ĐẠI HỌC Qưoc GIA THANH PHO HO CHI MINH
TRƯỜNG ĐAI HOC KINH TẾ - LƯÀT
LÊ THỊ HUYỀN TRANG
THỤC HIỆN NGHĨA vụ TÀI SẢN
DO NGƯỜI CHÉT ĐẺ LẠI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẢT VIÊT NAM
Ngành: Luật dân sự và tô tụng dân sự
Mã số: 8380103
LUẬN VÀN THẠC sĩ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẢN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ MINH HỪNG
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn vê đê tài “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại theo quy định của pháp luật Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Lê Minh Hùng trong thời gian qua. Các kết quả nghiên
cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiếu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ
nghiên cứu nào khác./.
Tác giả
Lê Thị Huyền Trang
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
Trang
1.1.1............................................................................................................................
1.1. Chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do ngưòi chết để lại
.........................................................................................................................................18
1.2.1.................................................................................................................................
1.2.2...............................................................................................................................
1.2.3. TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
1.2.4. PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
1.2.5. Kinh tế Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn mở rộng cua chu kỳ tăng
trưởng, là giai đoạn mà nền kinh tế phục hồi và phát triển sơi động. Cùng với đó, tài sản
của thành viên trong xã hội cũng được tăng lên đáng kể cả về số lượng và chất lượng.
Từ đó xuất hiện nhiều hơn những quan hệ tài sản, trong đó thừa kế cũng khơng phái là
ngoại lệ.
1.2.6. Trong pháp luật dân sự, vấn đề thừa kế luôn là vấn đề phức tạp do xung
đột quyền lợi của các bên và xuất phát từ đặc trung là các bên tham gia quan hệ này
thường có quan hệ huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dường. Chế định thừa kế là một chế
định quan trọng trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam từ Pháp lệnh
thừa kế năm 1990 đến Bộ luật dân sự năm 2005 và mới đây nhất là Bộ luật dân sự năm
2015.
1.2.7. Đây là vấn đề phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, mặt khác lại ảnh hưởng
tới mối quan hệ giữa nhũng người có huyết thống, gây nhiều khó khăn cho các chủ thể
tham gia vào giao dịch cũng như cho cơ quan tố tụng trong việc giải quyết.
1.2.8. về cơ bản, chế định thừa kế trả lời và giải quyết hai câu hỏi lớn, đó là: tài
sản thừa kế của người chết để lại thuộc về ai và nghĩa vụ mà họ để lại sẽ đồng thời chấm
dứt hay tiếp tục được thực hiện, cách thức và thù tục thực hiện hai vấn đề trên như thế
nào. Trên thực tế, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề lớn thứ nhất
trong khi vấn đề thứ hai lại ít được đề cập đến. Mặc dù pháp luật Việt Nam quy định khá
cụ thể về những vấn đề xoay quanh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản di người chết để lại,
tuy nhiên thực tiễn vẫn còn tồn tại một số vướng mắc trong quá trình áp dụng. Việc đi
sâu phân tích vấn đề này sẽ góp phần làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản về mặt lý
thuyết cũng như trong thực tiễn.
1.2.9. Do đó, là một người nghiên cứu, là người đang công tác tại cơ quan tiến
hành tố tụng, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
theo quy định của pháp luật Việt Nam ” là đế đi sâu làm rõ những vấn đề cơ bản vê di
7
sản thừa kê cũng như những quy định vê việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Bên cạnh đó,
tác giả sẽ có một vài bình luận về việc áp dụng pháp luật trên thực tế. Bình luận chi dựa
trên ý kiến cá nhân của tác giả là chính, do đó tác giả rất mong nhận được sự góp ý (nếu
có).
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
1.2.10.
Trong thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và
khoa học pháp lý nói riêng ở nước ta đã có nhiều sự quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề
thừa kế. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu tác giả thấy rằng vấn đề này đã được đề
cập, trình bày và phân tích trong một số sách chuyên khảo, luận văn thạc sỹ luật học và
bài viết trên các tạp chí, trong đó có thể kể đến một số các tài liệu như sau:
1.2.11.
Sách chuyên kháo, giáo trình
1.2.12.
+ Lê Minh Hùng (2019), Pháp luật về tài sân, quyền sở hữu và thừa
kế, Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung cơ bản
của giáo trình là khái quát về quyền tài sản, khái luận về quyền thừa kế, thừa kể theo di
chúc, thừa kế theo pháp luật, thanh toán nghĩa vụ và phân chia di sản. Như vậy, giáo
trình cũng có đề cập đến thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, đưa ra những
khái luận cơ bản liên quan đến nguyên tắc thực hiện, căn cứ thanh toán nghĩa vụ tài sản,
chủ thể và thứ tự ưu tiên thanh toán. Tuy nhiên giáo trình chỉ mang tính khái qt, cơ
bản để người đọc dễ tiếp cận mà chưa phân tích một cách chuyên sâu.
1.2.13.
+ Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật
dân sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội. Với tài liệu chuyên khảo trên đây, các tác giả đã phân tích, nghiên cứu
những điếm mới cúa Bộ luật dân sự năm 2015 với mục đích phố biến các quy định mới,
cung cấp cho người đọc sự nhìn nhận một cách tổng quan và sâu hơn về các quy định
của pháp luật dân sự, đồng thời cũng đưa ra những đánh giá về ưu, nhược điếm của các
quy định mới trong Bộ luật dân sự năm 2015. Ngồi ra, tác giả cịn lồng ghép sự bình
luận, phân tích về sự thay đồi giữa Bộ luật dân sự năm 2005 và 2015. Vấn đề liên quan
đến thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại cũng được tác giả nhăc đên. Tuy
8
nhiên, vân đê này chưa thực sự được nghiên cứu, phân tích chun sâu, có hệ thống.
1.2.14.
+ Đồ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học - Những điểm mới của Bộ
luật dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí
Minh. Tương tự như tài liệu chuyên khảo trên, tác giả chỉ đánh giá về mặt tồng quan đối
với Bộ luật dân sự năm 2015, chưa nghiên cứu tập trung vào vấn đề cụ thể, nhất là đối
với thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết đề lại.
1.2.15.
+ Đồ Văn Đại (2009), Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và Bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Tương tự
như tài liệu chuyên khảo trên, tác giả cũng đã nghiên cứu xoay quanh những vấn đề liên
quan đến thừa kế cũng như thực tiễn xét xử, từ đó đưa ra những bản án và bình luận bản
án; tập hợp, phân tích, bình luận những quyết định, bản án của Tòa án. Tổng thể các
chuyên đề trong cuốn sách tập trung vào 04 mảng lớn của thừa kế trong đó có chuyên đề
nghiên cứu về thanh toán và phân chia di sản.
1.2.16.
+ Trương Hồng Quang (2016), Điểm mới về thừa kế trong Bộ luật dân
sự năm 2015 và những tình huống thực tế, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội. Tài
liệu tập trung nghiên cứu những điểm mới về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 từ đó
lồng ghép những tình huống thực tế thường phát sinh trong đời sống thực tế nhằm đem
đến đọc giả những hiếu biết chung và dễ dàng vận dụng trong đời sống thường ngày.
Tuy nhiên để đi sâu phân tích khoa học về vấn đề thực hiện nghĩa vụ tài sản, và những
điểm bất cập có liên quan đến vấn đề này thì vẫn chưa được làm rõ.
1.2.17.
Luận văn thạc sỹ
1.2.18.
+ Phạm Tuấn Anh (2008), Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại theo Bộ luật dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học quốc
gia Hà Nội. Đây là cơng trình nghiên cứu có hệ thống về cơ sở lý luận, pháp luật Việt
Nam liên quan đến thực hiện nghĩa vụ tài sán do người chết đề lại và thực trạng của việc
áp dụng các quy định pháp luật vào thực tiễn để từ đó phân tích, nhận định pháp luật,
đưa ra những kiên nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề này. Tuy nhiên, luận văn nghiên cứu vào thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005
9
đang có hiệu lực, chưa có Bộ luật dân sự năm 2015 thay thế.
1.2.19.
+ Nguyễn Hồng Nam (2008), Điều kiện có hiệu lực của dì chúc, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đề cập đến những
điều kiện để di chúc có hiệu lực, trong đó có nhắc đến việc thực hiện nghĩa vụ tài sản.
1.2.20.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên chỉ nghiên cứu các vấn
đề xoay quanh thừa kế, nhưng khơng đi sâu tìm hiểu về thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết đề lại theo quy định cúa Bộ luật dân sự năm 2015. Mặc dù có một bài luận
liên quan trực tiếp đến vấn đề này, nhung lại áp dụng đối với Bộ luật dân sự năm 2005.
Hơn thế nữa, cách tác giả đi vào làm rõ những vấn đề lý luận có sự khác biệt so với luận
văn nêu trên. Hầu hết, những nội dung liên quan đến thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại vẫn chưa được quan tâm sâu sắc vì trên thực tế, vấn đề khơng xảy ra nhiều cả
trong thực tế tranh chấp lẫn trong nghiên cứu. Xuất phát từ đó, luận văn góp phần làm rõ
hơn về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại và một số bất cập khi áp dụng vào
thực tiễn, từ đó đưa ra một sổ kiến nghị nhằm hồn thiện quy định của pháp luật.
3.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
1.2.21.
Việtđịnh
Nam
liên
quan
Mục
đến
đích
vấn
nghiên
đề dẫn
về
cứu
thực
của
hiện
tác
nghĩa
giả
là
vụ
nghiên
tài
sản
cứuchiếu
do
một
người
cách
tồn
để
diện,
lại,
hệ
trong
thống
đó2005,
các
chủquy
yếu
định
tập
trung
của
pháp
nghiên
luật
cứu
dân
các
sự
quy
chun
ngành
trong
và
Bộ
văn
luật
bản
dân
hướng
sự
năm
2015,
thi
hành.
soquan
sánh
Từ đến
đó
với
có
các
sự thực
quy
đối
định
trong
vớichết
thực
Bộ
tiễn
dân
xét
sự
xử
năm
tại
Tịa
án,
các
đặc
văn
biệt
bản
pháp
khai
luật
thác
sâu
thực
trạng
giải
quyết
các
tranh
chấp
liên
việc
hiện
nghĩa
vụluật
tài
sản
thừa
kế
trong
thực
tế
hiện
nay.
1.2.22.
Tác giả thực hiện việc so sánh pháp luật, nhận định, phân tích những
bât cập, khơng thống nhất giữa các quy định trong văn bản pháp luật và thực tiễn áp
dụng, đưa ra những kiến nghị, đề xuất hướng khắc phục nhằm góp phần hồn thiện quy
định pháp luật dân sự Việt Nam liên quan đến đề tài mà tác giả nghiên cứu.
4.
4.1.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
1.2.23.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật
Việt Nam và thực tiễn áp dụng khi giải quyết các trường hợp liên quan đến việc thực
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao
gồm: chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản, di sản dùng để thực hiện tài sản, những chủ thể
có nghĩa vụ liên quan và những vấn đề xoay quanh nghĩa vụ tài sản khác.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.2.24.
Thừa kế là một vấn đề lớn và khá phức tạp. Trong phạm vi luận văn
thạc sĩ, tác giả chì đề cập đến một mặt trong một vấn đề rộng lớn đó. Luận văn đi vào
phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận co bản của thừa kế và việc chuyển giao
nghĩa vụ tài sản của người chết. Kết hợp với việc phân tích các quy định của luật hiện
hành cùng với việc đánh giá thực tiền giải quyết tranh chấp từ đó đưa ra một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật. Do luận văn phục vụ cho vấn đề ứng dụng nên ngoài căn cứ
lý thuyết còn được viện dẫn dựa trên các sự việc, bản án có thực để tạo tính thuyết phục
về nội dung và quan điểm sửa đổi, bổ sung.
1.2.25.
Đề tài không nghiên cứu so sánh với pháp luật của các nước. Đe tài
giới hạn nghiên cứu trong lĩnh vực thừa kế theo hệ thống pháp luật Việt Nam.
5.
Phuong pháp nghiên cứu
1.2.26.
Đế nghiên cứu luận văn được xuyên suốt đúng với mục đích và phạm
vi đã đặt ra, trong q trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp, cụ thể:
1.2.27.
Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích để làm rõ các khái
niệm, cơ sở lý luận, quy định cúa pháp luật, ý nghĩa, phương pháp thực hiện nghĩa vụ tài
sản, những vân đê vê thừa kê, sử dụng phương pháp lịch sử đê so sánh giữa BLDS 2005
và BLDS 2015. Mặt khác, tác giả còn sử dụng phương pháp chứng minh, tổng hợp
nhằm chứng minh cho các luận điểm được đưa ra và tổng hợp các luận điểm đó.
1.2.28.
Chưong 2, ngồi phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, tác giả
sử dụng thêm phương pháp bình luận bản án để làm nổi bật lên thực tiễn xét xử của Tòa
án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết đế lại trong thực tế hiện nay. Từ đó đưa ra những bất cập cũng như kiến nghị hoàn
thiện.
1.2.29.
Ngoài ra, tại phần kết luận của từng mục và kết luận chương, phương
pháp tồng hợp được vận dụng đề khái quát những vấn đề pháp lý tác giả phân tích.
6.
Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chi ứng dụng các kết quả nghiên
cứu
1.2.30.
Đề tài nghiên cứu đều dựa trên tình hình hiện tại của xã hội, khi các
tranh chấp về thừa kế ngày càng phức tạp. Vì vậy, đây sẽ là một cơng trình có thể giải
quyết được các vướng mắc như cách xác định phần di sản thừa kế, các trường hợp buộc
phải thực hiện nghĩa vụ tài sàn cũng như hậu quá pháp lý cua nó, đối tượng chịu trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ. Trong cơng trình nghiên cứu của mình, tác giả cịn đi sâu
phân tích những bất cập, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật nên đề tài cịn có giá
trị tham khảo trong quá trình thi hành tại các cơ quan nhà nước và góp phần hồn thiện
những quy định của pháp luật trong giai đoạn Bộ luật dân sự mới sửa đổi, bổ sung cần
ban hành văn bản hướng dẫn thi hành.
1.2.31.
Bố cục của đề cưomg chi tiết
1.2.32.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham kháo, luận văn
gồm có hai chương như sau:
1.2.33.
Chương 1. Những vấn đề chung về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại
1.2.34.
Chương 2. Bất cập của pháp luật về thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại và kiến nghị hoàn thiện
1.2.35.CHƯƠNG 1.
1.2.36.NHŨNG VÁN ĐÈ CHUNG VÈ THỤC HIỆN NGHĨA vụ TÀI SẢN
DO NGƯỜI CHÉT ĐẾ LẠI
1.1.
Khái quát về nghĩa vụ tài sản và thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại
1.1.1.
Khái niệm, các loại nghĩa vụ tài sản của người chết đế lại
1.2.37.
ỉ. ỉ. 1.1. Khái niệm nghĩa vụ tài sản của người chết đế lại
1.2.38.
Trong BLDS năm 2015 có một số điều luật nhắc đến cụm từ “nghía vụ
tài sản”2 nhưng đến hiện tại vần chưa có một quy định cụ thể đề cập đến khái niệm, đặc
điểm của cụm từ này. Do đó, có thề dựa vào khái niệm nghĩa vụ đế giải thích cho khái
niệm nghĩa vụ tài sản.
1.2.39.
Theo đó, nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thế (sau đây
gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy
tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích
của một hoặc nhiều chú thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền) 3. Có thế thấy, nghĩa
vụ người chết để lại là những nghĩa vụ nêu trên do người chết đáng lẽ phải thực hiện
nhưng không thể thực hiện được nữa nên chuyển giao cho người thừa kế. Như vậy, nhìn
chung nghĩa vụ tài sản là những nghĩa vụ liên quan đến tài sàn, gắn liền với tài sản, có thể
chuyển giao được và khơng chẩm dứt khi người có nghĩa vụ chết đi.
1.1.1.2.
1.2.40.
Các loại nghĩa vụ tài sản của người chết đê lại
Như trình bày ở trên, nghĩa vụ tài sản của người chết là những nghĩa vụ
phát sinh từ những hành vi trước khi chết của người đó đế phục vụ cho nhu cầu cùa họ,
những nghĩa vụ này do chính bản thân người chết phải thực hiện nhưng người này chưa
thực hiện hoặc đang thực hiện thì chêt. Theo đó, nghĩa vụ tài sản phải là một loại nghĩa vụ
gắn liền với tài sản và có thể chuyến giao, đó là một loại nghĩa vụ chuyển giao một loại
tài sản nào đó cho chú thể có quyền.
2Xem Điều 614, Điều 615, Điều 620, Điều 632 BLDS năm 2015.
3Xem Điều 274 BLDS năm 2015.
1.2.41.
Căn cứ vào Điều 658 BLDS năm 2015, các loại nghĩa vụ do người chết
để lại bao gồm:
1.2.42.
Thứ nhất, nghĩa vụ với nhà nước. Cụ thể: Thuế và các khoản phải nộp
khác vào ngân sách nhà nước. Theo đó, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thế nhân
và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn
bản pháp luật do Nhà nước ban hành, khơng mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp
cho đối tượng nộp thuế4. Do đó, khoản này cũng được xem là nghĩa vụ buộc phải thanh
toán nếu người chết chưa thực hiện hoàn tất. Ỏ quy định này của BLDS năm 2015 đã có
sự thay đổi so với BLDS năm 2005 ở chồ: sửa đổi nội dung “các khoản nợ khác đối với
Nhà nước” thành “các khoản phải nộp khác vào ngân sách Nhà nước”. Xét thấy, quy định
của BLDS năm 2015 hợp lý hơn bởi “trong Nhà nước pháp quyền, chỉ có khoản tiền trả
cho ngân sách Nhà nước, phục vụ lợi ích chung của xã hội thì mới được ưu tiên, cịn
những khoản nợ khác thì phải xem Nhà nước cũng là một chú thể bình đắng như cá nhân,
pháp nhân mới đúng với bản chất của quan hệ dân sự”.5
1.2.43.
Thứ hai, nghĩa vụ đối với cá nhân và tố chức khác. Đây thường là nghĩa
vụ phát sinh nhiều nhất, phổ biến nhất bởi chúng là những nghĩa vụ xuất phát từ những
giao dịch dân sự khi người để lại di sản còn sống mà chưa được thực hiện hoặc thực hiện
chưa đầy đủ. Nhóm nghĩa vụ này bao gồm:
1.2.44.
- Tiền cấp dưỡng còn thiếu: Theo quy định tại Luật hơn nhân và gia đình
2014, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với
nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cơ, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột;
giữa vợ và chồng theo quy định. Theo đó, tính đến thời điềm người để lại di sản chết,
nghĩa vụ cấp dưỡng chưa được người đó thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ thì phải
chuyển giao cho người thừa kế tiếp tục thực hiện. Tuy nhiên, vì cấp dường là nghĩa vụ tài
sản gắn liền với nhân thân, do đó nghĩa vụ này cũng chấm dứt khi người có nghĩa vụ chết
đi. Như vậy, việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phái thực hiện nốt đến thời điểm
người để lại di sản chết đi và đối với khoản cấp dưỡng còn thiếu.
4Theo truy cập ngày 27/12/2020.
5 ĐỖ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự nám 2015, Nxb. Hồng Đức
- Hội Luật gia Việt Nam, tr. 567.
- Tiền công lao động: Đây là nghĩa vụ của người chết đi trong trường hợp họ chưa thực
hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ nghĩa vụ của mình đổi với người lao động (tiền
lương, tiền công lao động) mà họ đã ký kết hợp đồng lao động khi còn sống.
- Tiền bồi thường thiệt hại: số tiền này cũng là số tiền khi còn sống người để lại thừa kế
chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ nghĩa vụ cúa mình đối với người có quyền
mà gây thiệt hại cho người đó. Như vậy, những người hưởng thừa kế phải có trách
nhiệm tiếp tục thực hiện việc bồi thường cho những người bị thiệt hại.
- Tiền phạt: là khoản tiền được trả do hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của một bên
(có thỏa thuận chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng) 6. Nghĩa vụ này phát sinh khi
người đề lại di sản bị vi phạm theo điều khoản của họp đồng nhưng chưa kịp thực hiện
thì qua đời. Do đó, nghĩa vụ này sẽ được chuyển giao cho người thừa kể thực hiện.
- Các khoản nợ đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác: Đây là những nghĩa vụ
tài sản được người đế lại di sản xác lập thông qua những giao dịch dân sự khi cịn
sống. Do đó, đối với những trường hợp người để lại di sản chưa thực hiện hoặc thực
hiện chưa đây đủ nghĩa vụ của mình với những người có qun thì người hưởng thừa
kế buộc phải tiếp tục thực hiện.
1.2.45.
Bên cạnh những nghĩa vụ nêu trên, Điều 658 BLDS năm 2015 cũng quy
định thêm một số trường hợp buộc phải sứ dụng di sản của người chết để thanh tốn và
khơng được coi là nghĩa vụ tài sản do người chết đế lại. Cụ thể:
1.2.46.
Thứ nhất, tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ: người sống nương
nhờ không phải là người thừa kế, họ không được thừa kế di sản của người chết. Họ là
người không thể tự nuôi sống bản thân mà phụ thuộc vào trợ cấp từ người khác. Do đó, để
tránh gây ra những khó khăn đột xuất cho người sống nương nhờ, cần trích một phần khối
di sản của người chết đế giúp đỡ họ7. Tuy nhiên, việc giúp đỡ người khác xuất phát từ ý
chí, từ sự tương trợ và từ lịng hảo tâm, chứ không xuất phát từ nghĩa vụ của bất kỳ ai.
Như vậy, nếu quy định trợ cấp cho người sống nương nhờ là một nghĩa vụ tài sản thì e
rằng chưa hợp lý. Việc trợ cấp hay khơng và trợ cấp bao nhiêu sẽ hợp lý hơn nếu được
6Xem thêm Điều 418 BLDS năm 2015.
7 Xem thêm khoản 3 mục A phần III cíia Thơng tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981.
quyết định bởi những người thừa kế.
1.2.47.
Thứ hai, chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng: Theo phong tục
tập quán của người Việt Nam thì sau khi một người chết đi, việc mai táng là cần thiết phải
chi và phải họp lý, phù hợp với tập quán tại nơi người để lại tài sản sinh sống. Nhằm đảm
bảo quyền lợi cho những người thừa kế cũng như đảm bảo di sản được bảo toàn tối ưu,
việc mai táng phái thởa mãn đầy đủ hai điều kiện: hợp lý và phù họp với tập quán tại nơi
người đề lại di sản sinh sống.
1.2.48.
Thứ ba, chi phí cho việc bảo quản di sản: Nhiều trường họp sau khi một
người chết đi, việc phân chia tài sản không được thực hiện ngay lập tức mà phải ưu tiên
mai táng để thể hiện sự tơn trọng với người chết. Do đó, nhu cầu bảo quản, giữ gìn tài sán
trong trường hợp này là cần thiết và cũng vì vậy mà phải chi ra một khoản tiền để thực
hiện. Mặc dù những chi phí nêu trên khơng phải là nghĩa vụ do trực tiếp người chết để lại,
tuy nhiên đây là những chi phí liên quan trực tiếp đến việc bảo đảm giá trị cho khôi di sản
cũng như việc mai táng được theo đúng phong tục tập quán. Do đó chi phí này được trích
từ khối tài sản do người chết để lại để thanh tốn cho những người có quyền. Tuy nhiên,
cần lưu ý, chi phí bảo quản di sản là những khoản buộc phải thanh toán cho người bỏ ra
chi phí này cịn thù lao phụ thuộc vào chất lượng của việc bảo quản và yếu tố khác như
thỏa thuận với người thừa kế.8
1.2.49.
Thứ tư, các chi phí khác: hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về
nội dung này. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, chi phí khác có thế là “chi phí cho việc vận
chuyển di sản, tiền sửa chừa khi di sản hư hỏng, về một sự kiện bất ngờ”9.
1.1.2.
1.2.50.
Khái niệm về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết đế lại
Theo nghĩa rộng, nghĩa vụ được hiểu là sự xử sự mà một người phải
thực hiện vì một hoặc nhiều người khác, nhưng sự thực hiện đó khơng được đặt dưới sự
bảo đảm của nhà nước bàng pháp luật. Pháp luật khơng buộc người đó phải thực hiện, họ
8Đỗ Văn Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam - Bàn án và bình luận bàn án, Tập 2, Nxb. Hồng Đức - I IỘi
luật gia Việt Nam, tr. 429.
9 Hoàng Thế Liên (2013), Bĩnh luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, Tập III, Nxb. Chính trị quốc gia,
tr. 126.
thực hiện nghĩa vụ hoàn toàn theo lương tâm của mình để làm trịn bổn phận làm người10.
1.2.51.
Nghĩa vụ dân sự là quan hệ pháp luật bao gồm quan hệ tài sản và nhân
thân của các chú thể. Theo đó, chú thể mang quyền có quyền yêu cầu chù thế mang nghĩa
vụ phải chuyển giao một tài sản, thực hiện một việc hoặc khơng được thực hiện một việc
vì lợi ích của mình hay lợi ích của người thứ ba, phải bồi thường thiệt hại về tài sản hoặc
nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của các bên có quyền.
Chủ thế mang nghĩa vụ dân sự có nghĩa vụ thực hiện quyền yêu cầu của chủ thể mang
quyền. Các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thê trong quan hệ nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả thuận của các bên xác lập quan hệ nghĩa vụ
dân sự.
1.2.52.
Trước khi chết, một cá nhân có thể cịn có một số nghĩa vụ với người
khác. Vậy sau khi những người có nghĩa vụ chết đi thì việc thực hiện nghĩa vụ tiếp theo
sẽ như thế nào? Liệu có chủ thể nào thay thế họ tiếp tục thực hiện những nghĩa vụ đó
khơng? Hay những nghĩa vụ đó sẽ tự động “chết” đi cùng với chủ thể mang nghĩa vụ?
Câu trả lời còn tuỳ thuộc vào bản chất của nghĩa vụ mà người quá cố chưa kết thúc trước
khi chết11.
1.2.53.
Trong một số trường hợp, khi cá nhân chết thì nghĩa vụ cúa họ cũng
chấm dứt. Cụ thế như trong những trường hợp nghĩa vụ đó gắn liền với cá nhân, phải do
chính cá nhân đó thực hiện, nói ngắn gọn là những nghĩa vụ gắn liền với nhân thân như
theo quy định tại khoản 8 Điều 372 BLDS năm 2015: Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ trong
trường hợp: “Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà
nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện”.
1.2.54.
Ngược lại, chế độ trách nhiệm tài sản của cá nhân là vô hạn, tức không
mặc nhiên chấm dứt khi cá nhân đó chết. Vậy trong trường họp đó, việc thực hiện nghĩa
vụ của họ sẽ do cá nhân nào hay pháp nhân nào thực hiện? Cũng vì lý do này, pháp luật
đã quy định về chế định thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại nhằm tháo gỡ vấn đề nêu
trên, nhằm bảo vệ những chủ thế có quyền trong trường hợp người có nghĩa vụ chết đi.
10 Đinh Vãn Thanh (1997), Giáo trình Luật dân sự, Nxb. Cơng an nhân dân, tr.3.
11 Đồ Văn Đại (2009), Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bân án, Nxb. Chính trị quốc gia,
Thành phố Hồ Chí Minh, tr.524;
Khái niệm này hiện vẫn chưa được quy định một cách đầy đủ trong các luật và bộ luật.
Tuy nhiên, dựa trên tinh thần cùa pháp luật dân sự cũng như mục đích của việc quy định
chế định này, ta có thế hiểu thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết đề lại về cơ bản
mang bản chất như sau: Những người hướng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại. Nghĩa vụ tài sản của người chết thực sự
là món nợ của người đó lúc cịn sông phát sinh từ những hành vi pháp lý của họ. Vì thê,
phải coi nghĩa vụ đó là của chính bản thân người chết, phải dùng di sản của người chết để
thanh toán.
1.2.55.
Thực chất, người hưởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại không phải với tư cách là chủ thể mới “bước vào quan hệ nghĩa vụ”, họ khơng thay
thế vị trí chủ thế. Họ thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của người chết đế lại, hay nói
cách khác, họ phải trả nợ chỉ vì họ tiếp nhận tài sản của người chết đế lại (nợ là của người
chết chứ không phải của người hưởng di sản) 12. Neu người thừa kể đã từ chối quyền
hưởng di sản thì họ khơng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sàn do người chết để lại.
1.2.56.
Như vậy, có thế thấy việc hưởng di sản do người chết để lại sẽ gắn liền
với thực hiện nghĩa vụ của người chết. Nghĩa vụ tài sản của người chết không phải là di
sản mà chỉ gắn liền với quyền hưởng di sản, những người có quyền hưởng thừa kế có thế
nhận hoặc khơng nhận di sản. Nếu nhận thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của
người chết đế lại gắn với phần di sản mình được nhận và ngược lại, kế cả người được
hường di sản là cá nhân hay pháp nhân13. Quy định này thể hiện sự bình đẳng của các chủ
thể trong việc hưởng thừa kể cũng như nghĩa vụ gắn liền với di sản.
1.2.57.
Nói tóm lại, nghĩa vụ tài sản cùa người chết để lại là những nghĩa vụ
phát sinh cho chính người đề lại di sản khi cịn sống mà người này chưa kịp thực hiện, thì
nay người thừa kế thanh toán thay. Đây là những nghĩa vụ gắn liền với tài sản của người
chết, là nghĩa vụ chuyển giao vật, trả tiền hoặc giấy tờ có giá.
1.1.3.
Đặc điếm của việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
1.2.58.
Như đã phân tích tại tiếu mục 1.1.1, nghĩa vụ tài sản của người chết
12 Nguyễn Vãn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 cùa nước
Cộng hoà xà hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 941;
13 Khoan 4 Điều 615 BLDS năm 2015.
trong trường hợp này có thể hiểu là những nghĩa vụ nằm ngồi phạm vi nhân thân, những
nghĩa vụ khơng cân chính chủ thê đó thực hiện mà có thê được thực hiện bời người khác.
Nghĩa vụ tài sản do người chết để lại là nghĩa vụ thuộc phạm vi về mặt tài sản. Vậy, nghĩa
vụ đó cụ thề hơn bao gồm những gì, và thứ tự ưu tiên thực hiện ra sao? Điều 658 BLDS
năm 2015 đã phần nào làm sáng tỏ được điều đó. Theo đó về cơ bản điều luật liệt kê
những nghĩa vụ tài sản và chi phí liên quan đến thừa kế cũng như thứ tự thực hiện thanh
toán. Mặc dù những quy định tại điều luật này vẫn chưa đầy đủ nhung ta vẫn có thể hiểu
được bản chất của những nghĩa vụ này, từ đó có thể xác định được những nghĩa vụ cần
phải thực hiện trong trường họp người để lại di sản chết đi.
1.2.59.
Một khó khăn phát sinh là người có nghĩa vụ đã chết đi, vậy làm thế nào
để chứng minh được rằng khi cịn sống, họ là người có nghĩa vụ? Điều đó phụ thuộc vào
những tài liệu, chứng cứ và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cúa người có quyền;
những quy định chung về chứng cứ sẽ được áp dụng để xác định quyền và nghĩa vụ của
những chủ thể tham gia vào giao dịch dân sự, bao gồm các loại hợp đồng hoặc giấy tờ
hoặc các tài liệu văn bản có giá trị pháp lý khác theo quy định của pháp luật.
1.2.60.
Thông thường trên thực tế, các bên tham gia vào giao dịch dân sự trực
tiếp thực hiện nội dung của giao dịch trong suốt quá trình kể từ khi xác lập cho đến khi
chấm dứt hồn tồn, điều đó được thể hiện qua việc thực hiện nghĩa vụ của các bên tham
gia. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, nhằm thuận lợi trong việc thi hành nghĩa
vụ, các bên có thế thoả thuận chuyền giao nghĩa vụ cho người thứ ba, miễn sao các bên
đều đảm bảo lợi ích của mình.
1.2.61.
Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết đề lại xét dưới góc độ nào đó
cũng là một hình thức chuyển giao nghĩa vụ như phân tích ở trên, tuy nhiên lúc này việc
thực hiện nghĩa vụ không phải do ý chí người tham gia vào giao dịch ngay từ lúc đầu, mà
là do điều kiện, hoàn cảnh khách quan, sự kiện pháp lý quyết định. Do đó, thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không hoàn toàn giống với việc chuyển giao nghĩa
vụ và cũng khơng hồn tồn giống với việc thực hiện nghĩa vụthơng qua người thứ ba, mà
nó là một sự chuyên giao nghĩa vụ đặc biệt. Tham khảo thêm bảng phân tích dưới đây sẽ
thấy được sự khác biệt của chúng13:
1.2.63.Chuyển giao
nghĩa vụ dân sự (Điều
1.2.62.Tiê
u chí
370,
1.2.64.371 BLDS năm
1.2.65.2015)
1.2.69.Sự chuyền giao
được thiết lập trên cơ
sở sư thoả thuân
1.2.70.• • (hợp đồng)
1.2.68.1.
Căn cứ
phát sinh
giữa chủ thể mang
quyền - chủ thể mang
nghĩa vụ - người thứ
ba về việc người thứ
ba thay thế người có
nghĩa vụ cũ để trở
thành chú thể có nghĩa
vụ mới.
1.2.66.Thực hiện nghĩa
1.2.67.Thực hiện nghĩa
vụ tài sản do người chết
vụ dân sự thông qua
để lại (Điều 615 BLDS
người thứ ba (Điều 283
năm 2015)
BLDS năm 2015)
1.2.71.Sự chuyển giao
nghĩa vụ xuất phát từ sự
kiện chết của cá nhân
(người mang nghĩa vụ
ban đầu). Việc chuyển
giao sẽ do pháp luật quy
định. Việc chuyển giao
không xuất phát từ sư
thoả thuân của chủ
1.2.72. • •
1.2.73.thể mang quyền chủ thể mang nghĩa vụ
ban đầu - người thứ ba
1.2.74.Phát sinh trên cơ
sở cúa sự thoả thuận (hợp
đồng uỷ quyền) giữa chủ
thể mang quyền - chú thể
mang nghĩa vụ - người
thứ ba về việc người thứ
ba thay chủ thể mang
nghĩa vụ thực hiện nghĩa
vụ dân sự đối với người
có quyền.
Hình
1.2.78.Phải đươc thề
hiên
1.2.79. •
1.2.76.thứ
• bằng văn bản hoặc
chuyển giao khơng xuất
suy đốn hình thức của
c chuyển
lời nói hoăc đơi khi
phát từ sư thoả thn của
thố thn đươc thể
1.2.75.2.
1.2.82.Khơng có quy
1.2.85.Pháp luật khơng
định. Bởi vì đây là sự
quy định, do đó có thể
các
1.2.86.• •
1.2.80.•
1.2.77.gia
1.2.87.hiện dưới những
1.2.81.là bằng hành vi
1.2.83. • •
o
1.2.84.bên mà do pháp
hình thức như quy định
cụ thế. Trong trường
1.2.88. 13 Phạm Tuấn Anh (2007), “Thực hiện nghĩa
vụ quy
tài sán
do người chết đế lại theo quytại
định của Bộ luật
luật
định.
hợp pháp luật có quy
dân sự Việt Nam ”, Luận vãn Thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, tr.25, 26.
1.2.89. 1.2.90.định thì việc
1.2.91.
chuyển giao nghĩa vụ
1.2.92.Điều 119 BLDS
năm
1.2.93.2015.
cịn phải có cơng
chứng, chứng thực,
đăng ký hoặc xin
phép.
1.2.100. Nghĩa vụ do
1.2.97.Nghĩa vụ được
chuyển giao cho người
người thứ ba thực hiện.
1.2.99.Nghĩa vụ được
Nhưng chủ thể mang
1.2.108. Do pháp luật
không đúng.
1.2.110. Bất kỳ cá nhân,
1.2.94.3. thứ ba. Chú thể mang
chuyển giao cho người
nghĩa vụ ban đầu vẫn
Hâu
nghĩa vụ ban đầu
thứ ba. Chủ thể mang phải chịu trách nhiêm với
1.2.95.
•
khơng phải chiu trách
nghĩa vụ ban đầu chết
chủ thể
1.2.96.quả
nhiêm về
nên chấm dứt tư cách chủ
1.2.101. •
pháp lý
1.2.98. • • việc
1.2.102. mang quyền
thể.
thực hiện nghĩa vụ
nếu người thứ ba không
của người thứ ba.
thực hiện hoặc thực hiện
1.2.103. 4
. Chủ thể
tiếp nhân
1.2.106. Bất kỳ cá
nhân, tổ chức nào do
các bên thoả thuân.
xác định (hoặc xác định
trong di chúc) dựa trên
tổ chức nào do các bên
thoả thuân.
1.2.104. •
những dấu hiêu đăc biêt.
1.2.107.
1.2.111. •
•
1.2.105. n
1.2.109. • • •
1.2.112.
1.2.120. Người tiếp
1.2.121. Người tiếp
ghĩa
vụ 5 1.2.118. Người tiếp
. Pham
nhận nghĩa vụ phải
nhận nghĩa vụ chỉ phải nhận nghĩa vụ phải thực
1.2.113.
•
thực hiện toàn bộ
thực hiện nghĩa vụ trong hiện toàn bộ nghĩa vụ đã
1.2.114. v
nghĩa vu đã thoả
phạm vi di sản được
i thưc
thoả thuân.
1.2.115. •
thuân.
hưởng.
1.2.122. •
1.2.123.
hiên
1.2.124.
Như vậy, dựa vào bảng so sánh cũng như những phân tích trên đây, ta có thê
thấy rằng sự khác biệt cơ bản cùa thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại so với
chuyến giao nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba ở chỗ nó khơng xuất
phát từ ý chí của các bên tham gia vào giao dịch dân sự ngay từ đầu, mà phát sinh từ sự
kiện khách quan (đó là sự kiện chết đi của người tham gia vào giao dịch). Khi đó sẽ phát
sinh việc xử lý tài sản của người chêt đê lại, lúc này việc xử lý tài sản có thể bao hàm cả
việc chuyền giao nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ. Thế nên, thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại phức tạp hơn nhiều so với chuyền giao nghĩa vụ thơng thường.
1.2.
Chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
1.2.125. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tức là
người thừa kế khơng có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ để lại của người để lại di sản
thừa kế mà chỉ có trách nhiệm gánh vác phần nghĩa vụ trong phạm vi di sản người chết để
lại, trừ trường hợp có những thỏa thuận khác về việc chia nghĩa vụ.
1.2.126. Vậy thì, thời điểm nào là thời điếm chuyển giao nghĩa vụ? Hay nói cách
khác, thời điểm nào xác định việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại? Và chủ
thể nào là người buộc phải thực hiện nghĩa vụ tài sản?
1.2.127. Theo khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015 quy định: Thời điểm mở thừa
kế là thời điềm người có tài sản chết, đây cũng là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế.
Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mớ thừa kế là ngày được
xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này. Khi đó, những người thừa kế có các quyền,
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Những quyền lợi, nghĩa vụ đó phát sinh từ quan hệ
nhân thân giữa người chết với người được nhận thừa kế, đồng thời xuất phát từ tài sản
cũng như những nghĩa vụ mà người chết đế lại.
1.2.128. Khi đó, những người cịn sống hoặc sinh ra và còn sống nhưng đã thành
thai trước khi người đế lại tài sản chết sẽ là những người được hưởng di sản thừa kế. Ke
từ thời điểm đó, ta có thể xác định được chính xác tài sản, quyền, nghĩa vụ về tài sản của
người để lại thừa kế gồm những gì, những người được hưởng thừa kế là ai và đến khi chia
di sản còn bao nhiêu.
1.2.129. Theo quy định của pháp luật thì “những người hưởng thừa kế có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác” (khoản 1 Điêu 615 BLDS năm 2015). Theo đó, những người có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại bao gồm:
- Người hưởng thừa kế;
- Người quản lý di sản;
- Người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng;
- Người nhận di tặng;
- Nhà nước với tư cách là chủ thể tiếp quản tài sản khơng có người thừa kể.
1.2.1.
Người hưởng di sản thừa kế theo di chúc, theo pháp luật
1.2.130. Tại khoản 1 Điều 615 BLDS năm 2015 quy định: "Những người hưởng
thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để
lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đe hiểu rõ trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài
sản của người thừa kế, trước tiên cần thiết phái làm rõ cụm từ “người hưởng thừa kế”
theo quy định trên bao gồm những chủ thể nào, thoả mãn những điều kiện nào.
1.2.131. Pháp luật thừa kế ở Việt Nam thừa nhận hai hình thức thừa kế đó là thừa
kể theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Do đó, tương ứng với hai hình thức thừa kế
này, người thừa kế cũng bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp
luật.
1.2.132. Theo quy định tại Điều 609 BLDS năm 2015: "Cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình; đê lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp
luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế khơng là cá nhân có
quyền hưởng di sản theo di chúc Như vậy, BLDS năm 2015 đã bổ sung quyền của người
thừa kế “không là cá nhân”, tức tố chức có quyền hưởng di sản theo di chúc. Theo đó,
những người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc sẽ bao gồm cả cá nhân và tổ chức.
Cũng từ đó, có thề nhận định rằng tất cả các chủ thể thừa kế theo di chúc, khơng phân biệt
là cá nhân hay tổ chức đều có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết đề lại
tương ứng với phần di sản mà mình được nhận.
1.2.133. Trong trường hợp người đê lại di sản thừa kê không đê lại di chúc hoặc
di chúc không hợp pháp, di chúc khơng có hiệu lực thi hành, phần của di chúc khơng có
hiệu lực pháp luật và các trường hợp khác có liên quan 14, thì thừa kế theo pháp luật được
14 Xem thêm Điều 650 BLDS năm 2015.
áp dụng. Việc xác định người thừa kế theo pháp luật cần phải dựa trên những cơ sở nhất
định trong mối quan hệ nhân thân với người đề lại di sản. Trước hết, người thừa kế theo
pháp luật chi có thể là cá nhân và đáp ứng đù những điều kiện sau:
1.2.134. Thứ nhất: cá nhân đó phải nằm trong diện thừa kế. Như chúng ta đã biết,
thừa kế theo pháp luật là trình tự dịch chuyển di sản của người chết để lại cho người còn
sống theo hàng thừa kế, điều kiện, trình tự thừa kế theo quy định của pháp luật. Hay nói
một cách đơn giản thì pháp luật sẽ quy định tất cả về trình tự, về người được hướng di sán
của người chết để lại, hưởng như thế nào, hưởng bao nhiêu. Tuy nhiên, khi xác định phạm
vi những người được hưởng di sản của người chết để lại, pháp luật về thừa kế của bất kỳ
quốc gia nào cũng phải dựa trên ý chí mang tính truyền thống của người để lại di sản là
nếu họ chết thì tài sản cịn lại của họ (di sản thừa kế) phải được dịch chuyến cho những
người thân thích của họ. Vì vậy ở đây ta có thể hiểu: Diện thừa kế theo pháp luật là phạm
vi những người có thể được hưởng di sản của người chết theo pháp luật nếu giữa họ với
người chết đang tồn tại mối quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dường cho đến thời
điềm mở thừa kế hoặc giữa họ có huyết thống trong phạm vi hai đời bàng hệ và bốn đời
trực hệ15.
1.2.135. Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể có mối quan hệ như nêu trên đều
nằm trong diện thừa kế. Việc xác định diện thừa kế còn dựa trên việc xác định hàng thừa
kế. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn ai ở hàng
thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc
từ chối nhận di sản16. Những người thuộc hàng thừa kế ngang nhau sẽ được hưởng số di
sản bằng nhau. Theo đó, Điều 651 BLDS năm 2015 sắp xếp hàng thừa kế theo thứ tự sau:
1.2.136. + Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
1.2.137. + Hàng thừa kê thứ hai gôm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ơng nội,
15 Đồn Thị Ngọc Hải (2019), “Chế định quyền thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam'; Mục nghiên
cứu trao đôi - cống thông tin điện từ Bộ Tư pháp, dinh-quyenthua-ke-trong-phap-luat-dan-su-viet-nam, truy cập ngày 02/8/2020.
16 Xem khoản 3 Điều 651 BLDS năm 2015.