HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
KHOA CƠ BẢN
BỘ MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI
“Học thật, thi thật, ra trường làm việc thật” của sinh
viên – Nhìn từ góc độ phạm trù bản chất- hiện tượng.
GVHD : Ngô Minh Thuận
Lớp: Triết 07
HÀ NỘI - 2021
h
SVTH: Lê Ngọc Trà My
MSSV:7123102040
Nguyễn Thị Hoài
7123102024
Nguyễn Đức Anh
7123102002
Trần Hoàng Dương
7123102012
Trần Kim Ngân
7123102043
Nguyễn Ngọc Mai
7123102038
Hà Long Nhật
7123102047
Bùi Minh Đức
7123102009
Nguyễn Việt Phương
7123102052
Nguyễn Thị Mai Hoa
7123102021
Nguyễn Đức Quý
7123102055
h
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ TIỂU LUẬN
STT Nội dung nhận xét
Giảng viên nhận xét
Điểm
1
Thể thức văn bản
1,5
2
Bố cục, kết cấu đề tài
1,5
3
Nội dung
(Lý luận + Thực tiễn)
5
4
Phương pháp trình
bày
1,0
5
Tài liệu tham khảo
1,0
10
Họ và tên giảng viên:
Chữ ký giảng viên:
h
Điểm
kết luận
giảng viên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được bài tiểu luận này, nhóm chúng em xin gửi lời cảm ơn
chân thành nhất đến thầy Ngơ Minh Thuận, giảng viên Học viện Chính sách và
phát triển - Người thầy đã dạy chúng em môn Triết học 01. Nhờ vào những kiến
thức mà thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt cho chúng em trong suốt các buổi
học vừa qua mà chúng em đã có thêm những kiến thức hay và bổ ích, lượng kiến
thức không nhỏ này chắc chắn sẽ là hành trang cho chúng em trong những năm
học tiếp theo và cho cả đường đời sau này. Nhóm chúng em đã sử dụng những kiến
thức mà thầy đã giảng dạy để vận dụng chúng vào bài tiểu luận này.
Do nhóm chúng em vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc làm tiểu luận
nên trong bài tiểu luận này sẽ còn nhiều thiếu sót. Nhóm chúng em rất mong nhận
được sự góp ý, nhận xét cũng như phê bình từ Thầy để bài của nhóm chúng em có
thể được hồn thiện hơn.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn Thầy!
1
h
MỤC LỤC
TRANG
LỜI CẢM ƠN................................................................................................1
MỤC LỤC......................................................................................................2
MỞ ĐẦU........................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................4
2.1. Mục đích của đề tài .................................................................................4
2.2.Nhiệm vụ của đề tài .................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................5
3.1 Đối tượng nghiên cứu ...............................................................................5
3.2 Phạm vi nghiên cứu...................................................................................5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..................................................5
4.1 Cơ sở lý luận ............................................................................................5
4.2 Phương pháp nghiên cứu...........................................................................5
5 Những đóng góp mới của đề tài ..................................................................6
5.1 Về lý luận .................................................................................................6
5.2 Về thực tiễn...............................................................................................6
6. Kết cấu của đề tài........................................................................................6
NỘI DUNG.....................................................................................................7
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ “HỌC THẬT, THI THẬT, RA
TRƯỜNG LÀM VIỆC THẬT ”.......................................................................7
1.1. Khái niệm bản chất và hiện tượng................................................................................7
1.2. Mối quan hệ phạm trù bản chất và hiện tượng.............................................................7
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận............................................................................................8
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA VẤN ĐỀ
“HỌC THẬT, THI THẬT, RA TRƯỜNG LÀM VIỆC THẬT ”.....................10
2.1. Thực trạng vấn đề “Học thật, thi thật, ra trường làm việc thật”...................10
2.2. Mặt tích cực và tiêu cực của vấn đề “Học thật, thi thật, ra trường làm việc thật”
.......................................................................................................................11
2.2.1. Mặt tích cực..........................................................................................11
2.2.2. Mặt tiêu cực..........................................................................................12
2.3. Những vấn đề đặt ra.................................................................................13
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP CHO ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU...............................17
3.1. Phát huy mặt tích cực, vốn có và đang có.......................................................17
3.2. Các giải pháp hạn chế mặt tiêu cực................................................................19
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................21
2
h
1.KẾT LUẬN.................................................................................................21
2. KIẾN NGHỊ...............................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................24
3
h
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năng lực và giá trị của con người trong thời đại ngày nay được đánh giá qua
rất nhiều phương diện, thời gian, hoàn cảnh khác nhau nhưng đại đa số chúng ta
đều được đánh giá qua các hình thức thi cử, học tập,… Vì thế vấn đề học thật, thi
thật, làm việc thật ngày càng có tầm quan trọng to lớn.
Với 1 quốc gia đang phát triển và trong quá trình hội nhập quốc tế như Việt
Nam thì vấn đề này càng thiết yếu hơn nữa. Đất nước ta đã đạt được rất nhiều các
thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế công nhận và giúp nâng tầm vị thế quốc
gia trong con đường giáo dục. Vì vậy bên cạnh việc phát triển kinh tế - xã hội thì
nhà nước ta ln chú trọng vào chất lượng giáo dục. Đất nước ta không ngừng đổi
mới chất lượng dạy và học theo hướng tích cực hơn và có được nhiều thành tựu
trong giáo dục. Chính vì q coi trọng giáo dục nên bên cạnh những thành tựu mà
chúng ta đã đạt được thì cũng có những mặt hạn chế gây ảnh hưởng xấu như bệnh
“học ảo thi ảo” vì áp lực thành tích, dẫn đến việc chạy điểm, mua chuộc giáo viên,
… trở nên phổ biến. Suy nghĩ khơng học vẫn có việc làm bằng việc “đi cửa sau”
hay “học giả, bằng thật” khiến cho chất lượng giáo dục và nguồn lao động trở nên
kém chất lượng, nhiều sinh viên khi ra trường “học thật, bằng thật” nhưng khơng
thể có việc làm, dẫn đến thất nghiệp hoặc phải làm những công việc trái ngành
nghề khơng đúng với khả năng, chun mơn của mình. Để giải quyết được vấn đề
cần phải có cơ chế, giải pháp thích hợp để xóa bỏ các vấn đề xấu cịn tồn tại trong
mơi trường giáo dục và lao động. Vì vậy, tơi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “ HỌC
THẬT, THI THẬT, RA TRƯỜNG LÀM VIỆC THẬT CỦA SINH VIÊN – NHÌN
TỪ GĨC ĐỘ PHẠM TRÙ BẢN CHẤT – HIỆN TƯỢNG ”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu vận dụng nguyên lý về sự phát triển vào việc xây dựng những
giải pháp để phát triển giáo dục nước ta.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
4
h
Về mặt lý luận: Làm rõ nguyên lý về sự phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Từ đó , rút ra ý nghĩa về phương pháp luận.
Về mặt thực tiễn:
Làm rõ thực trạng vấn đề học thật, thi thật, ra trường làm việc thật trong xã
hội hiện nay.
Đề xuất ra những giải pháp để giải quyết các mặt xấu cịn tồn tại và tìm ra
hướng đi thích hợp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề “Học thật, thi thật, ra trường làm việc thật” trong phạm trù
bản chất và hiện tượng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
Về nội dung nghiên cứu: Gồm 2 phần lí luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận: Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cặp
phạm trù bản chất và hiện tượng.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu thực trạng của vấn đề “Học thật, thi thật, ra
trường làm việc thật” trong những năm vừa qua.
Không gian nghiên cứu: Trong lãnh thổ Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2018 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường
lối của Chính phủ nói chung và ngành giáo dục nói riêng.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu và trình bày tiểu luận, tác giả sử dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời vận dụng quan điểm khách
quan, quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể, quan
điểm thực tiễn.
5
h
5. Những đóng góp mới của đề tài
5.1 Về lý luận
Làm rõ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối của Chính phủ nói
chung và ngành giáo dục nói riêng.
5.2 Về thực tiễn
Thực trạng học thật, thi thật, làm việc thật trong phạm vi nước ta và đề xuất
giải pháp hoàn thiện về giáo dục
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài nghiên cứu gồm: 3 chương, 10 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài “ Học thật, thi thật, ra trường làm việc
thật”
Chương 2: Thực trạng và các vấn đề của đề tài “ Học thật, thi thật, ra trường
làm việc thật”
Chương 3: Giải pháp cho “ Học thật, thi thật, ra trường làm việc thật” của
sinh viên
6
h
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI “ HỌC THẬT, THI THẬT,
RA TRƯỜNG LÀM VIỆC THẬT”
1.1. Khái niệm của bản chất và hiện tượng
Bản chất là những tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật
đó. Cịn hiện tượng là sự hiểu biết của những mặt, những mối liên hệ thuôc bản
chất của sự vật, hiện tượng ra bên ngồi. Bản chất nói về những mặt bên trong, mặt
ổn định của hiện thực khách quan. Nó ẩn đằng sau cái vẻ ngồi của hiện tượng và
biểu lộ ra qua những hiện tượng ấy. Hiện tượng là những mặt bên ngoài, mặt di
động và biến đổi hơn của hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản
chất.
1.2. Mối quan hệ của phạm trù bản chất và hiện tượng
Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái tạo
nên bản chất của một sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của sự vật đó.
Thế nhưng không phải cái chung nào cũng là cái bản chất. Bởi vì bản chất chỉ
những cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển sự vật.
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống. Cả bản chất và
hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có nhận thức được hay
không. Những yếu tố tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt
với nhau, trong đó những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên
hệ này tạo nên bản chất của sự vật. Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên
hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại ở bên trong sự vật. Do đó, đương nhiên là cũng
tồn tại khách quan. Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngồi để
chúng ta nhìn thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.Không những tồn tại khách
quan, bản chất và hiện tượng cịn có mối liên hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ
với nhau. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất
bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua
7
h
những hiện tượng tương ứng. Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản
chất. Bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều
hoặc ít. Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định
sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó
mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát
triển của những hiện tượng ấy.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng.Trong
sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt. Tuy bản chất và hiện tượng thống nhất
với nhau, về căn bản là phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với
nhau hoàn toàn. Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện
ra thông qua sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh. Các sự vật
xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào
nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định. Kết quả là, hiện tượng biểu
hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện y nguyên bản chất.
Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Cịn hiện tượng khơng ổn định, nó
ln ln trơi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất: Có tình hình đó là do
nội dung của hiện tượng được quyết định khơng chỉ bởi bản chất của sự vật, mà
còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngồi của nó, bởi tác động qua lại của nó với
các sự vật xung quanh. Vì vậy, hiện tượng thường xuyên biến đổi, trong khi bản
chất của nó giữ nguyên. Thế nhưng bản chất không phải lúc nào cũng luôn giữ
nguyên như từ lúc ra đời cho đến lúc mất đi.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức, để tìm hiểu đầy đủ về sự vật, ta không nên dừng
lại ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất đó. Bởi vì bản chất tồn tại khách
quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong
sự vật ấy chứ khơng phải bên ngồi nó. Cịn trong q trình nhận thức bản chất của
sự vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau. Do
có thể ta khơng thể xem và hiểu hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất cửa sự
vật. Thế nên ta cần ưu tiên xem xét, trước hết các hiện tượng điển hình trong hồn
cảnh điển hình. Thế nhưng có thể kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể
8
h
phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật. Mà chỉ mới phản ánh một phần nhất định của
sự vật. [1, tr24]
9
h
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA ĐỀ TÀI “
HỌC THẬT, THI THẬT, RA TRƯỜNG LÀM VIỆC THẬT ”
2.1. Thực trạng vấn đề “học thật, thi thật, ra trường làm việc thật”
Học vấn là con đường ngắn nhất để dẫn đến thành cơng. Đã có rất nhiều
người đứng vững trên thành cơng của mình sau bao tháng ngay miệt mài chiến đấu
với sách vở, kiến thức lí thuyết nặng nhọc. Rắn rỏi và dày dặn lí thuyết chính là
bước đệm cho cơng việc sau này trở nên thuận lợi hơn. Thực tế là vậy, nhưng nếu
chỉ nhìn qua kết quả của những cuộc thi hiện nay thì lại khó để chứng minh rằng
tất cả những cuộc thi đó là bằng chứng xác thực và thuyết phục cho vấn đề “học
thật, thi thật”. Chủ đề về giáo dục chưa bao giờ là hết “nóng”. Bởi lẽ giáo dục hiện
nay đã có nhiều bằng chứng hay “thủ đoạn” để đẩy các học trò kém chất lượng lên
lớp một cách dễ dàng.
Thách thức lớn nhất của nền giáo dục chính là kiểm sốt tình hình “học ảo”
để sàng lọc chính xác những nhân lực thực sự có tài, có trí và có năng lực. Hiện
nay, chỉ tiêu giáo dục đặt ra cho các nhà trường, tổ chuyên môn, giáo viên chưa sát
với thực tế. Bệnh hình thức, bệnh thành tích vẫn xảy ra trong ngành giáo dục,…
Những chỉ đạo của cấp trên nhiều khi cứng nhắc, máy móc, chưa phù hợp với thực
tiễn, những đổi mới giáo dục đôi lúc còn quá lạ lẫm nhưng bị ép thay đổi trong thời
gian ngắn khiến môi trường đào tạo giáo dục bị “ngộp thở”. Cuối năm học, đa
phần học sinh các cấp được xếp hạnh kiểm loại tốt, học sinh tiểu học thì đa phần
đạt danh hiệu “hồn thành xuất sắc nhiệm vụ”, học sinh cấp trung học cơ sở, trung
học phổ thơng thì đạt danh hiệu “học sinh giỏi” nhiều vơ kể. Dù là trường chun
hay đại trà thì số lượng học sinh được khen thưởng về học lực hàng năm cũng
nhiều hơn học sinh không được khen thưởng.
Trong lớp học thì thầy cơ chỉ dùng lời khen, động viên, khích lệ để giúp học
sinh tiến bộ, khơng có ai dám trách phạt học trò. Trong phiếu nhận xét về học tập
của mỗi mơn học thì khơng có thầy cơ nào dám chê trách học trò. Trong lời phê về
hạnh kiểm vào học bạ của giáo viên chủ nhiệm cũng đều là những lời tốt đẹp đôi
chút không thành thật. Thỉnh thoảng mới có em bị phê là “cần cố gắng hơn”; cần
“tu dưỡng nhiều hơn”…là nặng nhất. Gần như học sinh đủ điều kiện để được lên
10
h
lớp 99% và đa số là học sinh khá giỏi, có những lớp đại trà mà chỉ một vài em có
học lực trung bình. Nhiều mơn học thì điểm giỏi là chủ yếu, chỉ có một tỉ lệ nhỏ là
học sinh loại khá và trung bình.
Giáo viên thì đa phần được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, nhiều
thầy cô là giáo viên dạy giỏi cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh,… Sáng kiến kinh
nghiệm thì nhiều vơ kể, những sáng kiến đạt giải cấp huyện, cấp tỉnh mới khó chứ
đạt giải cấp trường thì nhiều lắm. Đáng để tâm hơn khi có những giáo viên chưa
thực sự có kinh nghiệm nhưng vẫn bị ép đi thi dạy giỏi để mang thi đua về cho nhà
trường. Thành quả ấy đáng để tự hào lắm chứ nhưng phía sau những con số, những
thành tích ấy thì giáo dục phổ thơng đang còn rất nhiều việc phải làm, phải thay
đổi, phải khắc phục.
2.2. Mặt tích cực và tiêu cực của vấn đề “Học thật, thi thật, ra trường
làm việc thật”
2.2.1. Mặt tích cực:
- Hệ thống chính sách, cơ chế của ngành giáo dục đang ngày càng hoàn thiện,
đổi mới theo hướng tích cực hơn: Lần đầu tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham
mưu Chính phủ trình Q́c hội thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục (sửa đổi, ban hành mới) năm
2019, giải quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo.
- Chương trình giáo dục phổ thơng mới đang dần hồn thiện và đạt được một
số hiệu quả nhất định như:
+ Nâng cao tinh thần tự giác của người học.
+ Thắt chặt cơng tác quản lý giúp giảm thiểu, phịng tránh được nhiều vụ
gian lận thi cử rõ rệt.
+ Công tác tổ chức thi cử, kiểm tra và đánh giá năng lực của học sinh ngày
càng chặt chẽ, công bằng, đánh giá đúng thực chất, hiệu quả hơn.
- Chất lượng giáo dục ở các cấp trung học cở sở, trung học phổ thông ngày
càng được cải thiện, chất lượng của cả đại trà và mũi nhọn đều nâng lên rõ rệt,
được quốc tế công nhận.
11
h
- Nhiều em học sinh đạt được thành tích đáng nể trong học tập, đạt được kết
quả cao trong các cuộc thi học sinh giỏi, huy chương Olympic cả trong nước và
quốc tế:
+ Trong giai đoạn từ năm 2016-2020, học sinh Việt Nam đã giành được tới
49 huy chương vàng trong cuộc thi Olympic trong khi giai đoạn từ 2011-2015
trước đó là 25 huy chương vàng, từ đó để ta thấy được sự phát triển không nhỏ của
nên giáo dục nước nhà.
+ Năm 2019, hệ thống giáo dục của Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên
thế giới ( tăng tới 12 bậc so với năm vừa rồi ).
- Tăng cường áp dụng máy móc tiên tiến hiện đại, ứng dụng công nghệ thông
tin hỗ trợ cho việc giảng dạy thêm sinh động, học sinh dễ dàng nắm bắt, tiếp thu
kiến thức, khiến việc học hành trở nên dễ dàng, khơng cịn nhàm chán nữa.
- Chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả của việc trao đổi, hợp tác
quốc tế trong giáo dục và đào tạo. Cụ thể, hiện nay rất nhiều trường đại học xây
dựng, thành lập các viện hợp tác quốc tế, trao đổi du học sinh, hội nhập văn hóa
với các nước trên thế giới có quy mơ bài bản như: Viện Đào tạo quốc tế (APDHọc viện chính sách và phát triển); Viện hợp tác quốc tế (TMU- Đại học Thương
mại) [ 2, tr24 ]
2.2.2. Mặt tiêu cực
- Cơ chế, chính sách về việc thi thật vẫn cịn rất nhiều khó khăn và hạn chế,
một số trường hợp cụ thể như:
+ Điều chỉnh, tăng thêm các bài kiểm tra thường xuyên cho học sinh với
mục tiêu cải thiện chất lượng giảng dạy, học tập, nâng cao tinh thần tự giác của
người học nhưng khi đưa vào thực hiện vẫn chưa thật sự hiệu quả hay có thể nói,
cơ chế này gần như vơ hiệu nếu các cán bộ, giáo viên thực hiện không chặt chẽ và
khơng thật sự thực hiện theo hướng tích cực là động viên khả năng phát triển của
mỗi học sinh. Ví dụ như trên thực tế, giáo viên cho điểm hoặc ghi nhận xét, đánh
giá học sinh thì làm một cách chiếu lệ, viết chung chung, khơng có tính sát sao và
cũng khơng hề dựa trên tình hình đánh giá thực tế.
12
h
+ Khơng những vậy, các tiêu chí đánh giá, xếp loại học sinh cũng chưa thật
sự rõ ràng và chặt chẽ. Chẳng hạn như 3 bộ môn: Mỹ thuật ( thủ công ), thể dục,
âm nhạc, giáo viên chỉ đánh giá và cho điểm dựa trên ý kiến chủ quan của bản
thân.
+ Đề xuất chỉ đạo chủ trưởng, chính sách trên giấy tờ rất tốt nhưng khi triển
khai vào thực tế ở nhiều địa phương vì chưa triệt để, cịn gặp nhiều khó khăn,
vương mắc, chưa có sự đồng bộ trong việc phổ biến, thực hành.
- Phụ huynh, nhà trường mắc “bệnh thành tích”, chạy đua theo điểm số, dùng
điểm số để đánh giá học sinh trong khi chính thầy cơ khi chấm điểm cịn chưa thật
sự cơng tâm. Điều đó sẽ dẫn đến nhưng tiêu cực trong ngành giáo dục như mua
điểm, gian lận thi cử, lộ bán đề thi, mua chuộc giáo viên, thậm chí chạy trường,
chạy lớp đồng thời khiến việc giám sát tình hình giảng dạy, thanh tra, kiểm tra hoạt
động của cơ sở giáo dục có thể trở nên vơ hiệu, khơng có tác dụng răn đe, chấn
chỉnh, xuất hiện tình trạng bao che, tham ô, hối lộ.
- Một số cấp giáo dục còn thiếu nhân lực hay nói cách khác là thiếu đội ngũ
giáo viên đủ trình độ dẫn đến việc giảng dạy theo yêu cầu, cơ chế mới gặp nhiều
khó khăn. Ở các trường thuộc các tỉnh nghèo, vùng sâu vùng cao, đồi núi, dân tộc
thiểu số, chất lượng và số lượng giáo viên không đảm bảo yêu cầu.
2.3. Những vấn đề đặt ra
Hiện nay, sinh viên ra trường thất nghiệp đang là vấn đề đáng báo động trong
xã hội. Câu hỏi đặt ra ở đây là nguyên nhân của tình hình thất nghiệp sinh viên
hiện nay là do đâu? Hậu quả để lại là gì? Vấn đề đó đã gây thiệt hại gì cho nền
kinh tế nước nhà? Và chúng ta phải làm gì để khắc phục tình trạng trên? Có rất
nhiều câu hỏi và giải pháp được đặt ra, song vẫn chưa khắc phục triệt để được tình
trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về thất nghiệp. Theo Luật Bảo hiểm thất
nghiệp Cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa: “Thất nghiệp là người lao động tạm
thời khơng có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện công việc ngắn hạn”.
13
h
Tại Trung Quốc định nghĩa về thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là người
trong tuổi lao động (dân thành thị) có khả năng lao động, chưa có việc làm, đang đi
tìm việc làm, đăng ký tại cơ quan giải quyết việc làm”.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một
số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng khơng thể tìm được việc
làm ở mức tiền lương thịnh hành”.
Ở Việt Nam, thất nghiệp là vấn đề mới nảy sinh trong thời kỳ chuyển đổi nền
kinh tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Vì vậy, tuy chưa có
văn bản pháp quy về thất nghiệp cũng như các vấn đề có liên quan đến thất nghiệp,
nhưng có nhiều cơng trình nghiên cứu nhất định. Những nghiên cứu bước đầu
khẳng định thất nghiệp là những người khơng có việc làm, đang đi tìm việc và sẵn
sàng làm việc.
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, đến quý 1 năm 2017, trong
tổng lực lượng lao động cả nước có gần 918 nghìn lao động thiếu việc làm và lao
động thất nghiệp là 1,14 triệu người. Thông thường, tình trạng thiếu việc ln là
vấn đề phổ biến ở khu vực nông thôn. Trong quý 1 năm 2017, hiện có gần 85,0%
lao động thiếu việc làm sinh sống ở khu vực này. Xét về khác biệt giới, thị phần
lao động nam thiếu việc là cao hơn so với lao động nữ (52,2% và 47,8 % tổng số
lao động thiếu việc cả nước). Đồng thời, tình trạng thất nghiệp lại được quan tâm
hơn ở khu vực thành thị. Mặc dù, tỷ trọng lao động thất nghiệp thành thị hiện thấp
hơn, chỉ chiếm khoảng 47,6% tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Hơn nữa, dựa
trên kết quả điều tra lao động việc làm quý 1 năm 2017 cũng cho thấy lao động
thất nghiệp nam là đông hơn so với lao động nữ (chiếm 58,9% và 41,1% trong
tổng số lao động thất nghiệp cả nước). Nếu xem xét tình trạng thất nghiệp theo
trình độ chun mơn kỹ thuật tức là sinh viên ra trường có trình độ chun mơn
nhất định, trong quý 1 năm 2016, có tới hơn 32,3% số lao động thất nghiệp cả
nước là lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp hoặc nghề từ 3 tháng trở lên. Trong
đó, nhóm lao động có trình độ từ đại học trở lên chiếm thị phần lớn nhất, khoảng
38,6% tổng số lao động thất nghiệp nhóm này. 6 nhóm ngành/nghề đào tạo hiện có
tỷ trọng lao động thất nghiệp có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ 3 tháng trở lên
14
h
theo thứ tự là “Kinh doanh và quản lý - 30,3%”, “Công nghệ kỹ thuật - 13,4%”,
“Sức khỏe - 10,7%”, “Dịch vụ vận tải - 9,5%” và “Khoa học giáo dục và đào tạo
giáo viên - 9,0%”. Chỉ khoảng 3,6% nhóm lao động thất nghiệp có trình độ chun
mơn kỹ thuật là có 2 bằng/chứng chỉ đào tạo trở lên.
Có một quy luật bất thành văn nhưng rất đúng "học thế nào thì thi thế ấy!".
Trong thực trạng giáo dục hiện nay, vì lợi ích của bản thân mỗi người, giáo dục
hướng theo những giá trị ảo do "bệnh thành tích" sinh ra.
Điều đó cắt nghĩa vì sao các kỳ thi, từ kiểm tra thường kỳ hay định kỳ, thi tuyển
sinh chuyển cấp cho đến kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thơng thường có kết quả
khơng đáng tin cậy.
Muốn có thi thật thì trước hết phải có học thật, như đã nói ở trên. Trên cơ sở
đó, phải áp dụng nhiều biện pháp chống gian lận sao cho có hiệu quả. Trước hết
phải chống lại "bệnh thành tích" trong thi đua: chỉ tính thành tích dạy thật - học
thật chứ khơng tính tỉ lệ học sinh tốt nghiệp cao hay thấp. Lâu nay, “học thật, thi
thật, nhân tài thật” là câu chuyện thường được đặt ra để bàn thảo và tìm giải pháp.
Trước hết có thể thấy, văn hóa khoa bảng đã “ăn sâu, bén rễ” trong xã hội nước ta
có mặt tích cực là tạo nên truyền thống hiếu học cho người Việt Nam, song đây
cũng là một phần nguyên nhân tạo nên xu hướng chỉ chú trọng vào thi cử và bằng
cấp, học vẹt, học để thi chứ không phải học để biết, học để làm, học để khẳng định
mình.
Khơng những vậy, với khơng ít người, sự học chỉ qua loa cho có, học chống
đối, học cốt để lấy bằng, học xong khơng thêm được kiến thức gì, rất lãng phí. Có
người sở hữu nhiều bằng cấp, nhưng trước cơng việc thì khơng làm được, danh vị
chỉ là hư danh, có bằng cấp cốt làm đẹp hồ sơ…
Đáng lên án, vì háo danh, muốn có “bằng nọ, bằng kia” mà hiện tượng “học
giả, bằng thật” trở nên nhức nhối trong xã hội. Từ đây đã sinh ra những “trí thức
giả”, mà khi những người này nắm quyền trong tay, giữ những cương vị quan
trọng thì dễ dẫn đến tác hại khôn lường cho xã hội. Tất nhiên, những vấn đề nêu
trên chỉ là “con sâu bỏ rầu nồi canh”. Ngành Giáo dục và Đào tạo đã, đang nỗ lực
tạo ra nguồn nhân lực cho phát triển đất nước. Rất nhiều những người thầy thật sự
15
h
tâm huyết, dốc lịng dốc sức vì học trị. Cũng có biết bao học sinh, sinh viên học
thật, năng lực thật và đã thật sự làm rạng danh Tổ quốc.
Nhưng xét cho cùng, dù chỉ là số ít “thực khơng xứng danh, danh khơng xứng
thực” cũng khiến chúng ta có nhiều suy nghĩ… Rõ ràng, “học thật”, “thi thật” , “ra
trường làm việc thật” đang là một yêu cầu rất cao, là “cuộc cách mạng” cho ngành
Giáo dục và Đào tạo nước ta. Chính vì thế, khi người đứng đầu Chính phủ nêu ra 3
tiêu chí “thật”, thì cũng chính là ba khâu đột phá lớn mà ngành Giáo dục phải giải
quyết một cách dứt điểm trong thời gian tới để tạo chuyển biến thực chất trong đào
tạo nhân lực cho đất nước.
16
h
Chương 3: GIẢI PHÁP CHO “HỌC THẬT, THI THẬT, RA TRƯỜNG LÀM
VIỆC THẬT” CỦA SINH VIÊN.
Việc đưa vấn đề “ Học thật, thi thật, ra trường làm việc thật” vào thực tiễn
hiện tại vẫn cịn gặp nhiều khó khăn. Chính vì những điều hạn chế, thiếu sót, chính
sách chưa triệt để mà việc “Học thật, thi thật, ra trường làm việc thật” trở nên chưa
có hiệu quả, khơng sát với thực tế. Nếu cứ mãi như vậy thử hỏi xem trong những
học sinh giỏi liệu được bao nhiêu học sinh là năng lực thật? Trong nhà trường,
hàng nghìn con số hiện lên trên bảng thành tích kia, được bao nhiêu phần trăm là
thật? Hoặc rộng hơn là khi bước ra cuộc đời, tìm kiếm việc làm, liệu ai mới là kẻ
xứng đáng hay những người có tầm thì bị đánh trượt, bị tước đi giấc mơ chỉ vì
thiếu 0,05đ như thí sinh Nguyễn Phùng Hưng vào năm 2016 [3, tr24] thay vào đó
là những người có trình độ kém được nâng đỡ rồi làm cơng việc khơng xứng với
trình độ của bản thân. Qua đó ta có thể thấy việc “Học thật, thi thật, ra trường làm
việc thật” rất khó để hiện thực hố nếu như khơng có giải pháp đúng đắn và sát với
hiện thực cuộc sống. Vì vậy, chúng em đã đưa ra nhưng giải pháp để hạn chế tiêu
cực và thực hiện vấn đề “ Học thật, thi thật, ra trường làm việc thật”.
3.1. Phát huy mặt tích cực vốn có và đang có
Để cho sinh viên có thể phát huy hết khả năng của mình, tránh tiêu cực trong
học tập chúng ta cần phải có 5 điều sau:
Thứ nhất, là giảng viên phải là người đi đầu trong phương pháp giảng dạy,
cần phải đổi mới phương pháp dạy cho sinh viên nhưng cũng không để làm sinh
viên cảm thấy xa lạ. Lý thuyết phải đi đôi với thực hành, từ đó mới làm tăng khả
năng nhận thức, hứng thú học cho sinh viên. Cái mới luôn ln phải đi song song
với cái cũ. Ngồi ra cịn phải dùng nhiều các phương pháp đa dạng như: so sánh,
nêu vấn đề, làm việc độc lập và kết hợp chúng với nhau. Ln ln phải trình bày
kiến thức một cách phát triển và gợi mở. Giảng viên phải thành thạo sử dụng nhiều
phương tiện dạy học hiện đại, trực quan nhằm kích thích sự tị mị và hứng thú học
cho sinh viên. Cùng với đó là nhiều phương thức làm việc như: làm việc cá nhân,
nhóm, tập thể, làm việc trong vườn trường. Ngồi ra cịn phải tơn trọng các
17
h