Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.31 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THỐNG KÊ
BỘ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
--❧•❧--

BÀI TẬP LỚN
Đề tài:
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên sinh viên

: Vũ Thị Mai Trang

Mã sinh viên

: 11208181

Chuyên ngành

: Thống Kê Kinh Tế

Lớp

: Thống Kê Kinh Tế 62A

Hệ

: Chính quy

Hà Nội, 2021




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………4

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG .......... ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)................. Error! Bookmark not defined.
1.1.1. Khái niệm................................................ Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ............. Error! Bookmark not
defined.
1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Bổ sung cho nguồn vốn trong nước........ Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Tiếp thu cơng nghệ và bí quyết quản lý . Error! Bookmark not defined.
1.2.3. Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu ... Error! Bookmark not defined.
1.2.4. Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công ...... Error! Bookmark not
defined.
1.2.5. Làm tăng nguồn thu ngân sách ............... Error! Bookmark not defined.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn FDI vào Việt Nam ........Error!
Bookmark not defined.
1.3.1. Đu kiện tự nhiên ..................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.2. Điều kiện kinh tế..................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.3. Điều kiện chính trị - xã hội ..................... Error! Bookmark not defined.
1.3.4. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng ............... Error! Bookmark not defined.
II. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ FDI VÀO VIỆT NAM
ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
2.1. Các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến thu hút vốn FDI vào Việt Nam
Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên .................................. Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Điều kiện kinh tế .................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Điều kiện xã hội ..................................... Error! Bookmark not defined.

2.1.4. Hệ thống cơ sở hạ tầng ........................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Các nhân tố bên ngoài .................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Xu hướng đầu tư FDI trên thế giới......... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Xu hướng đầu tư tại Việt Nam ............... Error! Bookmark not defined.
2.3. Chính sách thu hút vốn FDI vào Việt Nam ... Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Mục đích của chính sách thu hút đầu tư. Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Các chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam hiện nay Error! Bookmark
not defined.
2.3.3. Một số vướng mắc và hạn chế ............... Error! Bookmark not defined.
2


2.4. Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai
đoạn 2010-2020 ...................................................... Error! Bookmark not defined.
2.4.1. Về lĩnh vực đầu tư .................................. Error! Bookmark not defined.
2.4.2. Về đối tác đầu tư .................................... Error! Bookmark not defined.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG THỜI GIAN
TỚI.…………….ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
3.1. Định hướng mới .............................................. Error! Bookmark not defined.
3.2. Giải pháp đồng bộ ........................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Về cơ sở hạ tầng ........................................ Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Cải thiện môi trường kinh doanh .............. Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Ban hành các chính sách ưu đãi nguồn vốn FDI...... Error! Bookmark not
defined.
3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước .... Error! Bookmark not
defined.
3.2.5. Nâng cao khả năng chuyển giao công nghệ ............. Error! Bookmark not
defined.
KẾT LUẬN……………………………………………………………………28

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….29

3


MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh (chữ Nho: 胡志明; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm
1969), tên khai sinh Nguyễn Sinh Cung (chữ Nho: 阮生恭), là một nhà cách
mạng và chính khách người Việt Nam. Ơng là người sáng lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, từng là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945–1969,
Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những năm 1945–1955, Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1956–1960, Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951 cho đến
khi qua đời.
Trong quãng thời gian sinh sống và hoạt động trước khi lên nắm quyền, Hồ
Chí Minh đã đi qua nhiều quốc gia và châu lục, ông được cho là đã sử dụng 50
đến 200 bí danh khác nhau. Về mặt tư tưởng chính trị, Hồ Chí Minh là một
người theo chủ nghĩa Marx – Lenin. Ông là nhà lãnh đạo phong trào độc lập
Việt Minh tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ông cũng là người đã
soạn thảo, đọc bản Tuyên ngôn độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, và trở thành Chủ tịch nước sau cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Trong giai
đoạn diễn ra chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh là
nhân vật chủ chốt trong hàng ngũ lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hồ Chí Minh giảm dần hoạt
động chính trị vào năm 1965 vì lý do sức khỏe rồi qua đời vào năm 1969. Năm
1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiến thắng, hai miền Việt Nam được thống
nhất, dẫn đến sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào
năm 1976. Thành phố Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để
tơn vinh ơng cũng như sự kiện này.
Ngồi hoạt động chính trị, Hồ Chí Minh cũng là nhà văn, nhà thơ và nhà

báo với nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp.

4


Hồ Chí Minh là “nhà tư tưởng lỗi lạc”

I.

1. Thế giới thừa nhận tư tưởng Hồ Chí Minh qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau
Ngay sau khi Người qua đời, nhiều chính khách, nhà nghiên cứu trên thế
giới đều cho rằng Hồ Chí Minh là một nhà tư­ tư­ởng, nhà mácxít sáng tạo, đầy
bản lĩnh. Khái niệm “nhà tư tư­ởng” ở đây được hiểu đúng với tinh thần của
V.I.Lênin: Một người xứng đáng là “nhà tư t­ưởng” khi nào giải quyết trư­ớc
ngư­ời khác tất cả những vấn chính trị - sách lược, các vấn đề về tổ chức, về
những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát. Năm 1970,
nhà triết học Nhật Bản Singô Sibata đã viết cuốn sách có tiêu đề Hồ Chí Minh,
nhà tư tưởngvà cho rằng: “Nguồn gốc thắng lợi của Việt Nam, trong một mức
độ lớn, bắt nguồn từ trình độ cao của triết học và lý luận mà nhân dân Việt Nam
đạt được”. Báo chí Cuba coi “Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng vĩ
đại nhất của thời đại chúng ta”. Cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ Gớt Hơn
thì cho rằng: “Đồng chí Hồ Chí Minh là một lãnh tụ và là một nhà tư tưởng
mácxít - lêninnít vĩ đại của thế giới...Cả lồi người sẽ đời đời trân trọng giữ gìn
những cống hiến của Người vào kho tàng của chủ nghĩa Mác”. Cịn UNESCO
thì khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc
trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu
biết lẫn nhau”.
Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, thế giới đều thừa nhận có tư tưởng Hồ
Chí Minh và Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, nhà lý luận vĩ đại của thời đại

chúng ta.

5


2. Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh được nói đến chính thức trong
hơn 15 năm trở lại đây. Đại hội VII của Đảng (6-1991) đã chính thức sử dụng
thuật ngữ, nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghị quyết 09/NQ/TW ngày 18-21995 của Bộ Chính trị (khố VII) về một số định h­ướng lớn trong công tác t­ư
tư­ởng, khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên
nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”. Văn kiện Đại hội
IX (4-2001), Đại hội XI (1-2011) đều viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta...”
Vì thế, khi nói đến Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng, nhà mácxít sáng tạo cần
được hiểu ở Người vừa có những tư tưởng, cách làm mới, chưa hề có trong học
thuyết Mác - Lênin, vừa có những quan điểm dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin, khơng rập khn, mà có những cách nhận thức, giải quyết mới. Theo
cách hiểu đó, rõ ràng Hồ Chí Minh có nhiều sáng tạo lý luận có giá trị về cách
mạng Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã vận dụng và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch ra con đường cách mạng đầy sáng tạo
của Việt Nam. Hồ Chí Minh một mặt khẳng định tính chất thật sự cách mạng,
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, cho đó là “Chủ nghĩa chắc chắn nhất, chân
chính nhất, cách mệnh nhất” và “Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho
hành động” của toàn Đảng, toàn dân ta. Nhưng mặt khác, trong khi tìm hiểu và
vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra ở phương Đơng có những


6


đặc điểm khác với các nước phương Tây mà thời Mác chưa có điều kiện nghiên
cứu

3. Những điểm sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Khác với nhiều trí thức tư sản phương Tây đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
chủ yếu như đến với một học thuyết, nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy
hơn là hành động, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim
chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn
của cách mạng Việt Nam. Người đã tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo phương
pháp nhận thức mácxít, đồng thời theo lối “đắc ý, vong ngôn” của phương
Đông, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không chịu trói buộc trong cái
vỏ ngơn từ. Hồ Chí Minh vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của
chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam chứ khơng đi tìm những kết luận có sẵn trong
sách vở kinh điển.
Từ ph­ương pháp tiếp cận đúng đắn, mạnh dạn, khoa học trong kế thừa và
phát triển học thuyết Mác - Lênin, đồng thời bám sát thực tiễn Việt Nam và thế
giới, trên bình diện nhà tư t­ưởng, Hồ Chí Minh có những sáng tạo lớn trên
nhiều lĩnh vực, ở mỗi lĩnh vực, Người đều có những chỉ dẫn có giá trị lý luận và
thực tiễn lớn lao. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã có những luận điểm sáng tạo góp
phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin trong vấn đề cách mạng giải
phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ mới và con đường quá độ lên CNXH ở
một nước phương Đông, thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.
Những luận điểm ấy của Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng, bao quát nhiều
mặt, nhiều lĩnh vực. Đó cũng chính là những giá trị tiềm ẩn trong tư tưởng Hồ
Chí Minh cần được nghiên cứu sâu hơn nữa ở mức độ học thuyết.


7


Một, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh trở thành ngư­ời cộng
sản Việt Nam đầu tiên, tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn cho dân tộc: Đó
là Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản. Bởi lẽ, Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi
ng­ười không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đồn kết, ấm no trên trái đất.... Người đi đến một nhận thức có tính chân lý:
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đư­ờng nào khác con
đường cách mạng vô sản.
Con đường cách mạng vô sản là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, đồng thời
cũng là sự lựa chọn của bản thân lịch sử dân tộc. Xét về thực chất, đây là con
đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, vừa đáp ứng được các nhu cầu phát
triển của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày
nay. Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc ta
vững bước tiến về phía trước.
Ở đây, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp, dân tộc và quốc tế. Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân
tộc là một động lực lớn của sự phát triển đất nước”; gắn cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản
thế giới, nghĩa là Người đã quốc tế hoá những vấn đề của cách mạng nước ta.
Hai, Hồ Chí Minh là người dân thuộc địa và là người cộng sản đầu tiên có
cống hiến to lớn về nghiên cứu chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc.
Người đã chỉ rõ bản chất, quy luật vận động, địa vị lịch sử của chủ nghĩa thực
dân và sự diệt vong tất yếu của nó trong quá trình vận động, phát triển của nhân
loại tiến bộ; vạch ra cho nhân loại con đường thoát khỏi chế độ thực dân. Hồ Chí
Minh đã nêu một luận điểm đặc biệt sáng tạo: cách mạng ở các nư­ớc thuộc địa
cần được tiến hành một cách độc lập, chủ động, sáng tạo, có khả năng giành

đư­ợc thắng lợi trước cách mạng vơ sản chính quốc và tác động trở lại, thúc đẩy
cách mạng chính quốc. Luận điểm mới mẻ, sáng tạo này có căn cứ khoa học,
8


dựa trên sự nghiên cứu thấu đáo vị trí, vai trò của thuộc địa trong hệ thống chủ
nghĩa tư bản thế giới, tiềm năng cách mạng của nhân dân thuộc địa và được thực
tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh là hồn tồn đúng đắn.
Ba, Hồ Chí Minh có những sáng tạo trong nhận thức về CNXH và con
đ­ường quá độ lên CNXH ở một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, thể hiện tập trung ở các nội dung: Chủ nghĩa cộng sản thích ứng
ở châu Á, dễ hơn ở châu Âu; tiếp cận tổng hợp các nhân tố kinh tế, chính trị, xã
hội, đạo đức, văn hóa về tính tất yếu và bản chất đặc tr­ưng của CNXH; quan
điểm xác định mục tiêu, động lực, các lực cản trong quá trình phát triển của
CNXH; xác định loại hình quá độ, nội dung, bước đi và hệ thống các biện pháp
tiến hành xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Bốn, Hồ Chí Minh đã nêu những luận điểm mới mẻ, đầy sáng tạo về Đảng
và xây dựng Đảng, thể hiện tập trung ở ba nội dung quan trọng nhất: Quy luật
hình thành Đảng Cộng sản; bản chất của Đảng trong điều kiện một nước nông
nghiệp lạc hậu; xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền. Ở mỗi nội dung, Hồ Chí
Minh đều có các phát kiến lý luận, làm phong phú và phát triển học thuyết Mác Lênin về Đảng vơ sản, hồn tồn phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, có
giá trị sâu sắc cho công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Năm, trong tổ chức, tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh đã có các quan điểm
sáng tạo về chiến lược đại đồn kết dân tộc theo phương châm: “Đoàn kết, đoàn
kết, đại đồn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Với Hồ Chí Minh,
đại đồn kết dân tộc đã được nâng lên một tầm cao mới về chất: Đại đoàn kết có
tổ chức, có lãnh đạo. Chiến lược đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một
cống hiến to lớn vào kho tàng kinh nghiệm của cách mạng thế giới.
Sáu, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến sáng tạo về t­ư tư­ởng quân sự,
đặt nền móng cho sự hình thành học thuyết quân sự cách mạng Việt Nam hiện

đại. Đó là tư tưởng dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng;
về khởi nghĩa vũ trang toàn dân; về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
9


kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; về quốc
phịng tồn dân và chiến lược bảo vệ Tổ quốc; về nghệ thuật quân sự chủ động
tiến công, kết hợp chặt chẽ lực, thế, thời, mưu, đánh địch bằng mọi lực lượng,
mọi quy mô, mọi cách, mọi địa hình, đánh vào lịng người, kết hợp tác chiến với
binh vận, địch vận.
Bảy, ở Hồ Chí Minh hình thành và phát triển một hệ thống các quan điểm
sáng tạo về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đó là quan niệm về Nhà nước của
dân, do dân, vì dân; về sự thống nhất bản chất giai cấp cơng nhân với tính nhân
dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; về Nhà nước pháp quyền, kết hợp cả “đức
trị” và “pháp trị” trong quản lý xã hội, lãnh đạo đất nước.
Tám, Hồ Chí Minh có những luận điểm mới, đầy sáng tạo về vai trò, sức
mạnh của văn hoá, đạo đức, coi đạo đức, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự nghiệp cách mạng; đặc biệt chú ý đến vấn đề con người, tất cả vì con
người, do con người. Ln ln coi trọng vai trò của nhân tố con người, coi sự
nghiệp “trồng người” là nhiệm vụ chiến lược, vấn đề có tính quy luật, quyết định
sự thành bại của cách mạng...
Những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh nêu trên là những sáng tạo nổi
bật và là những đóng góp không những đối với lý luận cách mạng Việt Nam mà
cịn đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng thế giới. Vì thế, khơng chỉ dựa
vào chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn phải dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh mới có
khả năng tìm thấy câu trả lời cho nhiều vấn đề phát triển có tính quy luật của
cách mạng Việt Nam. Đây chính là cơ sở khoa học, cắt nghĩa một cách không
thể chối cãi kết luận của Đảng Cộng sản Việt Nam: Cùng với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của
Đảng và dân tộc Việt Nam, tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc, mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.


10


II.

Hồ Chí Minh – Người anh hùng giải phóng dân tộc

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, độc lập dân tộc là mục tiêu xuyên
suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể
thấy, trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, từ năm 1911, với “ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, Hồ Chí Minh đã tham
gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức
cũng như tham gia phong trào của giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Bằng
con đường lao động, Người làm đủ mọi nghề, đi qua nhiều vùng đất khác nhau
và thực hiện nhiều hoạt động khác nhau như: tham gia sinh hoạt của cơng nhân,
thợ thuyền, tiếp xúc với báo chí, lập hội, viết báo, viết sách phản ánh về nỗi
thống khổ của nhân dân Việt Nam, nhân dân các dân tộc thuộc địa, tố cáo tội ác
của thực dân, đế quốc. Thực tiễn này đã giúp Người nhận rõ bản chất của chủ
nghĩa tư bản và thực dân, cũng như hình thành ở Người tình hữu ái giai cấp đối
với những người cùng khổ. Cũng chính thực tiễn ấy đã đem lại cho Người
những kết luận quan trọng, tác động sâu sắc đến tư tưởng, quan điểm của Người.
Đó là, ở đâu đế quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những
quan hệ phi nhân tính, ở đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là
bạn bè, anh em, đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, chủ động đấu
tranh, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Bước ngoặt lớn nhất trên con đường bơn ba đi tìm đường cứu nước của Hồ
Chí Minh là khi Người đọc được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa, làm Người sung sướng đến chừng nào vì đã tìm thấy “đây

là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận ra con đường cứu nước duy nhất, đúng đắn nhất là
con đường cách mạng vơ sản, đó là sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với
chủ nghĩa quốc tế chân chính, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
11


Từ đó, Người mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
đồng thời cũng mở ra con đường giải phóng cho tất cả các dân tộc bị áp bức trên
thế giới. Không chỉ kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cịn góp phần phát triển học
thuyết của V.I.Lênin về cách mạng thuộc địa, làm sáng tỏ mối quan hệ khăng
khít giữa cách mạng vơ sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa; đưa ra luận điểm về tính chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa và khẳng định sự nghiệp đấu tranh giải phóng của nhân dân thuộc
địa chỉ có thể thực hiện được bằng nỗ lực của bản thân các nước thuộc địa. Hơn
thế nữa, ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà cịn có
thể tiến hành trước, và thắng lợi của nó sẽ “giúp đỡ những người anh em mình ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”.
Đối với cách mạng Việt Nam, điều quan trọng nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trước hết phải có Đảng. Cách mạng có Đảng lãnh đạo như tầu có lái mới
vượt qua phong ba bão táp, “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có
bàn chỉ nam”. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới cơng tác xây
dựng Đảng, yêu cầu Đảng phải vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn ở nước

ta, phải thường xuyên xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, chính trị, tư tưởng
và đạo đức, xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh, giữ gìn sự đồn kết nhất
trí trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Cùng với xây dựng và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn hết sức coi trọng việc xây dựng khối đại đồn kết
tồn dân tộc vì đồn kết là sức mạnh. Ngay sau Hội nghị Trung ương lần thứ
12


tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Trong lúc
này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại
đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nịi ra khỏi nước sơi lửa
nóng… Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai
gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của,
người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem
hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy
sinh tính mệnh cũng khơng nề”.
Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất
được thành lập. Đó là khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc, tạo ra sức mạnh vơ
địch vượt qua mọi khó khăn thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng” .
Đây chính là tư tưởng chiến lược xuyên suốt quá trình cách mạng Việt
Nam, là động lực và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và Tổ quốc. Tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt
Nam, ngày 03/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Nhờ sức
đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được
độc lập… Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ
lấy nền độc lập càng cần đồn kết hơn nữa” .
Khơng chỉ tập trung xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh cịn chú ý xây dựng lực lượng vũ trang. Ngày 22/12/1944, đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt
Nam) được thành lập. Dưới sự lãnh đạo và rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, từ những đơn vị tự vệ ban đầu, Quân đội nhân dân Việt Nam đã từng
bước được hoàn thiện, lớn mạnh và trưởng thành, để hoàn thành vẻ vang mọi
nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu qua các thời kỳ cách mạng, giữ vững lý tưởng
như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu
13


với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
với sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc và một lực lượng Quân đội tinh
nhuệ, dân tộc Việt Nam đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà
trước hết phải kể đến là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày
2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Nhà nước cơng
nơng đầu tiên ở Đơng Nam Châu Á, khẳng định vị trí của Việt Nam trên bản đồ
thế giới, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân
tộc và tự do, sánh vai cùng các dân tộc đấu tranh không mệt mỏi cho một xã hội
công bằng, tiến bộ, văn minh.
Trong những năm tiếp theo, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi vẻ vang trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Pháp, làm sụp đổ chủ nghĩa
thực dân kiểu cũ và kiểu mới để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Có thể
nói, những thắng lợi này đã khẳng định và đưa tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đi vào lịch sử cách mạng thế giới như là người khởi xướng cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trong thế kỷ XX.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn hết lịng, hết sức xây dựng sự
đồn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên cơ sở chủ nghĩa MácLênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, khơng ngừng vun đắp quan hệ
gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương, các nước láng giềng, cống hiến
xuất sắc cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cộng sản và phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới. Năm 1990, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã tơn vinh Người là Anh hùng giải phóng dân
tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất là bởi Người là “biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng
14


định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Sự nghiệp và những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ
cịn tiếp tục được nhân dân Việt Nam và bạn bè thế giới ngưỡng mộ và tôn vinh
trong nhiều năm sau nữa, như lời nhận xét của Chủ tịch danh dự Hội đồng hịa
bình thế giới, ơng Romesh Chandra trong bài tham luận tại cuộc Hội thảo quốc
tế Việt Nam trong thế kỷ XX, được tổ chức tại Hà Nội, năm 2001: “Trong nửa
sau thế kỷ XX, có một từ đã xuất hiện trong tiếng nói của những người bảo vệ
và kiến tạo hịa bình trên thế giới, một từ mà cùng một lúc mang rất nhiều ý
nghĩa: đấu tranh, dũng cảm, anh hùng; và nó cịn có ý nghĩa là chiến thắng, độc
lập, tự do.
Từ đó là Việt Nam.
Và có một cái tên đã luôn gắn liền với từ này - từ chỉ tên của một đất nước.
Đó là Hồ Chí Minh. Người là niềm cảm hứng cho cuộc đấu tranh bất khuất của
dân tộc mình, và cũng là nguồn cảm hứng cho tất cả các dân tộc đang đấu tranh
cho những điều tốt đẹp nhất của nhân loại”.

III.


Nhà văn hóa kiệt xuất – Hồ Chí Minh

“Sự nghiệp văn hóa lớn nhất, quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là đã tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn và lãnh đạo thành cơng sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Sự
nghiệp giải phóng dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đem lại địa vị
xứng đáng cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Khơng chỉ vậy, sự nghiệp này
cịn có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hóa thế giới, đã chỉ ra cho nhân dân các
nước thuộc địa con đường đứng lên đập tan xiềng xích nơ lệ, giành độc lập, tự

15


do cho đất nước mình, từ đó góp phần vào việc xóa bỏ chế độ thuộc địa trên thế
giới”.
Có thể nói, ở Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng dân tộc luôn song hành
với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới, thắng lợi của sự nghiệp giải phóng
dân tộc Việt Nam không tách rời công cuộc xây dựng nền văn hóa mới Việt
Nam. Chính vì vậy, thật khó để tách rời Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân
tộc và Hồ Chí Minh, Nhà văn hóa kiệt xuất. Trong q trình đấu tranh giải
phóng dân tộc, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức được vai trị quan
trọng của văn hóa đối với cơng cuộc xây dựng và kiến thiết nước nhà. Người chỉ
rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, ngay trong lúc bộn bề của
những công việc cấp bách trong những ngày đầu thành lập nước, Hồ Chí Minh
vẫn chú trọng xây dựng một nền văn hóa mới, có nội dung cách mạng, vì hạnh
phúc của nhân dân. Tại Lễ khai mạc Hội nghị văn hóa tồn quốc lần thứ nhất,
ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nền văn hóa mới của Việt
Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học lấy
những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngồi, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao
cho văn hóa mới phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải

làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”. Ngay bản thân Người, trong q
trình bơn ba đi tìm đường cứu nước, Người cũng đã hấp thu mọi tinh hoa văn
hóa phương Đơng và phương Tây, đặc biệt là tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái
của truyền thống văn hóa Pháp. Người trân trọng mọi giá trị văn hóa nhân loại,
tơn trọng và chấp nhận những giá trị khác biệt với sự lựa chọn của mình. Với
tấm lịng rộng mở, khoan dung và nhân hịa, Hồ Chí Minh đã tìm thấy điểm gặp
gỡ và giao thoa giữa các nền văn hóa, giữa các tơn giáo, các học thuyết chính trị,
các vị lãnh tụ, các chính khách lớn để tìm ra một phong cách ứng xử, một nhân
cách văn hóa rất Hồ Chí Minh, rất Việt Nam.
Với tư cách là danh nhân văn hóa, Hồ Chí Minh đã góp phần khơng chỉ tạo
ra một chế độ mới, một thời đại mới mà còn tạo ra một nền văn hóa mới trong
16


lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, góp phần to lớn vào sự phát triển chung
của văn hóa nhân loại.
Bằng tư tưởng và tấm gương sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy tiềm
năng truyền thống văn hóa Việt Nam, Người phát động phong trào xây dựng đời
sống mới, để xây dựng một nền đạo đức mới, con người mới; chống những thói
quen xấu và hủ tục lạc hậu; phát triển những thuần phong, mỹ tục mới trong
nhân dân. Bên cạnh đó, những chủ trương văn hóa đi trước thời đại của Người
như: xóa nạn mù chữ, trồng người, trồng cây, gây rừng, bảo vệ môi trường sinh
thái… hiện đã và đang được Liên hợp quốc đề xuất thành các cuộc vận động lớn
trên toàn thế giới. Hồ Chí Minh rõ ràng đã thúc đẩy và nâng dân tộc Việt Nam
lên một tầm cao mới.
Hơn 30 năm bơn ba tìm đường cứu nước, được tiếp xúc với nhiều nền văn
hóa lớn trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận thức sâu sắc rằng ngơn
ngữ chính là chìa khóa để mở cánh cửa tiếp cận với văn minh. Bản thân Người
là tấm gương không ngừng học hỏi và tiếp cận với các ngôn ngữ trên thế giới.
Khi sống, làm việc ở nước Pháp, một trung tâm văn hóa của châu Âu, Hồ Chí

Minh đã học và sử dụng thành thạo tiếng Pháp để có thể tiếp cận những dòng
chảy của tư tưởng dân chủ, tinh hoa của nền triết học ánh sáng với những tên
tuổi lớn như: Voltaire, Rousseau... Khi đến với đất nước của Lênin vĩ đại, Người
lại cần mẫn học tiếng Nga để có thể thâm nhập, nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa
Nga, về những di huấn, nghiên cứu của Lênin về cách mạng và con đường giải
phóng cho những dân tộc bị áp bức, bóc lột. Và trong thời gian ở bị giam cầm ở
Quảng Châu, Trung Quốc, những vần thơ viết bằng chữ Hán (tập thơ Nhật ký
trong tù) của Người là những tác phẩm có thể xếp ngang hàng với những bài thơ
của các thi nhân đời Đường, đời Tống của Trung Quốc.
Không chỉ là nhà thơ, với những vần thơ khi thì sắc bén, mang đậm tính
cách mạng, khi là những câu viết thể hiện chất trữ tình đằm thắm và một tâm
hồn lạc quan, tươi sáng nhưng ẩn chứa trong đó là một tấm lịng ln canh cánh
17


nỗi niềm lo âu cho vận mệnh nước nhà, Người cịn là nhà văn, nhà báo cách
mạng vĩ đại. Chính Hồ Chí Minh là người đã khai sáng ra nền văn học cách
mạng, dùng ngịi bút làm vũ khí tun truyền cho cách mạng. Ngay khi mới
sang Pháp, tác phẩm Con rồng tre và các truyện Vi hành, Những lời than vãn
của bà Trưng Trắc đã góp phần đả kích và phơi bày sự thật về chuyến đi của vua
bù nhìn Khải Định, khi ơng ta sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa tại Marseille
(tháng 6-1922). Sau này, với những bài viết thuộc nhiều thể loại khác nhau đăng
trên các báo như L’Humanité (Nhân đạo), La vie Ouvrière (Đời sống cơng
nhân), La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản), Pravda (Sự thật)... trong
những năm tháng sống và hoạt động ở nước ngoài cũng như những bài viết đăng
trên các báo Nhân dân, Cứu quốc... Khi ở cương vị là Chủ tịch nước, cùng
những tờ báo do Người sáng lập như Le Paria (1922), Thanh niên (1925), Việt
Nam Độc lập (1941)… đã góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong
trào công nhân các thuộc địa, thức tỉnh phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
của các dân tộc bị áp bức, lên án chủ nghĩa thực dân, chỉ đạo phong trào cách

mạng ở thuộc địa, giáo dục về chủ nghĩa xã hội, xây dựng kinh tế, bồi dưỡng
con người mới...
Tổ chức UNESCO đã đánh giá: “Những đóng góp quan trọng và nhiều mặt
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật
chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt
Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các
dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.
Trải qua thời gian, thực tiễn lịch sử càng ngày chứng minh rằng, Hồ Chí
Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ kết tinh
những thành tựu của quá khứ, khơng chỉ thể hiện đỉnh cao của trí tuệ và tâm hồn
thời đại mà còn là những phẩm chất tiêu biểu cho nền văn hóa tương lai, đúng
như nhận xét tài tình của nhà thơ Liên Xơ Osip Emilyevich Mandelstam: “Từ
18


Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, khơng phải văn hóa Âu châu, mà có
lẽ là nền văn hóa tương lai… Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm
của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh
mênh mông của tình hữu ái tồn thế giới”.

IV.

Bài học rút ra.

Một trăm mười năm đã trôi qua kể từ ngày người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân (05/06/1911 –
05/06/2021), ý nghĩa đặc biệt quan trọng của sự kiện này vẫn còn nguyên giá trị,
mang tính thời sự sâu sắc và để lại nhiều bài học quý báu, truyền cảm hứng cho
thế hệ trẻ Việt Nam hơm nay và mai sau.

Trước hết, đó là bài học về lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập
dân tộc và phát triển đất nước. Nguyễn Tất Thành lớn lên trong hồn cảnh đất
nước chìm đắm trong đêm trường nô lệ của thực dân Pháp. Từ thuở ấu thơ đến
khi trưởng thành, Nguyễn Tất Thành đã trực tiếp chứng kiến ách thống trị dã
man của thực dân phong kiến đối với nhân dân, đồng thời cũng chứng kiến
phong trào yêu nước bất khuất của nhân dân ta chống lại bọn cướp nước và bán
nước. Thực tiễn lịch sử bi hùng đó cùng với sự giao dục của gia đình về truyền
thống đấu tranh anh dũng, về truyền thống đạo lý nhân ái của dân tộc, đã hình
thành nên nhân cách lớn ở người thành niên Nguyễn Tất Thành giàu lịng u
nước thương dân. Chính tình u q hương, đất nước, nhân dân đã thôi thúc
Nguyễn Tất Thành lịng quyết tâm tìm con đường cứu nước, cứu dân. Lòng yêu
nước, thương dân, khát vọng độc lập của Người luôn soi đường cho các thế hệ
thanh niên Việt Nam. Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, với tình yêu Tổ quốc cao cả, thanh niên Việt Nam sẵn sàng chiến đấu,
hy sinh vì Tổ quốc, quên mình nơi chiến trường để đem lại độc lập dân tộc.
Ngày nay, tình yêu quê hưởng đất nước được thể hiện ở thanh niên Việt Nam
19


bằng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tin tưởng vào
Đảng và nhà nước, kiện định đi theo con đường mà Bác đã chọn.
Thứ hai là bài học về sự mạnh dạn tìm hướng đi mới, đột phá và khác biệt.
Trong lúc ở nước ta và một số nước xung quanh, nhiều người có chí cứu nước,
đặt niềm tin vào con đường cách mạng dân chủ tư sản, thì Nguyễn Tất Thành
quyết định tìm con đường cứu nước riêng cho dân tộc, dù ban đầu Người vẫn
chưa hình dung con đường ấy ra sao, đi như nào. Bằng lao động và hịa mình
vào dịng chảy của các sự kiện trên thế giới, với trí tuệ thiên tài của mình, Người
đã tiếp thu, chắt lọc những giá trị chung và mới của nhân loại để tìm ra con
đ­ường cứu nư­ớc, cứu dân phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nư­ớc nhà, với sự
vận động, xu thế phát triển của lịch sử loài người. Học theo tinh thần đó, thanh

niên là những người có sức trẻ nhiệt huyết nhất, mang trong mình nhiều ước mơ,
hồi bão nhất, vì vậy cần thực sự chủ động, sáng tạo trong các hoạt động của
bản than và cộng đồng, cùng với đó là các ý tưởng, giải pháp, cơng trình nghiên
cứu nhằm góp phần nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, phát triển kinh tế đất
nước.
Thứ ba, kết hợp tiến bộ của nhân loại với những giá trị truyền thống cốt lõi
của dân tộc. Trong hành trình đi ra n­ước ngoài để “xem xét họ làm thế nào”
nhằm “trở về giúp đồng bào chúng ta”, suốt 30 năm rời xa Tổ quốc, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đi nhiều châu
lục, học tập, nghiên cứu, khảo sát, chọn lọc, tiếp thu những giá trị văn hóa, văn
minh của nhân loại và thông qua thực tiễn các cuộc đấu tranh cách mạng ở nhiều
nước để nâng cao trí tuệ, mở rộng tầm nhìn, tìm ra con đ­ường giải phóng dân
tộc, hư­ớng tới mục tiêu giải phóng con người. Với thế giới quan khoa học và
cách mạng, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn
đấu tranh giải phóng dân tộc, thực tiễn cách mạng Việt Nam phù hợp với quy
luật, xu thế phát triển của lịch sử nhân loại. Trong bối cảnh hội nhập ngày nay,
thanh niên có điều kiện thuận lợi để tiếp thu những giá trị tiến bộ, tinh hoa của
20


nhân loại, tuy nhiên, việc tiếp thu phải có chọn lọc trên nền tảng giá trị truyền
thống cốt lõi để làm giàu thêm bản sắc dân tộc, để chúng ta hịa nhập chứ khơng
hịa tan.
Thứ tư, nghị lực và rèn luyện ý chí quyết tâm, bản lĩnh, nỗ lực, phấn đấu
không ngừng và không được tự mãn. 30 năm gian khổ nhưng Bác chưa bao giờ
có ý định bỏ cuộc, luôn nỗ lực, quyết tâm, cố gắng không ngừng nghỉ, một lịng
vì tổ quốc, vì nhân dân. Noi gương Bác, thanh niên ngày nay phải ln có ý thức
tự rèn thái độ sống đúng đắn, ý chí, nghị lực vươn lên, vượt khó sáng tạo. Xã hội
phát triển địi hỏi thanh niên phải luôn trau dồi tri thức, sức khỏe, kỹ năng, phải
ln có khát vọng vươn tới những tầm cao, nếu thỏa mãn với hiện tại, sẽ sớm bị

tụt hậu.
Thứ năm, bài học về tinh thần tự học, học tập suốt đời. Trong hành trình đi
tìm đường cứu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất đã đi đến nhiều
quốc gia, nhiều châu lục. Dù ở đâu, Người cũng tìm mọi cách để học tập và tự
tìm hiểu để nâng cao tri thức, để kiếm sống và để hoạt động cách mạng. Người
từng làm rất nhiều nghề khác nhau, tự học rất nhiều thứ tiếng. Nhờ đó, Người đã
đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa” của V.I. Lenin, tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc. Hiện
nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra yêu cầu, đòi hỏi thanh niên
phải tự nâng cao năng lực để chủ động tham gia, nắm bắt và tận dụng tối đa cơ
hội trở thành những công dân tồn cầu, góp phần tạo nền tảng vững chắc cho
các bước phát triển nhảy vọt của đất nước.
Thứ sáu, bài học về việc chăm lo cho thế hệ tương lai. Nguyễn Ái Quốc
luôn đặc biệt coi trọng và đánh giá cao vai trò của thanh niên. Người đã lựa chọn
đối tượng đầu tiên để truyền bá tư tưởng cách mạng vào Việt Nam là thanh niên.
Cũng chính Người đã sáng lập ra các tổ chức của thanh niên, thiếu niên, nhi
đồng yêu nước, để giáo dục, đoàn kết tập hợp các đối tượng này. Thanh niên là
thế hệ tương lai của đất nước, là những người sẽ tiếp nối sự nghiệp của ông cha,
21


thực hiện những kế hoạch còn dang dở, đưa đất nước ngày một phát triển để
sánh vai với các cường quốc năm châu.

KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta, người thầy
vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn
hóa thế giới. Mỗi thắng lợi và mỗi bước đi lên của cách mạng Việt Nam đều gắn
liền với công lao to lớn của Người, sự soi đường, dẫn dắt của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ghi lịng, tạc dạ cơng ơn của Người, tồn Đảng, toàn dân, toàn quân ta

tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
nguyện kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp vĩ đại của Người, xây dựng đất
nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự
nghiệp của chúng ta!
Thành tựu của 35 đổi mới đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta
dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Nhờ
đó, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kỷ niệm
130 năm Ngày sinh của Người, trong tấm lòng và trái tim mỗi người dân Việt
Nam đều nhớ về Người với tấm lòng thành kính và biết ơn vơ hạn, nguyện
khơng ngừng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng (2019) – Bộ giao dục và đào tạo
2. Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (2018)
– Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia
3. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2002) – Nhà xuất bản Đại Học Quốc
gia Hà Nội.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh (2002) – Nhà xuất bản Đại Học Quốc gia Hà
Nội
5. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (2014) –
Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia
6. />7. />8. />&id=18892&Itemid=127

23



9. />10. />11. />12. />13. />14. />
24



×