Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

tham khảo sự hình thành EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.09 KB, 32 trang )

BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 1


Lời mở đầu
Thế kỷ 21 là thế kỷ của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam hiện nay là nước đang phát triển, đang trên con đường hội
nhập với kinh tế quốc tế. Đó là xu thế tất yếu mà chúng ta không thể
tránh khỏi.Chính vì vậy mà việc mua bán trao đổi với các quốc gia
khác là việc hết sức quan trọng. Việc đẩy mạnh kinh ngạch xuất khẩu
sẽ giúp thu về nhiều ngoai tệ để phát triển đất nước. Vì lý do đó mà
các thị trường tiềm năng, có nhu cầu nhập khẩu luôn thu hút sự chú ý
của các thương nhân Việt Nam. EU là 1 liên minh vững mạnh trên thế
giới, là tập hợp của nhiều quốc gia giàu có, nhu cầu về các lọai hàng
hóa đa dạng nên EU chính là 1 trong những thị trường tiềm năng đó.
Thực tế đã cho thấy là trong những năm gần đây kim ngạch xuất nhập
khẩu giữa EU và Việt Nam ngày càng lớn.
Tìm hiểu về EU, về quá trình hình thành, phát triển và đặc biệt là
các chính sách GSP của EU dành cho các nước đang phát triển sẽ giúp
các thương nhân Việt Nam thuận tiện hơn trong việc trao đổi mua bán
với EU. Giúp các thương nhân Việt Nam khai thác tốt nhất các lợi thế
của mình đồng thời tránh được những sai sót không đáng có trong mua
bán quốc tế. Đồng thời đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hóa giữa 2
thị trường. Hiện nay, khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
của WTO thì điều này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Vì những lý do trên mà chúng ta cần tìm hiểu về EU và các chính
sách GSP của EU dành cho các nước đang phát triển như Việt Nam.














BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 2


Phần I: Quá trình ra đời của EU.

Châu Âu là xứ sở và cội nguồn của tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn
minh thế giới, đăc biệt với hai sự kiện lịch sử trọng đại ở hai nước Tây Âu
đó là cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh trong thế kỷ 18 và cuộc cách mạng
Tư sản Pháp 1789, Châu Âu đã để lại dấu ấn đậm nét đối với lịch sử thế giới
từ cận đại cho đến nay. Có thể nói nếu Châu Âu thống nhất sẽ tạo thành sức
mạnh vô song, chính vì điều đó mà lịch sử Châu Âu là lịch sử của việc thực
hiện những ý tưởng về thống nhất Châu Âu bằng nhiều biện pháp, dưới
nhiều hình thức khác nhau từ quân sự, chính trị đến kinh tế.
• Ý tưởng thống nhất Châu Âu bằng quân sự đã được Napoleon thực hiện
bằng cuộc chiến tranh 1804-1810, và Đức Quốc Xã thực hiện bằng việc phát
động các cuộc chiến tranh trong thế kỷ 20.
• Ý tưởng thống nhất Châu Âu bằng chính trị và ngoại giao đã được các
cường quốc Châu Âu cố gắng thực hiện thông qua việc triệu tập Hội nghị

Viên (1814- 1815), ký hiệp ước thành lập khối liên minh ba nước Đức, Áo,
Ý (1882) và khối hiệp ước Anh, Pháp, Nga (1907).
Nhưng kết quả chỉ để lại một Châu Âu bị tàn phá, đổ nát và bị chia sẻ sâu
sắc thành nhiều mảnh. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt và đẫm
máu, đặc biệt là Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và Chiến tranh thế giới lần
thứ hai, các nhà lãnh đạo Châu Âu đã nhận ra “con đường duy nhất để xây
dựng một Châu Âu hùng cường với một nền hoà bình bền vững là thống
nhất Châu Âu trong một cơ chế kinh tế- chính trị”.
Từ ý tưởng đó, ngày 9-5-1950 Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman
đã đưa ra sáng kiến khởi đầu cho quá trình thống nhất Châu Âu, hình thành
EU, ông đã đề nghị liên minh các ngành công nghiệp than và thép của Tây
Âu.
• Ngày 18-4-1951 tại Paris, Hiệp định thành lập Cộng đồng Than và Thép
Châu Âu (European Coal and Steel Community- ECSC) đã được ký kết,
gồm 6 nước thành viên: Bỉ, Cộng hoà Liên bang Đức (Tây Đức), Pháp,
Italia, Hà Lan và Lucxembourg.
Ngày 6-1955 tại hội nghị Messine (Ý), ngoại trưởng 6 nước ECSC đã bàn
đến ý tưởng liên kết kinh tế một cách sâu rộng hơn, tiến tới thành lập Thị
trường chung Châu Âu.
Ngày 25-3-1957 tại Rome, ngoại trưởng 6 nước đã thảo luận 4 vấn đề chủ
yếu do ngoại trưởng Italia Paul Henry Spack soạn thảo:
- Hợp tác trong các ngành năng lượng cổ truyền (điện, khí đốt);
- Hợp tác trong việc sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình;
- Mở rộng và phát triển hệ thống giao thông vận tải Châu Âu;
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 3

- Xây dựng thị trường chung Châu Âu.
Kết quả hai hiệp định quan trọng đã được ký kết, đánh dấu một bước tiến

quyết định trong quá trình thống nhất Châu Âu:
• Thành lập cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu (EURATOM)
· Thành lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (European Economic Community-
EEC)
Như vậy, đến năm 1957 đã có 3 tổ chức lien kết ở các nước Tây Âu với các
chức năng cụ thể:
ECSC chịu trách nhiệm điều tiết việc sản xuất, phân phối than và thép cho
thị trường; Đề ra các chính sách kiểm sóat giá cả, khuyến khích thương mại
và đầu tư.
EURATOM là tổ chức liên kết 6 nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử,
đưa ra các quy định nhằm thúc đẩy công việc hợp tác nghiên cứu phổ biến
kiến thức, bảo vệ môi trường, khai thác nguồn nguyên liệu, đầu tư- xây dựng
các cơ sở năng lượng nguyên tử, thành lập một thị trường chung về năng
lượng nguyên tử giữa các thành viên.
EEC boa gồm những lĩnh vực kinh tế rộng hơn so với hai cộng đồng trên;
mục đích của EEC là xây dựng một thị trường chung Châu Âu; Từng bước
hội nhập kinh tế để tiến tới một thị trường thống nhất; Xóa bỏ những trở
ngại cho qua trình lưu thông hàng hóa giữa các nước, như: thuế quan, hạn
ngạch, … Xây dựng biểu thuế quan chung, chính sách đối ngoại chung cho
các nước thành viên trong khối; Xóa bỏ những trở ngại cho quá trình di
chuyển vốn vá sức lao động giữa các thành viên trong khối; Xây dựng và
thực hiện chính sách chung về phát triển nông nghiệp, giao thông vận tải,
các chính sách xã hội…
Để đảm bảo tính chặt chẽ, phát huy có hiệu quả các mối liên kết, ngày 1-7-
1967 ba tổ chức ECSC, EURATOM và EEC hợp nhất thành EC- European
Community- Cộng đồng Châu Âu, gồm 6 nước: CHLB Đức, Pháp, Italia,
Bỉ, Hà Lan và Lucxembourg.
EC là tiền thân của EU ngày nay, có 3 mục đích cơ bản: giữ gìn hòa bình;
thống nhất về kinh tế; thống nhất về chính trị.
Tuy nhiên trong giai đọan đầu không phải mọi nước Tây Âu đều tán đồng

việc thành lập EC. Ví dụ như Anh, với chủ trương dựa vào Mỹ để chống
Liên Xô và xây dựng quan hệ “bạn bè đặc biệt” với Mỹ. Tháng 5-1960, Anh
chủ xướng thành lập Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) gồm:
Anh, Nauy, Thụy Điển, Áo, Bồ Đào Nha, Ireland và Thụy Sĩ. Nhưng đó chỉ
là một tổ chức liên kết kinh tế đơn thuần và Anh đã không thành công như
mong muốn. Trước sự thành công và lớn mạnh của EC, các nước ngoài khối
lần lượt xin gia nhập EC và quá trình mở rộng tổ chức này bắt đầu diễn ra:
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 4

- Lần mở rộng thứ nhất: Ngày 22-1-1972 Hiệp ước Brussells được ký kết,
theo đó, kể từ ngày 1-1-1973, EC chính thức công nhận ba thành viên mới
Anh, Ireland và Đan Mạch.
- Lần mở rộng thứ hai: Ngày 12-6-1975 Hy Lạp (mở đầu cho các nước Nam
Âu) đệ đơn xin gia nhập EC nhưng mãi đến 1-1-1981 Hy Lạp mới được
chính thức kết nạp và trở thành viên thứ 10 của EC.
- Lần mở rộng thứ ba: Ngày 23-8-1977 Bồ Đào Nha và sau đó ngày 28-7-
1978 Tây Ban Nha đệ đơn xin gia nhập EC. Đến 1-1-1986, trải qua gần 10
năm bền bỉ chờ đợi thì hai Hiệp ước mới được ký kết tại Lisbon và Madrid,
theo đó Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trở thành thành viên thứ 11 và 12 của
EC.
- Ngày 29-5-1986 lá cờ của EC có màu xanh dương sẫm với 12 ngôi sao
vàng lần đầu tiên bay trên bầu trời Châu Âu lộng gió.
Không chỉ thay đổi lớn mạnh về số lượng qua những lần mở rộng, kết nạp
thêm thành viên mới, mà EC còn có những thay đổi to lớn về chất với dấu
mốc quan trọng là Hiệp ước Maastricht.
- Đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, Liên Xô và phe XHCN tan rã, cuộc chiến
tranh lạnh của thế giới, lưỡng cực, sự đối đầu Đông-Tây chấm dứt. Đăc biệt
bức tường Berlin sụp đổ, nước Đức thống nhất hùng mạnh đã trở thành một

nhân tố quan trọng tạo nên một trật tự mới ở Châu Âu nói riêng và tòan thế
giới nói chung. Trước sự biến đổi sâu sắc của thế giới, EC muốn khẳng định
vai trò và vị trí của mình thì cần phải liên kết chặt chẽ hơn nữa. Với ý tưởng
đó, Hội nghị Thượng đỉnh các nước EC đã nhóm họp tại Maastricht (Hà
Lan) để bàn về một Hiệp ước mới- thành lập Liên minh Châu Âu.
- Vào mùa hè năm 1991 các nước EC đã đàm phán thành công với các nước
EFTA về việc thành lập khu vực kinh tế Châu Âu (EEA), một không gian
kinh tế thống nhất rộng lớn ở Tây Âu.
- Năm 1992, các nước ký kết Hiệp ước Maastricht, giới thiệu một hình
thức hợp tác mới giữa các quốc gia thành viên như: phòng thủ, xét xử tội
phạm, nội vụ và quyền công dân. Bằng cách mở rộng hợp tác sang các lĩnh
vực khác ngoài kinh tế, Hiệp ước Maastricht đã tạo ra Liên minh Châu Âu
(EU) thay cho Cộng đồng Châu Âu. Từ đó các nước thành viên bắt đầu cùng
tham gia giải quyết những vấn đề và đưa ra chính sách chung từ nông nghiệp
đến văn hóa, cạnh tranh thương mại, môi trừơng, vận chuyển … Đáng chú ý
là Hiệp ước này cho phép tất cả các công dân của các thành viên có quyền
sống và bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử ở bất kỳ quốc gia thành viên nào.
EU cũng bãi bỏ chế độ kiểm tra hộ chiếu và hải quan ở biên giới các nước
thành viên. Và cũng theo Hiệp ước này thì một số chính sách đã thay đổi
đáng kể bộ mặt EU như: chính sách nông nghiệp chung nhằm mục đích hỗ
trợ nông dân với các biện pháp canh tác vừa đảm bảo sức khỏe, nâng cao
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 5

chất lượng nông sản, vừa bảo vệ môi trường. Tiêu chuẩn bảo vệ môi trường
cũng đã trở thành tiêu chuẩn chung trong các chính sách của EU về những
vấn đề khác. Tiến tới sử dụng đồng tiền chung …
- Sau một thời gian trưng cầu dân ý , ngày 1-1-1993, Hiệp ước Maastricht-
Hiệp ước Liên minh châu Âu đã có hiệu lực sau khi được tất cả 12 nước

thành viên EC phê chuẩn. Kể từ đây EU (European Union)- Liên minh
châu Âu chính thức ra đời. Trụ sở đặt tại Brussells (Thủ đô Vương quốc
Bỉ), chọn cờ của EC làm quốc kỳ, và bài “Ode to joy” từ bản giao hưởng số
9 của Beethoven trở thành bài quốc ca của EU.
- Lần mở rộng thứ tư: ngày 1-1-1995 EU đã chính thức kết nạp thêm ba
thành viên mới: Áo, Phần Lan và Thụy Điển.
- Lần mở rộng thứ năm: lần mở rộng lớn nhất trong lịch sử EU. Tại Hội nghị
Thượng đỉnh Amsterdam năm 1997, các nước thành viên EU đã tập trung
thảo luận và thông qua sửa đổi quan trọng trong Hiệp ước Maastricht về
thành lập Liên minh Châu Âu cùng những cải tổ sâu sắc hệ thống thể chế
của EU. Trong đó điểm quan trọng là việc quy định mở rộng số thành viên
của EU, Ủy ban châu Âu đã chọn 6 nước gồm: Hungary, Ba Lan, Cộng hòa
Séc, Estonia, Slovenia và Síp để đàm phán và kết nạp đợt đầu vào năm
2002-2003.
Hội nghị cấp cao EU tại Helsinki năm 1999-2000 đã kết thúc với một tuyên
bố chung: “Tuyên bố thiên niên kỷ”- xác định lộ trình kết nạp thêm 13 thành
viên mới gồm: Hungary, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Estonia, Slovenia, Síp,
Bungary, Latvia, Litva, Malta, Rumani, Slovakia và Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngày 16-4-2002, tại Athens (Hy lạp), các nguyên thủ quốc gia và những
người đứng đầu của 15 nước trong EU và 10 nước ứng cử viên ở Trung và
Đông Âu (là Ba Lan, Hungary, Slovakia, Slovenia, Szech, Estonia, Latvia,
Litva, Malta và Síp) đã ký vào Hiệp ước mở rộng EU lớn nhất từ trước đến
nay.
Ngày 1-5-2004, quốc kỳ của 10 nước Ba Lan, Hungary, Slovakia,
Slovenia, Szech, Estonia, Latvia, Litva, Malta và Síp đã được kéo lên tại
trụ sở của Ủy ban châu Âu, đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại, kể từ nay
EU đã có 25 thành viên.
Ngày 1-1-2007 hai nước Rumani và Bungary đã trở thành thành viên chính
thức của EU.
Hiện nay, EU với 27 thành viên, có diện tích là 4.422.773 km

2
, dân số là
492,9 triệu người (2006); với tổng GDP là 11,6 nghìn tỉ euro ( ~ 15,7 nghìn
tỉ USD) trong năm 2007. Hầu hết các quốc gia châu Âu đều đang là thành
viên Liên minh châu Âu.

BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 6

Phần II: Ưu đãi thuế quan GSP và chính sách GSP
của EU dành cho các nước đang phát triển.

I/ Tổng quan về GSP và các đặc điểm chung của GSP :

Hệ thống ưu đãi phổ cập là kết quả của các cuộc đàm phán liên chính phủ
được tổ chức dưới sự bảo trợ của Hội nghị Thương mại và Phát triển của
Liên hợp quốc (UNCTAD). Theo Hệ thống ưu đãi phổ cập, các ưu đãi về
thuế quan được áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu từ các nước đang phát triển,
trên cơ sở không cần có đi có lại và không phân biệt đối xử.
Hệ thống ưu đãi phổ cập, tên tiếng Anh là Generalized System of
Preferences (viết tắt GSP), là một hệ thống mà theo đó các nước phát triển,
được gọi là các nước cho hưởng, cho các nước đang phát triển, được gọi là
các nước được hưởng, hưởng chế độ ưu đãi bằng cách giảm hoặc miễn thuế.
Chế độ ưu đãi được xây dựng trên cơ sở không có sự phân biệt và không đòi
hỏi bất kỳ nghĩa vụ nào từ phía các nước đang phát triển.
Trên cơ sở của Hệ thống GSP, mỗi quốc gia xây dựng một chế độ GSP cho
riêng mình với những nội dung, quy định, mức ưu đãi khác nhau tuy nhiên
mục tiêu của hệ thống GSP vẫn được đảm bảo.
1. Các mục tiêu chính của GSP :


- Tạo điều kiện để các nước đang phát triển thấy được khả năng tiềm tàng về
mở rộng buôn bán phát sinh từ chế độ GSP và tăng cường khả năng sử dụng
chế độ này.
- Tăng kim ngạch xuất khẩu của các nước được hưởng.
- Thúc đẩy công nghiệp hoá của các nước này.
- Đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế của những nước này.
- Phổ biến thông tin về các quy định và thủ tục điều chỉnh buôn bán theo chế
độ này.
- Giúp đỡ các nước được hưởng thiết lập những điểm trọng tâm trong nước
để tăng cường sử dụng GSP.
- Cung cấp thông tin về các quy định liên quan đến thương mại như thuế
chống phá giá và chống bù giá, các quy định hải quan, thủ tục giấy phép
nhập khẩu, và pháp luật thương mại khác quy định các điều kiện thâm nhập
thị trường các nước cho hưởng.
Chế độ ưu đãi phổ cập mới không có giới hạn ưu đãi. Các hạn ngạch trước
kia, khối lượng xác định được miễn thuế hoặc các mức trần hạn chế khối
lượng hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi đã được loại bỏ. Miễn giảm thuế
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 7

được điều chỉnh theo mức độ nhạy cảm của sản phẩm mà đã được chia làm
bốn loại sau:
- Các sản phẩm rất nhạy cảm: ví dụ như dệt may, quần áo
- Các sản phẩm nhạy cảm: ví dụ như sản phẩm da, giày dép
- Các sản phẩm bán nhạy cảm: đồ trang sức, hàng điện tử và một số hàng da
- Các sản phẩm không nhạy cảm: nội thất bằng gỗ, đồ chơi, trò chơi, hàng
thể thao.
2. Nội dung chính của GSP:


2.1 Nước cho hưởng ưu đãi GSP:
Những nước đang có chế độ ưu đãi phổ cập:
Hiện nay, có nhiều chế độ ưu đãi khác nhau đang hoạt động tại các nước
phát triển, bao gồm các nước thành viên của EU như EU, Nhật, Niu - Di -
Lân, Thuỵ Sĩ, Bun - Ga - Ry, Hung - Ga - Ry, Séc, Ba Lan, Nga, các quốc
gia trung lập (CIS), Ca - Na - Đa, Na - Uy, Ôx-Trây-Lia, Ru-Ma-Ni.
2.2 Nước được hưởng GSP:
Bao gồm những nước đang phát triển và những nước kém phát triển. Các
nước kém phát triển thường được hưởng một chế độ đặc biệt riêng, có nhiều
ưu đãi hơn các nước đang phát triển. Đối với mỗi quốc gia dành ưu đãi, các
nước được hưởng được liệt kê trong danh sách ban hành kèm theo chế độ
GSP. Danh sách này có thể được sửa đổi bổ sung.
2.3 Hàng hoá được hưởng ưu đãi:
Hàng hoá được hưởng ưu đãi được phân loại thành hai nhóm: các sản phẩm
công nghiệp và các sản phẩm nông nghiệp.
Danh mục hàng hoá được hưởng được các nước cho hưởng ưu đãi ban hành
có sửa đổi định kỳ và được xây dựng trên có sở biểu thuế xuất nhập khẩu
của nước đó.
Việc bổ sung hay loại bỏ một mặt hàng nào đó trong Danh mục được các
nước cho hưởng ưu đãi thực hiện dựa trên tình hình sản xuất trong nước mặt
hàng đó.
2.4 Mức độ ưu đãi:
Các nước cho hưởng ưu đãi quy định thuế suất ưu đãi cho chế độ GSP dựa
trên mức thuế suất của chế độ đối xử tối huệ quốc (MFN).
Nhìn chung, thuế suất ưu đãi theo chế độ GSP ở mức thấp khoảng vài phần
trăm hoặc được miễn hoàn toàn.
2.5 Cơ chế bảo vệ:
Với ưu đãi thuế quan GSP được hưởng, hàng hoá của các nước được hưởng
sẽ có thêm ưu thế trong thị trường nứơc nhập khẩu. Tuy nhiên, hàng hoá này

sẽ tạm thời không được hưởng ưu đãi thuế quan GSP nữa trong một số
trường hợp nhất định. Khi một hàng hoá nhập khẩu theo GSP ảnh hưởng đến
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 8

công nghiệp sản xuất mặt hàng đó trong nước, nước cho hưởng ưu đãi sẽ
thực hiện những biện pháp cần thiết theo cơ chế bảo vệ của hệ thống GSP.
Có nhiều cơ sở để xác định hàng hoá nhập khẩu theo GSP có ảnh hưởng tới
nền công nghiệp nội địa không, thường là một mức trần về khối lượng nhập
khẩu, về khối lượng trị giá thực hiện
2.6 Hàng thủ công:
Có nhiều nước cho hưởng ưu đãi cho phép các hàng thủ công và/hoặc sản
phẩm làm bằng tay được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt. Chế độ này được ban
hành như một bộ phận của quy chế GSP hoặc cũng có thể vượt ra ngoài
phạm vi đó theo các thoả thuận riêng. Thông thường chế độ ưu đãi đối với
các hàng này là miễn thuế. Tuy nhiên các quy tắc của các nước cho hưởng
ưu đãi rất khác nhau ở việc xác định thế nào là hàng thủ công, mức độ ưu
đãi, quản lý hạn ngạch, các loại chứng từ phải xác nhận, các yêu cầu về pháp
lý phải tuân thủ v.v
2.7 Quy tắc xuất xứ:
Quy tắc xuất xứ là yếu tố chính của tất cả các chế độ GSP và việc hiểu rõ và
áp dụng chính xác quy tắc này mang tính tối quan trọng trong việc thực hiện
chế độ GSP.
Mục đích chính của Quy tắc xuất xứ là đảm bảo là những lợi ích của chế độ
ưu đãi thuế quan theo Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) chỉ được dành cho
những sản phẩm mà thực sự có được do thu hoạch, sản xuất, gia công hoặc
chế biến ở những nước xuất khẩu được hưởng.
Một mục đích nữa là những sản phẩm xuất xứ ở một nước thứ ba, ví dụ là
một nước không được hưởng, chỉ quá cảnh qua, hoặc đã chỉ trải qua một giai

đoạn chế biến không đáng kể hoặc không ảnh hưởng tới thành phần, bản
chất của sản phẩm tại một nước được hưởng ưu đãi, sẽ không được hưởng
ưu đãi từ chế độ thuế quan GSP.
Tuy nhiên, vai trò của quy tắc xuất xứ trong thương mại quốc tế không giới
hạn trong các ưu đãi thuế quan. Trên thực tế, khái niệm xuất xứ hàng hoá là
một công cụ chủ yếu của mọi chính sách thương mại, từ việc đàm phán khu
vực mậu dịch tự do hoặc hình thành một khối kinh tế khu vực đến việc áp
dụng thuế chống phá giá hoặc cấp giấy phép nhập khẩu.
Các yếu tố chính của quy tắc xuất xứ
- Tiêu chuẩn xuất xứ
- Điều kiện về vận chuyển
- Chứng từ xác nhận hai điều trên.
Ngoài ra, còn có các quy định bổ sung khác phải tuân thủ.
Sản phẩm xuất khẩu từ một nước được hưởng có thể được chia làm hai
nhóm sau:
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 9

(a) Những sản phẩm được sinh trưởng hoàn toàn, được lấy từ đất hoặc được
thu hoạch trong nước xuất khẩu, hoặc được sản xuất chỉ từ những sản phẩm
này. Những sản phẩm như vậy, được gọi là sản phẩm "xuất xứ toàn bộ", có
xuất xứ GSP bởi vì hoàn toàn không sử dụng các bộ phận hay nguyên phụ
liệu nhập khẩu, hoặc không rõ xuất xứ.
(b) Những sản phẩm được làm từ nguyên liệu, bộ phận hoặc phụ tùng nhập
khẩu, có nghĩa là những sản phẩm được sản xuất toàn bộ hoặc một phần từ
nguyên liệu, bộ phận hoặc phụ tùng nhập khẩu vào nước hưởng ưu đãi hoặc
từ những nguyên liệu nguyên liệu không rõ xuất xứ. Những sản phẩm này,
được gọi là "những sản phẩm có thành phần nhập khẩu", có xuất xứ tại nước
được hưởng chỉ khi chúng đã được "gia công hoặc chế biến đầy đủ" tại nước

xuất khẩu được hưởng.
Theo cách phân chia cơ bản nói trên, mỗi chế độ GSP sẽ quy định những
quy định hoặc định nghĩa cụ thể về "gia công chế biến đầy đủ" phải được
đáp ứng nếu sản phẩm được hưởng chế độ thuế quan GSP. Quy định về "gia
công chế biến đầy đủ" đã được thống nhất và hài hoà hoá giữa sáu (6) nước
cho hưởng ưu đãi Đông Ân, bao gồm: Bun-Ga-Ry, Cộng hoà Séc, Hung-Ga-
Ry, Ba Lan, Liên Bang Nga và Slô-va-ki-a.
a.1. Sản phẩm có xuất xứ toàn bộ:
Tiêu chuẩn xuất xứ toàn bộ được giải thích một cách tuyệt đối. Một thành
phần nhỏ nhất của nguyên liệu, bộ phận hoặc phụ tùng nhập khẩu, hoặc xuất
xứ của chúng không xác định được, sẽ làm cho sản phẩm hoàn thành liên
quan mất tính chất "xuất xứ toàn bộ".
Ví dụ: tượng gỗ làm từ gỗ "xuất xứ toàn bộ" tại một nước hưởng ưu đãi,
nhưng được đánh bóng bằng sáp nhập khẩu, không có "xuất xứ toàn bộ" bởi
vì đã sử dụng sáp nhập khẩu.
Tất cả các nước cho hưởng đều chấp nhận những loại hàng hoá sau đây là có
"xuất xứ toàn bộ" ở một nước được hưởng:
a. Khoáng sản lấy từ lòng đất hoặc từ đáy biển; hoặc, đối với Bungary, Cộng
hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slovakia, khoáng sản khai thác
trong lãnh thổ hoặc từ thềm lục địa nước được hưởng.
b. Rau quả thu hoạch ở nước được hưởng;
c. Động vật sống sinh trưởng ở nước được hưởng;
d. Những sản phẩm có được do săn bắn hoặc đánh bắt ở nước được hưởng.
f. Những sản phẩm từ đánh bắt xa bờ hoặc những sản phẩm khác lấy từ biển
cả bởi tàu thuyền của nước được hưởng; và đối với Bungary, Cộng hoà Séc,
Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slovakia, bởi tàu thuyền do nước được
hưởng thuê;
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 10


g. Những sản phẩm được làm trên tàu chế biến - chỉ từ những sản phẩm nói
tại mục (f) nói trên; và đối với Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan,
Liên bang Nga và Slovakia, bởi tàu thuyền do nước được hưởng thuê;
h. Những sản phẩm đã qua sử dụng thu thập tại nước được hưởng chỉ dùng
cho tái chế nguyên liệu thô;
i. Phế liệu và phế thải từ hoạt động sản xuất diễn ra tại nước được; và
k. Những sản phẩm có tại nước được hưởng chỉ từ những sản phẩm nói tại
mục (a) đến mục (i) nói trên.
Úc nói chung chấp nhận những sản phẩm trong danh sách trên là những sản
phẩm có xuất xứ toàn bộ, mặc dù những sản phẩm này không được quy định
trong pháp luật của Úc.
Mỹ, trong khi không có một danh sách những sản phẩm "xuất xứ toàn bộ"
trong pháp luật nước mình, công nhận những sản phẩm nói trên là những ví
dụ về việc đáp ứng tiêu chuẩn phần trăm của Mỹ.
a.2 Sản phẩm có thành phần nhập khẩu:
Những sản phẩm được coi là xuất xứ tại nước được được hưởng, ngoài sản
phẩm có "xuất xứ toàn bộ", còn bao gồm những sản phẩm được chế biến tại
một nước được hưởng một cách toàn bộ hoặc một phần từ những nguyên
liệu, bộ phận hoặc thành phần nhập khẩu, kể cả những nguyên liệu không
xác định được xuất xứ hoặc không được xuất xứ. Những sản phẩm này được
coi là có xuất xứ tại nước được hưởng nếu những nguyên liệu, bộ phận,
thành phần đó đã được chế biến hoặc gia công đầy đủ tại nước đó. Về
nguyên tắc chung, hoạt động chế biến hoặc gia công được coi là đầy đủ nếu
chúng thay đổi thực chất tính chất hoặc đặc tính riêng của nguyên liệu đã sử
dụng. Khái niệm chung này sẽ được mỗi bước cho hưởng xác định cụ thể.
Khái niệm "gia công hoặc chế biến đầy đủ" được định nghĩa theo nhiều
cách. Tuy nhiên, có hai tiêu chí chính dùng để xác định, mỗi tiêu chí này
được một số nước sử dụng. Đó là "tiêu chuẩn gia công" và "tiêu chuẩn tỷ lệ
phần trăm".

a.2.1 Tiêu chuẩn gia công
Tiêu chuẩn này được áp dụng bởi Cộng đồng Châu Âu, Nhật, Na uy và Thuỵ
Sĩ.
Theo nguyên tắc chung của tiêu chuẩn này, nguyên liệu, bộ phận hay thành
phần nhập khẩu được coi là đã gia công chế biến đầy đủ khi thành phẩm
được xếp vào hạng mục HS
(1)
(Hệ thống hài hoà) 4 số khác với hạng mục
của tất cả các nguyên liệu, bộ phận hay thành phần nhập đã sử dụng (thường
được gọi là quy tắc "thay đổi hạng mục thuế quan" - CTH rule). Tuy nhiên,
có rất nhiều sản phẩm việc thay đổi hạng mục thuế quan thường không đảm
bảo đã gia công hoặc chế biến đầy đủ (hoặc, nói cách khác, trong khi việc
gia công hoặc chế biến đầy đủ có thể được tiến hành, trong một số trường
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 11

hợp, chúng không liên quan đến việc thay đổi hạng mục thuế quan). Do vậy,
các nước cho hưởng đã đưa ra một danh mục các hoạt động gia công hoặc
chế biến phải thực hiện đối với nguyên liệu không có xuất xứ để sản phẩm
cuối cùng được coi là có xuất xứ. Danh mục này chỉ bao gồm những sản
phẩm mà đối với mỗi sản phẩm một số điều kiện nhất định phải được đáp
ứng thay cho yêu cầu về thay đổi hạng mục thuế quan.
a.2.2 Tiêu chuẩn tỷ lệ phần trăm
Tiêu chuẩn này được sử dụng ở các nước Úc, Canada, Niu-Di-Lân, Mỹ,
Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slôvakia. Giữa
các nước Bungary, Cộng Hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và
Slôvakia, tiêu chuẩn này đã được thống nhất, hài hoà hoá hoàn toàn.
Các nước Canada, Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang
Nga quy định một tỷ lệ phần trăm tối đa cho trị giá nguyên liệu, bộ phận và

thành phần nhập khẩu hoặc không rõ xuất xứ được sử dụng. Các nước Úc,
Niu-Di-Lân và Mỹ quy định một tỷ lệ phần trăm tối thiểu cho trị giá nguyên
liệu nội địa và chi phí sản xuất khi sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
a.3 Sản phẩm là bộ, nhóm hoặc lắp ráp.
Đối với những sản phẩm là bộ, nhóm hay lắp ráp từ những bộ phận , đồ phụ
trợ, phụ tùng và dụng cụ kèm theo một thiết bị, máy hoặc xe, các nước như
Nhật, Na-Uy và Thuỵ Sĩ có những quy định riêng cho từng đơn vị sản phẩm.
b. Điều kiện về vận chuyển.
Quy định bắt buộc sản phẩm có xuất xứ phải được vận chuyển thẳng từ nước
được hưởng đến nước cho hưởng là một vấn đề quan trọng phổ biến của tất
cả các quy tắc xuất xứ GSP trừ của Úc. Mục đích của quy định này là cho
phép cơ quan hải quan nước cho hưởng nhập khẩu bảo đảm rằng sản phẩm
nhập khẩu chính là những sản phẩm từ nước được hưởng, có nghĩa là chúng
không bị tác động, thay thế, gia công chế biến thêm hoặc được đưa vào buôn
bán tại bất kỳ nước thứ ba trung gian nào. Mỗi nước quy định điều kiện về
vận tải khác nhau. Dưới đây là quy định của một số nước.
Ca-na-đa, Cộng đồng Châu Âu, Nhật, Niu-di-lân, Na Uy và Thuỵ Sĩ đều quy
định:
(a) Sản phẩm phải được vận chuyển thẳng mà không đi qua lãnh thổ của một
nước khác;
(b) Sản phẩm vận chuyển đị qua lãnh thổ của một nước khác, có hoặc không
có chuyển tải hoặc lưu kho ở nước đó, với điều kiện sản phẩm đó vận nằm
trong sự kiểm soát của hải quan của nước quá cảnh hoặc lưu kho và không
được mua bán hoặc được sử dụng tại đó, và không trải qua các hoạt động
nào khác ngoài hoạt động dỡ hàng, xếp hàng và các hoạt động bắt buộc để
bảo quản sản phẩm trong trạng thái tốt.
Ngoài hai nội dung trên, mỗi bước trên lại có thêm quy định riêng khác như:
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 12


Na-Uy và Thuỵ Sĩ quy định lô hàng có thể được chia nhỏ và đóng gói lại,
nhưng không được đóng gói để phục vụ bán lẻ.
EU quy định vận chuyển qua nước thứ ba phải được chứng minh là do điều
kiện địa lý hoặc vì lý do yêu cầu vận tải. Những sản phẩm được vận chuyển
bằng đường ống liên tục qua lãnh thổ không phải là lãnh thổ của nước được
hưởng xuất khẩu hoặc lãnh thổ của EU, được coi là được vận chuyển thẳng
từ nước được hưởng đến EU, và ngược lại.
Nhật quy định vận chuyển qua nước thứ ba phải vì lý do địa lý hoặc vì yêu
cầu của vận tải. Nhật chấp nhận, trên nguyên tắc, việc chuyển tàu hoặc lưu
kho tạm thời dưới sự giám sát của cơ quan hải quan nước quá cảnh. Việc
chuyển tàu hoặc lưu kho tạm thời phải được thực hiện tại khu vực ngoại
quan hoặc những nơi tương tự
b.1 Chứng từ về xuất xứ
Tất cả các nước cho hưởng đều quy định:
Sản phẩm có xuất xứ khi nhập khẩu phải có Tờ Khai Tổng Hợp và Giấy
chứng nhận Xuất Xứ Mẫu A, đã được điền đầy đủ và ký bơi người xuất khẩu
và được chứng nhận bởi một cơ quan có thẩm quyền tại nước xuất khẩu
được hưởng.
Các nước cho hưởng còn có các quy định thêm khác:
Úc, yêu cầu chính là lời khai của người xuất khẩu trên hoá đơn thương mại.
Mẫu A có thể được dùng để thay thế, nhưng không yêu cầu phải có chứng
nhận.
Canada, yêu cầu chính là lời trình bày của người xuất khẩu trên hoá đơn
hoặc làm thành bản riêng.
Niu-Di-Lân không đòi hỏi người xuất khẩu xuất trình giấy chứng nhận xuất
xứ hay tờ khai quy định chính thức, dù người xuất khẩu có thể bị yêu cầu
thẩm tra.
Nhật
Nhật chấp nhận giấy chứng nhận xuất xứ được cấp bới cơ quan chính phủ

(ví dụ phòng thương mại)
b.2 Chứng từ về vận chuyển thẳng
Đối với trường hợp xuất khẩu đến EU, Nhật, Na-Uy và Thuỵ Sĩ, hàng hoá
xuất khẩu đi qua lãnh thổ một nước thứ ba, chứng từ chứng minh điều kiện
vận chuyển thẳng đã được đáp ứng phải được trình cho cơ quan hải quan
nước nhập khẩu bao gồm:
(a) Vận đơn suốt cấp tại nước xuất khẩu được hưởng, thể hiện việc đi quan
một hay nhiều nước quá cảnh; hoặc
(b) Giấy chứng nhận của cơ quan hải quan của một hay nhiều nước quá
cảnh:
- Thể hiện mô tả chính xác hàng hoá;
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 13

- Ghi ngày dỡ hàng và xếp hàng hoặc ngày lên tàu hoặc xuống tàu, ghi rõ tàu
sử dụng;
- Xác nhận những tình trạng của sản phẩm trong khi đi qua các nước quá
cảnh.
(c) Không có các giấy tờ trên, bất kỳ giấy tờ thay thế nào được cho là cần
thiết (ví dụ, bản sao lệnh mua hàng, hóa đơn của người cung cấp hàng, vận
đơn thể hiện tuyến đường hàng đi)
Đối với hàng xuất sang Mỹ, người nhập khẩu có thể phải xuất trình các giấy
tờ hàng hải, hoá đơn hoặc các giấy tờ khác làm bằng chứng chứng minh
hàng hoá được nhập khẩu thẳng. Cơ quan hải quan Mỹ có thể không đòi hỏi
xuất trình chứng từ về vận chuyển thẳng khi cơ quan này biết rõ rằng hàng
hoá đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ GSP. Trong trường hợp vận chuyển quá
cảnh, hoá đơn, vận đơn và giấy tờ khác liên quan đến vận tải phải được trình
cho hải quan Mỹ nơi đến cuối cùng.
c. Quy tắc thành phần nước bảo trợ (Quy tắc thành phần nước cho

hưởng):
Một số nước cho hưởng ưu đãi áp dụng quy tắc này. Quy tắc cho phép sản
phẩm (nguyên liệu, bộ phận và phụ tùng) sản xuất tại nước cho hưởng, nếu
được cung cấp cho một nước hưởng ưu đãi và được sử dụng ở đó để gia
công chế biến, thì sẽ được coi là sản phẩm có xuất xứ tại nước hưởng ưu đãi
nhằm xác định xuất xứ của thành phẩm.
Ví dụ: Colombia xuất khẩu dây cách điện sang Canada. Nguyên liệu sử dụng
bao gồm thép từ Mỹ (chiếm 20% giá xuất xưởng) và cao su từ Malaysia
(chiếm 30%), và 50% là nguyên liệu của Colombia và chi phí nhân công.
Dây điện này không được hưởng chế độ GSP bởi vì thành phần nhập khẩu
vượt quá 40%. Tuy nhiên, nếu sử dụng thép của Canada, dây diện đó sẽ đáp
ứng tiêu chuẩn xuất xứ GSP theo quy tắc thành phần nước bảo trợ bởi vì
thành phần nhập khẩu chỉ là 30% giá xuất xưởng.
d. Xuất xứ cộng gộp:
Về cơ bản, quy tắc GSP được dựa trên khái niệm xuất xứ một nước đơn
nhất, có nghĩa là các tiêu chuẩn xuất xứ phải được tuân thủ đầy đủ tại một
nước được hưởng mà đồng thời là nước sản xuất sản phẩm hoàn thiện cuối
cùng. Theo các chế độ của một số nước cho hưởng, quy tắc này đã được mở
rộng để một số sản phẩm có thể được sản xuất và hoàn thiện tại một nước
được hưởng từ các nguyên liệu, bộ phận hoặc thành phần nhập khẩu từ
những nước được hưởng nói trên. Do đó, xuất xứ cộng gộp được đưa ra với
phạm vi rộng và theo nhiều điều kiện khác nhau. Theo hệ thống cộng gộp,
các quá trình gia công và trị giá gia tăng tại nhiều nước được hưởng có thể
được cộng vào cùng nhau (hoặc "được cộng gộp") để xác định sản phẩm
hoàn thiện xuất khẩu có đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ GSP không.
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 14

II/ Chính sách GSP mà EU dành cho các nước đang phát triển :


Chế độ GSP của EU, kể từ khi ban hành lần đầu tiên, đã được ban hành mới,
với quan điểm toàn diện diễn ra 10 năm một lần. Lần sửa đổi đầu tiên là vào
1/1/1981 và được áp dụng đến 1/1/1986. Việc sửa đổi định kỳ 10 năm một
lần vào ngày 1/1/1991 được hoãn cho đến 1/1/1995, lúc này là lúc một chế
độ mới có hiệu lực dựa trên sự chỉ đạo của Uỷ ban vào tháng 6 năm 1994 và
được Hội đồng nhất trí thông qua vào 19/121994.
Nội dung chính chế độ GSP của EU
Chế độ GSP là một công cụ chính sách thương mại độc lập nhằm mục tiêu
khuyến khích phát triển, không sử dụng một trong những công cụ chính sách
thương mại truyền thống, là thuế quan. Chế độ nhằm cho những nước đang
phát triển hưởng mức thuế quan thấp hơn mức thuế quan áp dụng cho các
nước phát triển, cho hàng hoá xuất khẩu của những nước được hưởng đó khi
thâm nhập thị trường EU.
Ngày nay, quan điểm được chấp nhận trên vẫn là một trong những cách tốt
nhất để khuyến khích phát triển chung của nền kinh tế. Vai trò của GSP là
trợ giúp các nước đang phát triển công nghiệp hoá, đa dạng hoá hàng xuất
khẩu và do đó tăng kim ngạch xuất khẩu. (Ngoài ra, GSP, với vai trò hiện
nay của mình, đưa ra những động lực tích cực cho những nước được hưởng
mà đang tuân thủ các hiệp định quốc tế và bảo vệ môi trường và bảo vệ trẻ
em và cấm lao động cưỡng bức).
Trong những năm đầu tồn tại, chế độ GSP là công cụ duy nhất cho phép các
nước liên quan khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu. Nếu không được phát
triển, những nước này không có vị trí tham gia vào cơ chế tự do hoá thương
mại (GATT), và do đó không thể hưởng ưu đãi đầy đủ từ cơ chế này, cơ chế
được dựa trên cơ sở có đi có lại.
Do đó GSP được cho là một sự lựa chọn đối với cơ chế GATT đối với các
nước liên quan; vì vậy nó rất quan trọng.
Tình hình ngày nay đã có một số thay đổi. Các nước phát triển đã tự nhận ra
rằng quyền lợi của họ là tham gia vào hệ thống thương mại đa phương và họ

có khả năng tham gia vào hệ thống này. Gia nhập GATT, và ngày nay là
WTO đã trở thành mục tiêu chính của họ, và công cụ lựa chọn, GSP, đã
được coi chỉ là cơ chế đa phương bổ sung. Xu hướng này đã được xác nhận
bởi việc xoá dần các giới hạn ưu đãi dành cho các nước đang phát triển như
hàng rào thuế quan đã được giảm dần sau mỗi một cuộc họp mới của tự do
hoá GATT. Hiệp ước Maastricht tạo ra sức đẩy mới cho chính sách đối
ngoại của EU nói chung và chính sách phát triển của Eu nói riêng bằng cách
xác định sự phát triển xã hội và kinh tế của các nước liên quan và sự hoà
nhập dần dần vào kinh tế thế giới của họ như là mục tiêu chủ yếu.
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 15

Chế độ GSP hoạt động như thế nào?
Trước đây, các quy định được Hội đồng phê chuẩn mỗi năm về ưu đãi thuế
quan áp dụng từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 năm đó cho những sản
phẩm thuộc chế độ và xuất xứ từ nước được hưởng. Tuy nhiên ngày nay với
quan điểm tạo ra một môi trường thương mại công bằng hơn, chế độ GSP là
chế độ nhiều năm.
Chế độ GSP đầu tiên của EU tồn tại trong khoảng thời gian 10 năm (1971 -
1981) và được sửa đổi cho thập niên thứ hai (1981 - 1991). Trong khoảng
thời gian này, GSP của EU đã được xem xét lại hàng năm, các quy định của
EU được ban hành hàng năm, thường trong tháng 12, và được áp dụng cho
năm dương lịch tiếp theo. Thay đổi hàng năm là về phạm vi sản phẩm, hạn
ngạch, giới hạn cao nhất và hoạt động hành chính, các nước được hưởng và
ưu đãi về thuế đối với nông sản. Trong năm 1991, lúc kết thúc thập niên thứ
hai, chế độ này đã đến hạn phải sửa đổi. Tuy nhiên, trong khi chờ kết quả
của vòng đàm phán Urugoay, chế độ năm 1991 được mở rộng với nhiều sửa
đổi cho đến năm 1994, khi Cộng đồng đưa ra một chế độ 10 năm khác. Vào
1/1/1995, EU chấp thuận chế độ GSP đầu tiên cho giai đoạn 1995 - 2004.

EU đã ban hành những quy định cho giai đoạn 5 năm đầu 1995 - 30/6/1999.
Đối với giai đoạn 1/7/1999 đến 31/12/2001, EU đã sửa đổi chế độ GSP của
mình. Tuy nhiên cấu trúc căn bản của chế độ 1995-2004 không thay đổi.
Trên thực tế, sửa đổi năm 1995 thay đổi cấu trúc tổng thể của chế độ, chế độ
này kể từ đó luôn xoay quanh ba vấn đề chủ yếu, đó là cắt giảm thuế suất, cơ
chế trưởng thành ngành quốc gia, và các quy định khuyến khích đặc biệt.
Sửa đổi xoá bỏ giới hạn về số lượng hàng nhập khẩu hưởng GSP. Nó được
thay thế bởi "cắt giảm thuế suất", theo cách này "khối lượng miến thuế cố
định" và giới hạn tối đa (liên quan đến sản phẩm công nghiệp nhạy cảm) và
"khối lượng giảm thuế cố định" (liên quan đến hàng nông sản) đã được thay
thế bằng thuế suất giảm theo hai loại nhạy cảm của sản phẩm.
Thay đổi chính thứ hai là đưa ra chính sách mở trưởng thành, bao gồm tiêu
chuẩn đối với sự trưởng thành của ngành - quốc gia.
Thay đổi chủ yếu thứ ba quy định về khuyến khích đặc biệt để có hiệu lực từ
1/1/1998. Những khuyến khích đặc biệt này được áp dụng trên cơ sở giới
hạn ưu đãi bổ sung dành cho những nước được hưởng tuân thủ một số điều
kiện về tiêu chuẩn lao động và tiêu chuẩn môi trường.
1. Những quy định chung
Những quy định chung được dựa trên hai cơ chế bổ sung, đó là thay đổi thuế
suất và cơ chế trưởng thành.
1.1. Cơ chế thay đổi thuế suất
Không giống như trước kia, chế độ hiện hành của EU không áp đặt giới hạn
ưu đãi (hạn ngạch, khối lượng hàng được hưởng thuế suất 0, các hạn mức tối
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 16

đa). Nói cách khác thuế ưu đãi được áp dụng cho đến khi nào chế độ hết
hiệu lực, mà không có giới hạn về số lượng. Tuy nhiên, đối với những sản
phẩm nhạy cảm (trước đây bị áp dụng hạn ngạch và hạn mức tối đa), thuế ưu

đãi không còn được giảm xuống bằng 0 một cách tự động nữa, nhưng sẽ
được thay đổi tuỳ theo tính nhạy cảm đối với mỗi sản phẩm.
Tiêu chuẩn và mục tiêu của cơ chế thay đổi thuế suất
Có bốn loại sản phẩm:
- Sản phẩm rất nhạy cảm: về cơ bản là hàng dệt, một số sản phẩm nông
nghiệp và hợp kim sắt, đối với những sản phẩm này thuế ưu đãi sẽ bằng 85%
thuế tối huệ quốc (MNF) (giới hạn ưu đãi là 15%).
- Sản phẩm nhạy cảm: bao gồm rất nhiều sản phẩm từ hoá chất đến giày dép,
điện tử, đến một số sản phẩm nông nghiệp, ô tô và bàn chải, đối với những
sản phẩm này thuế ưu đãi sẽ bằng 70% thuế tối huệ quốc (MNF) (giới hạn
ưu đãi là 30%);
- Sản phẩm bán nhạy cảm: cũng rất đa dạng, đối với chúng thuế ưu đãi sẽ
bằng 35% thuế tối huệ quốc (MNF)(giới hạn ưu đãi là 65%);
- Sản phẩm không nhạy cảm, những sản phẩm này sẽ được miễn thuế hoàn
toàn (giới hạn ưu đãi là 100%).
Bởi vì cơ chế thay đổi thuế suất được dựa trên tính nhạy cảm của sản phẩm
mà không dựa trên tính cạnh tranh của quốc gia liên quan, thuế suất ưu đãi
sẽ được áp dụng cho mọi nước được hưởng mà không có sự phân biệt, trừ
những nước kém phát triển và những nước được hưởng theo quy định đặc
biệt về "ma tuý".
Thuế ưu đãi và danh sách sản phẩm nhạy cảm sẽ có giá trị theo thời hiệu của
chế độ. Theo quy định mới nhất của EU áp dụng chế độ GSP cho giai đoạn
2002 đến 2004, sản phẩm sẽ chỉ còn được chia làm hai loại: sản phẩm không
nhạy cảm và sản phẩm nhạy cảm. Theo đó, sản phẩm không nhạy cảm sẽ
được miễn thuế hoàn toàn, sản phẩm nhạy cảm sẽ được giảm xuống 3,5%
nếu thuế đối với sản phẩm cụ thể đó là thuế tính theo trị giá hàng; được giảm
xuống 30% nếu thuế cho sản phẩm cụ thể đó là thuế đặc biệt.
Yếu tố duy nhất mà làm thay đổi tình trạng của sản phẩm trong thời gian có
hiệu lực của chế độ là việc áp dụng cơ chế bảo vệ, cơ chế này có thể được áp
dụng trong những trường hợp ngoại lệ, những trường hợp mà nhà sản xuất

EU thấy trước hoặc bị ảnh hưởng bởi những khó khăn nghiêm trọng. Cơ chế
này gần giống với cơ chế bảo vệ của GATT, việc áp dụng cơ chế này sẽ tuân
theo một thủ tục là sự tổng hợp của sự cần thiết điều tra chiều sâu (bởi Uỷ
ban Điều hành mới) và sự phản ứng mau lẹ.
1.2. Cơ chế trưởng thành
Theo chế độ trước, mức độ cạnh tranh khác nhau của các nước được hưởng
có thể được cho phép đối với một số sản phẩm bằng cách áp dụng hạn ngạch
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 17

riêng lẻ hoặc thậm chí loại trừ một số nước (sự phân biệt). Cơ chế trưởng
thành là một cách tiếp cận hoàn toàn khác. Để xác định đúng hơn tính cạnh
tranh của một nước đối với một số sản phẩm nhất định, chế độ hiện hành sẽ
đánh giá khả năng công nghiệp mà mỗi nước đạt được trong mỗi ngành sản
xuất chính để xác định, trong khi xem xét mức độ phát triển, nước nào vẫn
cần được hưởng GSP để duy trì mức xuất khẩu đầy đủ. Khi một nước đã
phát triển tới một mức độ mà GSP không còn cần thiết để duy trì mức xuất
khẩu này, những ưu đãi GSP sẽ được rút dần dần trong những ngành liên
quan, trong khi cho những nước kém phát triển những lợi thế ưu đãi so với
nước vượt trội hơn. Nói cách khác, cơ chế trưởng thành có nghĩa là đối với
một số sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp, những nước nhất định sẽ bị
loại khỏi chế độ GSP.
Đây là một thay đổi chủ yếu mà sẽ nhấn mạnh lại vai trò chính của GSP là
một công cụ nhằm đến sự cần thiết phát triển.
1.2.1. Điều kiện áp dụng
Những ngành bị ảnh hưởng bởi cơ chế trưởng thành tại một nước sẽ được
EU công bố. Việc áp dụng cơ chế trưởng thành được dựa trên những tiêu
chuẩn cụ thể của EU. Những tiêu chuẩn này bao gồm chỉ số chuyên môn cụ
thể hoá đối với mỗi nước trong mỗi ngành, cộng với chỉ số phát triển. Chỉ số

chuyên môn hoá được dựa trên tỷ lệ giữa phần của nước được hưởng trong
tổng số hàng nhập khẩu của EU trong một ngành hàng với phần của nước
được hưởng trong tổng số hàng nhập khẩu của EU trong tất cả các ngành
hàng. Phần của một ngành hàng so với tất cả các ngành càng lớn thì tính
chuyên môn hoá càng cao. Chỉ số phát triển của nước được hưởng được tính
trên cơ sở thu nhập trên đầu người và mức xuất khẩu, so sánh với mức xuất
khẩu của EU. Tổng hợp hai tiêu chuẩn này nhằm tránh tác động mạnh đến
tiêu chí chuyên môn hoá đơn, theo tiêu chí này một nước thu nhập thấp có
thể được coi là trưởng thành trong ngành hàng mà nước đó chuyên môn hoá.
1.2.2. Phương pháp
Có ba phương pháp trong cơ chế trưởng thành
- Điều khoản trưởng thành phụ thuộc và điều khoản tối thiểu.
Theo điều khoản trưởng thành phụ thuộc, cơ chế trưởng thành cũng áp dụng
cho những nước mà hàng xuất khẩu của họ vào EU vượt quá 25% lượng
hàng xuất khẩu của tất cả các nước ưu đãi tới EU trong cùng ngành hàng
trong năm tài chính của chế độ trước. Điều khoản này áp dụng không kể chỉ
số phát triển.
Theo điều khoản tối thiểu, cơ chế trưởng thành không áp dụng cho những
nước mà hàng xuất khẩu của họ vào EU không vượt quá 2% lượng hàng
xuất khẩu của tất cả các nước ưu đãi tới EU trong cùng ngành hàng trong
năm tài chính của chế độ trước.
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 18

- Thực hiện cơ chế trưởng thành
Việc áp dụng cơ chế trưởng thành đối với những sản phẩm công nghiệp
được thực hiện dần dần, tuỳ theo tổng sản phẩm quốc gia trên đầu người của
nước trưởng thành trong những ngành cụ thể:
+ Đối với những quốc gia/lãnh thổ có tổng sản phẩm quốc gia trên đầu

người hơn 6000 đô la trong năm 1991 (Ba -Ranh, Bru-nây, Hồng - Kông,
Cô-Oét, Li-Bi, A-rập Gia-Ma-Hi-Ri-Ya, NauRu, Ô-Man, Qua-ta, Hàn Quốc,
A-Rập Xê-Út, Xingapo, Các Tiểu vương quốc A-Rập thống nhất), theo dữ
liệu cung cấp bởi Ngân hàng Thế giới, giới hạn ưu đãi sẽ được giảm xuống
tới 50% từ 1/4/1995 và được huỷ bỏ từ1/6/1996;
+ Đối với những nước khác, giới hạn ưu đãi được giảm đến 50% từ 1/1/1997
và huỷ từ 1/1/1998;
- Cơ chế trưởng thành quốc gia
Những nước tiến bộ nhất đáp ứng tiêu chuẩn sau sẽ bị loại khỏi danh sách
các nước và lãnh thổ được hưởng:
+ Tổng sản phẩm quốc gia trên đầu người vượt quá 8210 đô la Mỹ trong
năm 1995 theo số liệu mới nhất của Ngân hàng Thế giới.
+ Chỉ số phát triển, tính theo công thức và số liệu do EU quy định, lớn
hơn -1.
2. Những quy định khuyến khích đặc biệt
Đây là điểm nổi bật của chế độ GSP từ 1995. Nguyên nhân chính của điều
này là sự cần thiết phải mang tất cả các phương tiện hiện có - bao gồm
thương mại - liên quan tới việc giúp đỡ những nước được hưởng cải thiện
khối lượng phát triển của họ bằng cách chấp nhận những chính sách về môi
trường và xã hội ưu việt hơn. Những ưu thế ưu đãi bổ sungmà GSP đưa ra
được thiết lập nhằm bù đắp chi phí phụ trội phát sinh trong khi ban hành
những chính sách như vậy cho những nước liên quan.
Khuyến khích đặc biệt hoạt động trên cơ sở giới hạn ưu đãi bổ sung, giới
hạn này được dành cho những nước được hưởng mà tuân thủ theo các tiêu
chuẩn về lao động và môi trường. Cụ thể hơn, khuyến khích đối với quyền
lao động có thể được dành chỉ cho những nước yêu cầu bằng văn bản và
cung cấp bằng chứng rằng họ đã chấp nhận và áp dụng vào luật quốc gia các
tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Thế giới.
Khuyến khích về bảo vệ môi trường áp dụng chỉ cho những sản phẩm xuất
xứ tại những vùng rừng nhiệt đới và có thể cho những nước có yêu cầu và

cung cấp bằng chứng rằng họ thể chế hoá các tiêu chuẩn của Tổ chức Gỗ
nhiệt đới Quốc tế (ITTO).
3. Các nước kém phát triển
Từ 1977, và theo những thoả thuận tại cuộc họp Tokyo, EU đã ban hành chế
độ đặc biệt cho những nước được Liên Hợp Quốc coi là "kém nhất" trong số
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 19

những nước đang phát triển. Mặc dù hầu hết các nước này là thành viên của
Công ước Cotonou, và do đó không liên quan đến GSP, Băng-la-đet, Ap-ga-
nis-tan, Y-ê-men, Man-di-vi, Nê-pal, Bu-tan, My-an-ma, Lào và Cam-pu-
chia đều hưởng ưu đãi từ những quy định GSP cho những nước kém phát
triển.
Những quy định này bao gồm việc miễn thuế hoàn toàn đối với sản phẩm
công nghiệp và thêm vào đó là lượng lớn hàng nông sản được hưởng thuế
bằng 0. Dù có chế bảo vệ cũng áp dụng cho những nước này, họ vẫn có thẻ
được hưởng ưu đãi khi vi phạm quy tắc xuất xứ.
4. Thu hồi tạm thời chế độ GSP
Khái niệm thu hồi ưu đãi GSP đối với một nước trên cơ sở thực tế không có
gì mới. Đây là đặc điểm vốn có của GSPvà đã được sử dụng trong quá khứ
đối với những thực tiễn về gian lận thương mại và phân biệt. Tuy nhiên,
những quy định mới chính xác hơn và chỉ tới những thực tiễn rõ ràng không
thể chấp nhận được và hạ cấp, như nô lệ và lao động cưỡng bức, xuất khẩu
hàng hoá do tư nhân làm và thiếu kiểm soát về vận chuyển ma tuý và rửa
tiền.
Quyết định thu hồi ưu đãi GSP sẽ được Hội đồng ban hành trên cơ sở đề
nghị của Uỷ ban.
Chế độ GSP có thể bị thu hồi bất kỳ lúc nào, toàn bộ hay một phần theo các
cơ sở sau:

a. Tiến hành bất kỳ hình thức lao động cưỡng bức hoặc nô lệ nào ghi tại
Công ước Giơ-ne-vơ ngày 25/9/1926 và 7/9/1956 và Công ước ILO;
b. Xuất khẩu hàng hoá được làm bởi tù nhân;
c. Thiếu kiểm soát hải quan về xuất khẩu hoặc quá cảnh ma tuý hoặc không
tuân thủ các công ước quốc tế về rửa tiền;
d. Gian lận hoặc không hợp tác hành chính như yêu cầu về thẩm tra giấy
chứng nhận xuất xứ Mẫu A;
e. Những trường hợp rõ ràng về buôn bán không công bằng về phía bên
nước được hưởng: việc thu hồi sẽ tuân thủ hoàn toàn theo quy định của
WTO;
f. Những trường hợp rõ ràng về việc vi phạm các mục đích của các công ước
quốc tế như Tổ chức Đánh bắt cá Đông Bắc Atlantic (NAFO), Uỷ ban Đánh
cá Tây Bắc Atlantic (NEAFC), Uỷ ban Quốc tế về Bảo vệ Cá ngừ (ICCAT),
Tổ chức Bảo vệ Cá Ngừ Bắc Atlantic (NASCO) về bảo vệ và quản lý nguồn
cá.
Việc thu hồi là không tự động, nhưng theo các tiêu chuẩn thủ tục do EU quy
định. Thủ tục này có thể do EU quy định đối với trường hợp (d) và (f) ở trên,
và do một nước thành viên, hoặc bởi một thể nhân hay pháp nhân hoặc tổ
chức, mà có thể đưa ra lợi ích khi thu hồi đối với trường hợp (a) đến (f) nói
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 20

trên. Khi thủ tục này đã được quy định, các cuộc tư vấn giữa Uỷ ban và nước
thành viên sẽ phải diễn ra trong vòng 8 ngày làm việc trong Uỷ ban Ưu đãi
phổ cập.
Nếu Uỷ ban thấy rằng có đủ bằng chứng về việc nước ưu đãi có những hành
động ở điểm (d) nói trên, Uỷ ban có thể tiến hành hành động trả đũa nước đó
bằng cách đình chỉ toàn bộ hoặc một phần ưu đãi thuế quan phổ cập trong 3
tháng, được gia hạn thêm một lần. Khi kết thúc thời gian đình chỉ, Uỷ ban có

thể quyết định hoặc:
- Chấm dứt biện pháp đình chỉ tạm thời sau khi đã tham khảo ý kiến của Uỷ
ban ưu đãi Phổ cập; hoặc
- Đề xuất thu hồi tạm thời quyền hưởng GSP. Trong khi chờ phản hồi về các
đề xuất này, Uỷ ban có thể quyết định kéo dài biện pháp đình chỉ.
Nếu Uỷ ban thấy rằng có đủ bằng chứng cho việc tiến hành điều tra, Uỷ ban
sẽ:
- Thông báo về việc điều tra trên tờ Official Journal of the European
Communities và thông báo cho nước liên quan;
- Tiến hành điều tra, kéo dài tới một năm, hợp tác với các nước thành viên
và tham khảo ý kiến của Uỷ ban ưu đãi Phổ cập: thời gian điều tra có thể
được kéo dài nếu cần thiết.
Trong quá trình điều tra, Uỷ ban có thể :
- Tìm kiếm mọi thông tin mà Uỷ ban cho là cần thiết;
- Thẩm tra thông tin này với các nhà hoạt động kinh tế và cơ quan có thẩm
quyền của nước được hưởng liên quan;
- Nghe ý kiến những bên có lợi ích liên quan.
Khi việc điều tra hoàn thành, Uỷ ban báo cáo kết quả lên Uỷ ban ưu đãi phổ
cập. Nếu Uỷ ban thấy việc tạm thu hồi là không cần thiết, Uỷ ban sẽ ra thông
báo trên tờ Official Journal of the European Communities, thông báo việc
chấm dứt điều tra và các kết luận điều tra. Nếu, ngược lại, Uỷ ban thấy rằng
việc tạm thu hồi là cần thiết, Uỷ ban sẽ đệ trình đề xuất thích hợp lên Hội
đồng sẽ quyết định trong vòng 30 ngày theo đa số.
Ví dụ: Quyết định của Hội đồng 552/97 ngày 24/3/1997 quy định về việc
tạm thu hồi việc hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập đối với Liên bang
Myanmar vì lý do sử dụng lao động cưỡng bức, vẫn có hiệu lực.
5. Đình chỉ ưu đãi đối với những sản phẩm phải tuân theo những biện
pháp chống phá giá
Không phải tất cả những sản phẩm tuân theo những biện pháp chống phá giá
hoặc chống trợ giá sẽ tự động bị đình chỉ quyền hưởng GSP. Chúng vẫn

được hưởng GSP bình thường, trừ phi có thể chỉ ra rằng những biện pháp
này được dựa trên thiệt hại phát sinh hoặc theo giá cả mà không phản ánh
các thuế suất ưu đãi danh cho nước liên quan (xem Regulation 384/96 và
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 21

2026/97). Uỷ ban sẽ ra danh sách sản phẩm và quốc gia không được hưởng
GSP trên tờ Official Journal of the European Communities.
6. Cơ chế bảo vệ:
Trong chế độ GSP của EU có hai điều khoản bảo vệ chung. Điều khoản bảo
vệ thứ nhất quy định thuế MNF của một sản phẩm cụ thể có thể được áp
dụng lại vào bất cứ lúc nào theo đề nghị của một nước thành viên hoặc theo
đề xuất của Uỷ ban nếu một sản phẩm xuất xứ tại một nước hoặc lãnh thổ
đang phát triển bình thường nhập khẩu theo những điều kiện mà sẽ gây ra
hoặc đe doạ gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho nhà sản xuất hoặc mặt
hàng tương tự của EU hoặc những sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. Do đó, Uỷ
ban sẽ mở cuộc điều tra. Trong khi xem xét khả năng tồn tại cúâc khó khăn
nghiêm trọng, Uỷ ban sẽ xem xét các thông tin sau:
- Giảm thị phần của các nhà sản xuất EU.
- Giảm hoạt động sản xuất của họ.
- Tăng hàng hoá lưu kho của họ.
- Triệt tiêu khả năng sản xuất của họ.
- Phá sản.
- Lợi nhuận thấp.
- Sử dụng khả năng ở mức thấp.
- Nhân công.
- Buôn bán.
-Giá cả.
Quyết định sẽ được ban hành trong vòng 30 ngày làm việc có tham khảo ý

kiến của Uỷ ban ưu đãi phổ cập. Các nước được hưởng liên quan sẽ được
thông báo về quyết định này trước khi các biện pháp đi vào hiệu lực. Trong
những trường hợp ngoại lệ, Uỷ ban có thể thực thi mọi biện pháp bảo vệ thật
sự cần thiết và thoả mãn các điều kiện nói trên để giải quyết tình hình.
7. Quy tắc xuất xứ
7.1. Tiêu chuẩn xuất xứ:
7.1.1 Sản phẩm xuất xứ toàn bộ:
Sản phẩm xuất xứ toàn bộ là những sản phẩm không sử dụng nguyên liệu
nhập khẩu khi sản xuất, bao gồm:
(a) Khoáng sản khai thác từ lòng đất hoặc từ đáy biển.
(b) Rau quả thu hoạch ở nước được hưởng.
(c) Động vật sống sinh trưởng ở nước được hưởng.
(d) Những sản phẩm chế biến ở nước được hưởng từ động vật sống.
(e) Những sản phẩm từ đánh bắt xa bờ hoặc những sản phẩm khác lấy từ
biển cả bởi tàu thuyền của nước được hưởng.
(g) Những sản phẩm được làm trên tàu chế biến - chỉ từ những sản phẩm nói
tại mục (f) nói trên.
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 22

(h) Những sản phẩm đã qua sử dụng thu thập tại nước được hưởng chỉ dùng
cho tái chế nguyên liệu thô.
(i) Phế liệu và phế thải từ hoạt động sản xuất diễn ra tại nước được hưởng.
(j) Những sản phẩm khác từ đáy biển hoặc bên dưới đáy biển nằm ngoài
vùng lãnh hải, với điều kiện nước đó có quyền khai thác duy nhất.
(k) Những sản phẩm có tại nước được hưởng chỉ từ những sản phẩm nói tại
mục (a) đến mục (i) nói trên.
7.1.2. Sản phẩm được sản xuất toàn bộ hoặc một phần từ nguyên liệu, bộ
hay thành phần nhập khẩu:

Khi nguyên liệu nhập khẩu được sử dụng để làm ra sản phẩm hoàn chỉnh,
EU yêu cầu các nguyên liệu không có xuất xứ này phải được gia công hoặc
chế biến đầy đủ. Quy tắc xuất xứ mới nhất của EU đưa ra một Danh mục
Đơn mới và dễ hiểu hơn chứa đựng các tiêu chuẩn áp dụng cho việc xác
định xuất xứ. Do đó, trong chế độ GSP hiện hành, quy tắc chung duy nhất
phải tuân thủ để xác định xuất xứ của sản phẩm là xác định mã số HS của
sản phẩm và kiểm tra liệu các tiêu chuẩn điều kiện trong Danh mục Đơn cho
sản phẩm đó có được đáp ứng.
Ví dụ: Danh mục đơn:
Mã HS
Mô tả sản
phẩm
Các hoạt động sản xuất, gia công hay chế biến
phải tiến hành đối với nguyên phụ liệu không
có xuất xứ khiến sản phẩm làm ra đạt được
tiêu chuẩn xuất xứ
(1) (2) (3) (4)
ex
Chương 94
N
ội thất
Được sản xuất mà tất cả
nguyên liệu sử dụng
không thuộc cùng hạng
mục với sản phẩm
Được sản xuất mà trị
giá tất cả nguyên liệu
sử dụng không vượt
qua 40% giá xuất
xưởng của sản phẩm

Quy định trong cột 3 và 4 là những quy định lựa chọn, có nghĩa là có thể sử
dụng một trong hai quy định này để xác định xuất xứ của sản phẩm.
7.1.3. Gia công chế biến không đầy đủ
Trong một số trường hợp, gia công chế biến không đầy đủ có thể vẫn tạo ra
sự thay đổi mã HS nhưng sản phẩm cuối cùng không được coi là có xuất xứ
tại nước đó. Dưới đây là những hoạt động mà EU quy định là hoạt động gia
công chế biến không đầy đủ.
(a) Các hoạt động đảm bảo bảo quản sản phẩm ở trạng thái tốt trong suốt
thời gian vận chuyển và lưu kho (thông gió, phơi phóng, làm khô, làm lạnh,
ướp muối, dùng sun-phur dioxit hay các dung dịch khác, loại bỏ những phần
hỏng, và các hoạt động tương tự);
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 23

(b) Các hoạt động đơn giản bao gồm loại bỏ tạp chất, sàng lọc, sắp xếp, phân
loại, ghép nối (bao gồm việc lắp thành các bộ hàng), làm sạch, vẽ trang trí,
cắt gọt;
(c) Thay đổi bao bì, tháo rời và đóng kiện, đóng gói đơn giản vào chai, lọ,
túi, hộp, sắp xếp trên các tờ, mảnh giấy , và tất cả các hoạt động đóng gói
đơn giản khác;
(d) Việc gắn, dán, ghi các dấu hiệu, nhãn hiệu hay các dấu hiệu riêng có như
thế khác lên sản phẩm hoặc lên bao bì;
(e) Việc trộn đơn giản các sản phẩm, dù là các loại khác nhau hay không, khi
một hay nhiều thành phần hỗn hợp không thoả mãn các điều kiện ghi trong
Chương này để có thể được coi là các sản phẩm có xuất xứ;
(f) Việc lắp ráp đơn giản các bộ phận của sản phẩm để tạo nên một sản phẩm
hoàn chỉnh;
(g) Việc kết hợp hai hay nhiều hoạt động nói trong các mục (a) đến (f):
(h) Giết mổ động vật.

7.1.4. Xuất xứ cộng gộp - cộng gộp khu vực
Theo chế độ GSP của EU, cộng gộp một phần được cho phép. Ba khối kinh
tế khu vực các nước được hưởng được phép thực hiện hệ thống cộng gộp
khu vực của EU, đó là Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN: Bru-nây,
In-đô-nê-sia, Lào, Ma-lay-sia, Phi-lip-pin, Xinggapo, Thái Lan và Việt
Nam), Thị trường chung Trung Mỹ (Cô-sta-ri-ca, En San-va-do, Gua-tê-ma-
la, Hon-du-ras và Ni-ca-ra-gua) và Khối Andean (Bô-li-via, Côlôm-bia, Ê-
cu-a-do, Pê-ru và Vê-nê-zu-ê-la).
Việc rút một nước hay lãnh thổ khỏi danh sách các quốc gia và lãnh thổ
được hưởng ưu đãi phổ cập bởi vì cơ chế trưởng thành quốc gia sẽ không
ảnh hưởng đến khả năng sử dụng các sản phẩm xuất xứ từ một nước theo
các quy tắc cộng gộp khu vực, với điều kiện phải tuân thủ các tiêu chí sau:
- Quốc gia bị rút phải là thành viên của khối khu vực trước khi hệ thống ưu
đãi nhiều năm áp dụng cho sản phẩm đó có hiệu lực; và
- Quốc gia đó không được coi là nước xuất xứ của sản phẩm cuối cùng.
Theo quy tắc cộng gộp khu vực của EU, nguyên liệu hay bộ phận nhập
khẩu bởi một nước thành viên của một trong ba khối khu vực trên từ một
nước thành viên khác của cùng một khối khu vực để sản xuất tiếp sẽ được
coi là những sản phẩm có xuất xứ của nước sản xuất mà không phải là của
nước thứ ba, với điều kiện các nguyên liệu hay bộ phận này đã là những sản
phẩm có xuất xứ của nước thành viên xuất khẩu của khối khu vực đó.
Theo quy tắc này của EU, nước xuất xứ của sản phẩm cuối cùng sẽ được xác
định như sau:
Khi hàng hoá xuất xứ tại một nước là thành viên của khối khu vực được gia
công hay chế biến tại một nước khác trong cùng khối khu vực, chúng sẽ có
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 24

xuất xứ là nước thuộc khối khu đó nơi tiến hành công đoạn gia công hay chế

biến cuối cùng với điều kiện:
- Trị giá gia tăng ở nước đó lớn hơn trị giá hải quan cao nhất của những sản
phẩm được sử dụng có xuất xứ tại nước khác trong cùng khối khu vực; và
- Giai đoạn gia công chế biến tiến hành tại nước đó phải vượt quá các giai
đoạn gia công chế biến tối thiểu nói trên.
Khi những điều kiện trên không được đáp ứng, sản phẩm sẽ có xuất xứ từ
nước thuộc khối khu vực mà có giá trị hải quan cao nhất của sản phẩm đến
từ các nước khác thuộc khối khu vực.
7.1.5. Thành phần nước (cho hưởng) bảo trợ:
Chế độ GSP của EU quy định sản phẩm xuất xứ tại EU mà được gia công
hay chế biến đầy đủ tại nước được hưởng sẽ được coi là có xuất xứ tại nước
được hưởng.
EU cho phép thành phần nước bảo trợ cũng được mở rộng đến sản phẩm của
Na-Uy và Thuỵ Sĩ, khi hai nước này có ưu đãi phổ cập và xác định khái
niệm xuất xứ phù hợp với quy định của EU.
7.2. Quy định về vận chuyển thẳng
Phần thứ hai của quy tắc xuất xứ liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá từ
nước được hưởng đến EU. Một khi hàng hoá đã tuân theo các tiêu chuẩn
xuất xứ, thì nhà xuất khẩu phải đảm bảo việc vận tải phải tuân theo các quy
định của EU. Quy định này nhằm đảm bảo hàng được vận chuyển từ nước
được hưởng là cùng một hàng hoá với hàng hoá đến EU và chúng không bị
gia công hay chế biến thêm tại nước thứ ba trong khi vận chuyển. Nguyên
tắc chúng, hàng hoá phải được vận chuyển thẳng. Dưới đây là những
phương thức mà EU coi là vận chuyển thẳng từ nước được hưởng đến EU:
(a) Hàng hoá được vận chuyển không đi qua lãnh thổ của quốc gia nào khác,
trừ khi là lãnh thổ của một nước khác trong cùng một khối khu vực.
(b) Hàng hoá của một chuyến hàng được vận chuyển qua lãnh thổ của những
nước không phải là nước xuất khẩu được hưởng hay Cộng đồng, mà nếu như
trường hợp này xảy ra quá cảnh hay lưu kho tạm thời ở những nước này, bắt
buộc hàng hoá đó phải nằm dưới sự kiểm soát của các cơ quan hải quan

nước quá cảnh hay lưu kho và chưa trải qua các hoạt động khác trừ bốc xếp,
bốc dỡ hay mọi hoạt động được tiến hành nhằm bảo quản chúng ở trạng thái
tốt.
(c) Hàng hoá được vận chuyển qua lãnh thổ Na-Uy hay Thuỵ Sĩ và được tái
xuất sau đó một phần hoặc toàn bộ sang EU hoặc nước được hưởng, nếu
hàng hoá đó vẫn ở dưới sự giám sát của hải quan nước quá cảnh hoặc nước
lưu kho và đã không trải qua bất kỳ hoạt động gia công hay chế biến nào
khác ngoài bốc xếp, bốc dỡ hay mọi hoạt động được tiến hành nhằm bảo
quản chúng ở trạng thái tốt.
BẢN QUYỀN TÀI LIỆU THUỘC VỀ HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM

Trang 25

(d) Các sản phẩm được vận chuyển bằng ống dẫn đi qua lãnh thổ không phải
là lãnh thổ của nước xuất khẩu được hưởng.
Chứng từ chứng minh điều kiện vận chuyển thẳng đã được đáp ứng phải
xuất trình cho cơ quan hải quan EU, bao gồm:
(a) Vận đơn suốt cấp tại nước xuất khẩu được hưởng, thể hiện việc đi qua
một hay nhiều nước quá cảnh; hoặc
(b) Giấy chứng nhận của cơ quan hải quan của một hay nhiều nước quá
cảnh:
- Thể hiện mô tả chính xác hàng hoá;
- Ghi ngày dỡ dàng và xếp hàng hoặc ngày lên tàu hoặc xuống tàu, ghi rõ tàu
sử dụng;
- Xác nhận những tình trạng của sản phẩm trong khi đi qua các nước quá
cảnh.
(c) Không có các giấy tờ trên, bất kỳ giấy tờ thay thế nào được cho là cần
thiết (ví dụ, bản sao lệnh mua hàng, hoá đơn của người cung cấp hàng, vận
đơn thể hiện tuyến đường hàng đi)
7.3. Chứng từ

Ngoài chứng từ về vận chuyển thẳng, chứng từ về xuất xứ là giấy chứng
nhận xuất xứ Mẫu A đã được điền đầy đủ và có chứng nhận bởi cơ quan cấp
ở nước xuất khẩu được hưởng. Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A là một
trong những chứng từ chính thức mà cơ quan hải quan EU dựa vào đó để
cho hàng hoá hưởng ưu đãi GSP.
Theo quy định của EU, giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A phải được xuất
trình trong vòng 10 tháng kể từ ngày cấp.
Trong trường hợp bị mất, thất lạc hay hư hỏng giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu
A, người xuất khẩu có thể yêu cầu cấp lại giấy này. Bản cấp lại phải có chư
"DUPLICATE" hoăc "DUPLICATA" tại ô 4 của giấy. Bản cấp lại phải ghi
ngày cấp và số của bản cấp lần một và có hiệu lực từ ngày này.
Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A có thể được cấp sau khi đã xuất khẩu hàng
khi:
- Giấy không cấp vào thời gian xuất khẩu vì nhầm lẫn, quên hoặc những
hoàn cảnh đặc biệt; hoặc
- Đã giải thích với cơ quan hải quan rằng giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A
được cấp nhưng không được chấp nhận khi nhập khẩu vì lý do kỹ thuật.
Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A cấp sau phải có chữ "ISSUED
RETROSPECTIVELY" ở ô 4.




×