao động
Định luật xu hướng cân bằng vê thu nhập của các yếu tố sản xuất
-khi các nước tự do hóa thương mại, không có nước nào chuyên môn hóa hoàn
toàn thì thu nhập của các yếu tố sản xuất giữa các nước có xu hướng cân bằng
nhau.
Hàn Quốc Việt Nam

Sản xuất oto tăng =>nhu cầu vốn
tăng=> thừa vốn được giải quyết=> lãi
suất tăng
Sản xuất oto giảm=>cầu về vốn
giảm=>giảm tình trạng thiếu vốn=>lãi
suất giảm
Cân bằng lãi suất
Sản xuất quần áo giảm=> cầu lao
động giảm=>lương giảm
Sản xuất quần áo tăng=>cầu lao động
tăng=>lương tăng
Cân bằng lương
Thương mại quốc tê làm tăng thu nhập thực tế của cac yếu tố dư thừa và giảm
thu nhập thực tế của cá yếu tố khan hiếm
 Mô hình
a. Mô hình nền kinh tế có hai yếu tố sản xuất
Các giả định
Giả sử có hai mặt hàng vải (C-tính bằng mét) và thực phẩm (F-tính bằng
calo). Để sản xuất ra hai sản phẩm này cần đến hai đầu vào là lao động –L(giờ
công) và đất đai- T(ha)
Chúng ta có những ký hiệu sau:
- a
TC
: số ha đất được sử dụng để sản xuất môt mét vải
- a
LC
: số giờ công lao động để sản xuất một mét vải
- a
TF
: số ha đất được sử dụng để sản xuất một calorie thực phẩm

- a
LF
: số giờ công lao động để sản xuất một calorie thực phẩm
Nguồn lực của nên kinh tế là hữu hạn, nghĩa là quỹ đất và số giờ lao động bị
giới hạn. nhà sản xuất có thể có nhiều phương án sử dụng nguồn lực khác nhau để
sản xuất sản phẩm. chẳng hạn, nế bỏ thêm nhiều giờ công hơn trên một ha đất thì
ha đất có thể mang lại nhiều sản lượng thực phẩm hơn. Như vậy, người chủ trại có
thể dùng phương án sử dụng ít đất đi, nhiều lao động lên, hoặc ngược lại, nghĩa là
có sự lựa chọn kết hợp các yếu tố sản xuất khác nhau.
Hình 4.1: đầu vào cho sản xuất thực phẩm
a
TF

kết hợp các nguồn lực để sx
một calorie thực phẩm
a
LF
Thực tế việc kết hợp sử dụng các nguồn lực như thế nào sẽ phụ thuộc vào giá
tương đối của đất đai và lao động. Nếu giá đất cao và giá nhân công thấp, người
nông dân sẽ chọn dùng ít đất đi và dùng nhiều lao động lên, ngược lại nếu giá đất
rẻ và giá nhân công mắc người ta sẽ tiết kiệm lao động và dùng nhiều đất. chúng ta
kí hiệu:
w: giá nhân công lao động một giờ
r: giá thuê một ha đât
Tỷ lệ giá tương đối của các yếu tố sản xuất này w/r sẽ quyết định sự lựa chọn các
nguồn lực của người nông dân, cũng như người sản xuất vải. mối quan hệ giữa giá
tương đối w/r và tỷ lệ đất lao động được thể hiện ở hình sau (đường FF biểu hiện
mối quan hệ này với mặt hàng thực phẩm, và CC biểu hiện cho mặt hàng vải).
w/r
CC

FF
T/L
Hình 4.2: giá cả đầu vào và lựa chọn nguồn lực
Chúng ta thấy đường CC nằm bên trái đường FF, nghĩa là ở một mức giá tương
đối w/r nhất định, sản xuất thực phẩm sẽ có tỷ lệ sử dụng đất /lao động nhiều hơn
sản xuất vải.
T
F
/L
F
>T
C
/
LC
VD: nếu sản xuất thực phẩm dùng 80 lao động và 200ha đất, trong khi sản xuất vải
dùng 20 lao động và 20ha đất, thì ta nói sản xuất thưc phẩm la sử dụng nhiều
đất( thâm dụng đất đai). Sản xuất vải sẽ sử dụng nhiều lao động (thâm dụng lao
động). độ thâm dụng như vậy phụ thuộc vào tỷ lẹ dùng đất so với lao động, chứ
không phụ thuộc vào tỷ lệ đất đai/ sản lượng đầu ra hoặc lao động/sản lượng. môt
sản phẩm không thể thâm dụng cả hai yêu tố sản xuất.
Chi phí yếu tố đầu vào và giá cả hàng hóa
Giả thiết nền kinh tế này sản xuất cả hai mặt hàng vải và thực phẩm (thực tế tham
gia vào thương mại quốc tế, một nước có thể chuyên môn hóa hoàn toàn, nhưng ta
tạm thời bỏ qua khả năng này). Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong mỗi khu
vực sẽ khiên giá hàng hóa bằng chi phí sản xuất. chi phí sản xuất phụ thuộc vào
giá của các yếu tố sản xuất: nếu giá thuê đất cao hơn, các yếu tố khác không đôi
thì giá của sảm phẩm sử dụng nhiều đất sẽ cao hơn.
Tác động của giá đầu vào lên chi phí sản xuất một hàng hóa phụ thuộc vào việc
sản xuất hàng hóa đó cần bao nhiêu yếu tố đầu vào này. Nếu sản xuất vải cần rất ít
đất, thì dù giá thuê đất cao nó cũng không tác động nhiều đến giá vải, tuy nhiên lại

có thể đẩy giá thực phẩm lên rất nhiều. ta kết luận có quan hệ tỷ lệ thuận giữa tỷ lệ
tiền lương/ tiền đất w/r và tỷ lệ giá vải/ giá thực phẩm (giá tương đối của vải tính
bằng thực phẩm
Hình 4.3: giá đầu vào và giá hàng hóa
P
C
/P
F
S
w/r
Do chi phí yếu tố đầu vào phụ thuộc vào tính sẵn có của đầu vào (T/L), một
nền kinh tế sẽ có xu hướng sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố đầu vòa
mà nền kinh tế đó dư thừa.
Kết hợp hai sơ đồ trên, có thể thấy khi P
C
/P
F
tăng, tỷ lệ T
C
/L
C
và T
F
/L
F
cũng
tăng như hình sau
w/r
CC
FF

SS
III. Cơ sở và lợi ích của thương mại quốc tế
1. Phân tích trạng thái cân bằng khi không có mậu dịch
Khi chưa có mậu dịch một quốc gia đạt trạng thái cân bằng khi ddowngf con
bang quan cao nhất gặp đường giới hạn khả năng sản xuất tại điểm tiếp tuyến.
điểm này cho thấy sự cân bằng nội địa tại giá cả sản phẩm so sánh và biểu hiện lợi
thế so sánh quốc gia.
Giả sử thế giới có hai quốc gia với đường cong giới hạn khả năng sản xuất
như hình dưới đây. Khi không có mậu dịch:
- Điểm cân bằng của quốc gia I chính là điểm A – điểm gặp nhau giữa hai
đường bang quan và đường giới hạn khả năng sản xuất. Tức là tại điểm
này, quốc gia I đạt lợi ích cực đại của sản xuất và tiêu dùng.
- Tương tự như vậy điểm cân bằng của quốc gia II chính là điểm A’- điểm
tiếp tuyến giữa đường bang quan và đường giới hạn khả năng sản xuất.
Quốc gia II đạt lợi ích cực đại của tiêu dùng và sản xuất tại điểm này
Khi không có mậu dịch, giá cả sản phẩm so sánh cân bằng được xác định bởi
độ nghiêng của đường tiếp tuyến chung giữa đường giới hạn khả năng sản xuất
của quốc gia với đường bang quan tại điểm cân bằng ( tức là tại điểm tự cung tự
cấp của sản xuất và tiêu dùng ). Tại quôc gia I, giá cả sản phẩm so sánh cân bằng
khác nhau ở hai quốc gia bởi sự khác nhau về vị trí và hình dạng của đường sản
xuất và đường cong bang quan đại chúng.
Sp nông nghiệp Sp nông nghiệp
QUỐC GIA I QUỐC GIA II
A’
A I’
I
P
A

P

A
Sp công nghiệp Sp công nghiệp
Vì PA>PA’ nên quốc gia II có lợi thế so sánh đối với sản phẩm công ngiệp
và quốc gia I có lợi thế so sánh đối với sản phẩm nông nghiệp. theo quy luật lợi
thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu cả hai quốc gia chuyên môn hóa sản
xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghiệp để đổi lấy sản phẩm nông nghiệp từ quốc
gia I và quốc giá I chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp
đổi lấy sản phẩm công nghiệp từ quốc gia II.
Mặc dù ở đây mới xét tới trường hợp tự cung tự cấp tức là khi chưa có mậu
dịch, giá cả sản phẩm so sánh cân bằng trong mỗi quốc gia đã được xác định dựa
trên mối quan hệ cung cầu. Cung ở đây chính là đường giới hạn sản xuất của quốc
gia và cầu là được coi như là tổng hợp biểu đồ bang quan thể hiện sự tiêu dùng của
quốc gia. Đây là điểm hơn hẳn, mang tính thực tế cao hơn so với trường hợp chi
phí cơ hội là cố định. ở đó trạng thái cân bằng là Px/Py là cố định trong mỗi quốc
gia không tính đến mức độ sản xuất và điều kiện tiêu dùng, nó được xác định chỉ
bởi độ nghiêng của đường giới hạn khả năng sản xuất.
2. Phân tích cơ sở và lợi ích khi có mậu dịch
Vì có sự khác nhau trong giá cả sản phẩm so sánh giữa hai quốc gia như là
biểu hiện của lợi thế so sánh mà hai quốc gia tiến hành mậu dịch với nhau để cùng
có lợi. mỗi quốc gia sẽ chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm mà họ có lợi thế so
sánh ( nghĩa là sản xuất nhiều hơn sản phẩm đó ngoài tiêu dùng trong nước ) và
trao đổi một phần sản lượng của nó với các quốc gia khác.
Tuy nhiên vì mỗi quốc gia chuyên môn hóa vào sản xuất sản phẩm mà họ có
lợi thế so sánh nên họ phải gánh chịu chi phí cơ hội tăng lên. Quá trình chuyên
môn hóa này sẽ tiếp tục cho đến khi nào giá cả sản phẩm so sánh ở cả hai quốc gia
trở nên bằng nhau và tại đó mậu dịch đạt trạng thái cân bằng. cuối cùng với mậu
dịch vả hai quốc gia đều tiêu dùng nhiều hơn so với khi không có mậu dịch. Quá
trình này diễn ra như thế nào, biểu đồ sau đây sẽ cho thấy quá trình này.
SP nông nghiệp SP nông nghiệp
B QUỐC GIAII

QUỐC GIA I I’
E E’
A’ II’
II B’
A
I
Sp công nghiệp Sp công nghiệp
Bắt đầu từ điểm A ( điểm cân bằng khi không có mậu dịch)
- Quốc gia I sẽ chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm nông nghiệp và chuyển
động xuống phía trên trên đường giới hạn khả năng sản xuất, gánh chịu chi
phí cơ hội tăng trong sản xuất sản phẩm nông nghiệp ( thế hiện độ nghiêng
giảm xuống của đường giới hạn khả năng sản xuất). Bắt đầu từ điểm A’
quốc gia 2 chuyên môn hóa sản xuất theo sản phẩm công nghiệp nên nó
chuyển động xuống phía dưới theo đường giới hạn sản xuất, gánh chịu chi
phí cơ hội tăng trong sản xuấtcông nghiệp thể hiện độ nghiêng tăng lên của
đường giới hạn sản xuất ( một sự giảm chi phí cơ hội của sản phẩm nông
nghiệp, nghĩa là làm tăng chi phí cơ hội đối với sản phẩm công nghiệp)
Quá trình chuyên môn hóa cứ tiếp tục cho đến khi giá cả sản phẩm so sánh
chúng ấy sẽ đạt tới ở đâu đó giữa Pa và Pá là những giá cả sản phẩm so sánh của
hai quốc gia trước khi có mậu dịch. Tại điểm này mậu dịch sẽ cân bằng.
Khi có mậu dịch sản xuất của quốc gia I chuyển động từ điểm A đến điểm B
trên đường giới hạn sản xuất. Tại đây, quốc gia I đổi một lượng sản phẩm nông
nghiệp lấy sản phẩm công nghiệp từ quốc gia II. Như vậy, quốc gia I sẽ tiêu dùng
tại điểm E trên đường bang quan II. Đó là mức thỏa mãn cao nhất mà quốc gia I có
thể đạt được nhờ mậu dịch với quốc gia 2 theo tỷ lệ trao đổi mới. Do đó nếu so
sánh với trước khi mậu dịch ( tức là điểm A và đường bang quan I ) thì quốc gia I
đã có lợi.
Tương tự như vậy sản xuất của hai quốc gia II chuyển động từ điểm A’ đến
điểm B’ trên đường giới hạn khả năng sản xuất và trao đổi một lượng sản phẩm
công nghiệp để lấy sản phẩm nông nghiệp từ quốc gia I. Cuối cùng quốc gia II sẽ

đạt điểm tiêu dùng tại E’ trên đường bang quan II’. Nếu so sánh với trước khi mậu
dịch thì quốc gia cũng có lợi.
Trước đây khi nghiên cứu mô hình mậu dịch với chi phí cơ hội không đổi, cả
hai quốc gia đề chuyên môn hóa hoàn toàn vào sản xuất sản phẩm mà học có lợi
thế so sánh. Bây giờ với mô hình mậu dịch chi phí cơ hội tăng, chuyên môn hóa sẽ
là không hoàn toàn trong sản xuất ở cả hai quốc gia
Vd: quốc gia I sản xuất nhiều hơn sản phẩm nông nghiệp ( sản phẩm mà họ
có lời thế so sánh ) nhưng vẫn sản xuất một ít sản phẩm công nghiệp. tương tự
quốc gia Ii sản xuất nhiều hơn sản phẩm công nghiệp ( sản phẩm mà họ có lợi thế
so sánh) nhưng cũng sản xuất một ít sản phẩm nông nghiệp.
Tại sao lại như vậy: nếu quốc gia I chuyên môn hóa sản xuất một sản phẩm
học phải gánh chịu chi phí cơ hội tăng trong sản xuất sản phẩm còn lại. Nhưng khi
có mậu dịch, giá cả sản phẩm so sánh sẽ chuyển động theo hướng gặp nhau,tức là
sự mất cân đối dần dần trở nên ít đi,cho đến khi có sự đồng nhất hoàn toàn ở cả
hai quốc gia.
IV. Quy tắc điều chỉnh thương mại quốc tế
Trước đây, thương mại quốc tế thường được điều chỉnh bằng các hiệp định
thương mại song phương giữa hai nước. Trước thế kỷ 19, khi chủ nghĩa trọng
thương còn chiếm ưu thế, đa số các nước áp đặt những mức thuế cao cùng nhiều
hạn chế thương mại khác đối với hàng nhập khẩu. Kể từ thế kỷ 19, tư tưởng về
thương mại tự do dần dần nổi lên giữ vai trò chủ đạo ở các nước phương Tây, đặc
biệt là ở Anh. Trong những năm kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, các
hiệp định thương mại đa phương như GATT và WTO đã cố gắng xây dựng một cơ
chế thương mại quốc tế có sự thống nhất điều chỉnh trên phạm vi toàn cầu.
Hướng tới thương mại tự do, các hiệp định thương mại không chỉ đàm phán
việc giảm thuế mà còn đàm phán cả các biện pháp phi thuế như hạn chế số lượng
nhập khẩu, cấp phép nhập khẩu, vệ sinh kiểm dịch, đầu tư nước ngoài, mua sắm
chính phủ và tạo thuận lợi cho thương mại bằng cách đơn giản hóa các thủ tục hải
quan.
Trong quá khứ, thương mại tự do thường tập trung vào các mặt hàng nông sản,

trong khi các mặt hàng chế tạo thường mong muốn được bảo hộ. Tình hình trong
hiện tại lại ngược lại, đặc biệt là ở các nước phát triển. Ở Hoa Kỳ, châu Âu và
Nhật Bản, những cuộc vận động hành lang đối với các lĩnh vực nông nghiệp là
nguyên nhân chính khiến cho trong đa số các hiệp định thương mại quốc tế, lĩnh
vực nông nghiệp có nhiều quy định mang tính chất bảo hộ hơn là những lĩnh vực
hàng hóa và dịch vụ khác.
Thương mại quốc tế thường được điều chỉnh bởi các quy tắc có tính toàn cầu
thông qua các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới, mặc dù cũng có mộ số
thoả thuận thương mại khu vực như AFTA giữa các nước ASEAN;
MERCOSUR giữa một số nước ở Nam Mỹ ; NAFTA giữa Hoa
Kỳ, Canada và Mexico; Liên minh Châu Âu giữa 25 quốc gia ở châu Âu. Có thể
kể thêm một số thỏa thuận thương mại quốc tế thất bại như Khu vực Mậu dịch Tự
do Châu Mỹ (FTAA) hay Hiệp định Đa phương về Đầu tư (MAI).
V. Rào cản thương mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế, các “rào cản kỹ thuật đối với thương mại”
(technical barriers to trade) thực chất là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một
nước áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp của
hàng hoá nhập khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (Các biện pháp
kỹ thuật TBTs).
Phần II: THUẾ QUAN
I. Khái niệm, đặc điểm và tác dụng của thuế xuất khẩu, nhập khẩu
1. Khái niệm thuế xuất, nhập khẩu
Thuế xuất, nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào các hàng hóa xuất,
nhập khẩu qua biên giới cửa khẩu Việt Nam kể cả hàng từ thị trường Việt Nam
vào phi thuế quan và từ khu phi thuế quan ra thị trường Việt Nam theo quy định.
2. Đặc điểm
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là loại thuế gián thu, được cấu thành trong giá
cả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu gắn chặt với hoạt động kinh tế đối ngoại của
mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.

- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố quốc tế
như: sự biến động kinh tế quốc tế, xu hướng thương mại quốc tế…Thuế
xuất khẩu, nhập khẩu điều chỉnh hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
của một quốc gia.
3. Tác dụng của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
- Quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu.
- Góp phần mở rộng kinh tế đối ngoại.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động xuất, nhập khẩu.
- Góp phần phát triển và bảo vệ sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước.
- Huy động nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
- Góp phần bảo hộ ngành công nghiệp nội địa.
4. Thuế suất
* Thuế suất thuế xuất khẩu: thuế suất đối với hàng hoá xuất khẩu được
quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại biểu thuế xuất khẩu do Bộ Tài chính quy
định.
* Thuế suất thuế nhập khẩu: thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu được
quy định cụ thể cho từng mặt hàng, gồm có:
- Thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước không có thỏa thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt
Nam. Thuế suất thông thường áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu
đãi của từng mặt hàng tương ứng quy định tại biểu thuế nhập khẩu ưu đãi:
Thuế suất thông
thường
=
Thuế suất
ưu đãi
x 150%
- Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hóa có xuất xứ từ nước có thỏa
thuận đối xử tối huệ quốc đối với Việt Nam. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định biểu thuế theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với

từng nhóm hàng. Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định biểu thuế theo danh mục mặt
hàng có thuế suất cụ thể đối với từng mặt hàng.
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước mà Việt Nam đã có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu. Chính phủ
quy định thuế suất ưu đãi đặc biệt cho từng mặt hàng theo thỏa thuận đã được ký
kết.
Ngoài 3 loại thuế suất trên, còn một số trường hợp có thể áp dụng thuế suất
bổ sung. Nếu hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam, có sự trợ cấp, được bán
phá giá hoặc có phân biệt đối xử đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thì bị
áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử,
thuế để tự vệ.
Thực chất của thuế suất bổ sung là loại thuế mang tính chất trừng phạt khi
các nước nhập khẩu có ý định bán phá giá làm phương hại đến nền kinh tế ở Việt
Nam. Loại thuế này do Chính phủ quy định được thường vụ Quốc hội chấp nhận
thông qua.
5. Tác động của thuế nhập khẩu đến nền kinh tế
Khi đánh thuế nhập khẩu, người sản xuất hàng trong nước được lợi nhưng
người tiêu dùng bị thiệt hại vì nó làm tăng giá của hàng nhập khẩu từ mức giá thế
giới lên bằng với giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu. Đồ thị này chỉ ra tác động
của thuế nhập khẩu.
Khi thực hiện thương mại tự do cân bằng thị trường như sau: người tiêu dùng
muốn mua một số lượng Qd hàng hoá ở mức giá thế giới trong khi những nhà sản
xuất trong nước chỉ sản xuất một số lượng Qs ở mức giá thế giới. Bằng cách nhập
khẩu phần thiếu hụt (chênh lệch giữa Qd và Qs) ở mức giá thế giới, người tiêu
dùng có thể thoả mãn toàn bộ nhu cầu ở mức giá này.
Khi có thuế nhập khẩu cân bằng thị trường như sau: giá hàng hoá trong nước
bị tăng lên đến mức bằng giá thế giới công với thuế nhập khẩu kích thích những
nhà sản xuất trong nước sản suất thêm, đẩy sản lượng sản xuất trong nước từ Qs
lên Qs'. Tuy nhiên do giá tăng nên cầu của người tiêu dùng bị kéo từ Qd xuống
Qd'. Rõ ràng việc giá bị đẩy lên cao đã làm cho người tiêu dùng phải trả thêm một

khoản tiền bằng diện tích của hình chữ nhật CEGH để mua số lượng hàng Qd'.
Khoản trả thêm này một phần (bằng diện tích hình BCEF) được chuyển cho chính
phủ dưới dạng thuế nhập khẩu thu được, một phần (bằng diện tích hình AFGH)
được chuyển thành lợi nhuận của nhà sản xuất trong nước do vậy hai phần này
không làm thiệt hại lợi ích tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên phần diện tích hình
ABF đã bị mất trắng, đây chính là tổn thất của xã hội để chi phí cho sự yếu kém
của những nhà sản xuất trong nước. Diện tích hình ECD lại là một tổn thất nữa khi
độ thoả dụng của người tiêu dùng bị giảm sút: thay vì có thể tiêu thụ Qd hàng hoá,
do có thuế nhập khẩu họ chỉ có thể tiêu dùng Qd' mà thôi.
Tóm lại, thuế nhập khẩu dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng
sang chính phủ và nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích ròng của
toàn xã hội. Do những tác động ấy, nó khuyến khích sản xuất phi hiệu quả trong
nước, làm cho người tiêu dùng giảm sút độ thoả dụng do phải tiêu dùng ít đi
nhưng nó tạo ra nguồn thu cho chính phủ.

×