Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Thi hành án dân sự về cấp dưỡng theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.79 KB, 59 trang )

ĐẠI HỌC QC GIA THÀNH PHỊ HỊ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐAI HOC KINH TÉ - LUÁT
NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN

THI HÀNH ÁN DÂN sự VÈ CẤP DƯỠNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HOC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HOC: TS. NGUYỄN VÀN TIẾN
TP. HO CHI MINH - NAM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Tiến. Nội dung các vụ việc được nêu trong
luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn theo đúng quy
định.
TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Ngọc Huyền


DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT
TT

TÙ VIÉT TẮT

1

LTHADS



2

LHNGĐ

TÙ ĐƯỢC VIẾT TẮT
Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đối, bổ sung
năm 2014
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính

3

Nghị định số
62/2015/NĐ-CP

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành môt số điều
của Luât Thi hành án dân sư
•••
Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

4

Nghị định số
33/2020/NĐ-CP

62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phú quy định
chi tiết và hướng dần thi hành một số điều của Luât Thi
hành án dân sư.

••
Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính

Nghị định số

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

82/2020/NĐ-CP

bồ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hơn nhân và gia đình,

5

thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP- BLĐTBXHNHNNVN ngày 14/01/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài
Thơng tin liên tịch số
6

chính, Bộ Lao động thương binh xã hội, Ngân hàng nhà

02/2014/TTLT-BTP-

nước Việt Nam về việc cung cấp thông tin về tài khoản,

BLĐTBXH

thu nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong
tỏa tài khoản, khấu trừ tiền trong tài khoản, trừ vào thu
nhập của người phải



TT

TÙ VIÉT TẮT

TÙ ĐƯƠC VIẾT TẮT

thi hành án để thi hành án

Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP7

TANDTCVKSNDTC

Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTCVKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy đinh môt
số vấn đề về thủ tuc thi hành án dân sư và
• • • • phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
L Lý do chọn đề tài..........................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cún..................................................................................................2

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................5
3.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn............................................................................5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn..........................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................................6
4.1. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................................6
4.2. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................7
6. Kết cấu luận văn..........................................................................................................7
CHƯƠNG 1 TỤ NGUYỆN THI HÀNH ÁN DÂN sụ VỀ CẤP DƯỠNG..................8
1.1. Khái niệm thi hành án dân sự về cấp dưỡng.........................................................8
1.1.1. Khái niệm cấp dưỡng.............................................................................................8
1.1.2. Khái niệm thi hành án dân sự.............................................................................9
1.1.3. Khái niệm thi hành án dân sự về cấp dưỡng.....................................................10
1.2. Các trường họp tự nguyện thi hành án về cấp dưỡng....................................11
1.2.1. Tự nguyện thi hành án về cấp dưỡng khi cơ quan thi hành án chưa ban hành
quyết định thi hành án....................................................................................................11


1.2.2. Tự nguyện thi hành án về cấp dưỡng khi cơ quan thi hành án đã ban hành
quyết định thi hành án....................................................................................................18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..............................................................................................25
CHƯƠNG 2 CƯỠNG CHÉ THI HÀNH ÁN DÂN sụ VÈ CẤP DƯỠNG..............26
2.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự về cấp dưỡng....................................26
2.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án........................................................................26
2.1.2. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự về cấp dưỡng......................................27
2.2. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự về cấp dưỡng..........................29
2.2.1. Khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án...................................29
2.2.2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án......................................................33
2.2.3. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.......................................................36
2.3. ủy thác thi hành án cấp dưỡng..........................................................................39

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..............................................................................................43
KẾT LUẬN.....................................................................................................................44
DANH MUC TÀI LIÊU THAM KHẢO


1

PHẢN MỎ ĐẢU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào cua xã hội, là nơi chắp cánh cho những ước mơ, hồi bão hình
thành lên nhân cách của một con người. Ờ nơi đây, mồi một thành viên trong gia đình
sống với nhau bằng tình yêu thương, sự cảm thông chân thành, sự quan tâm, chia sẻ với
nhau những buồn vui trong cuộc sống thường ngày, các thành viên ấy gắn bó với nhau
bằng quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Trong đời sống thường nhật, khi
chung sống với nhau dưới cùng một mái nhà, những con người trong cùng một gia đình
ni dưỡng nhau thơng qua những cử chỉ tốt đẹp, giàu chất nhân văn như: quan tâm,
thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng góp sức xây dựng lên một gia đình hạnh
phúc có ích cho xã hội.
Tuy vậy, vì một lý do nào đó mà họ khơng thể cùng chung sống và thực hiện
nghĩa vụ ni dưỡng, chăm sóc nhau. Khi ấy, người có nghĩa vụ ni dưỡng phải có
nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được
nuôi dưỡng. Từ đây, nghĩa vụ nuôi dường đã được thực hiện dưới một phương thức khác
đó là nghĩa vụ cấp dưỡng.
Trong bối cảnh cùa nền kinh tế thị trường, phần nào đã có những tác động tiêu
cực đến đạo đức, nhân cách và lối sống của con người. Khi khơng cịn chung sống với
nhau dưới cùng một mái nhà thì khơng phải ai cũng nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng. Trên thực tế, việc vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng diễn ra ngày càng nhiều, một
cách thường xuyên với số lượng ngày một gia tăng. Vì vậy, pháp luật rất cần một chế tài
đủ sức răn đe để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của những người được
cấp dưỡng.

Đây cũng là lý do tác giả chọn “Thi hành án dãn sự về cấp dưỡng theo pháp
luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của mình, với hy vọng có
thế đóng góp một số ý kiến cho q trình hồn thiện khung pháp lý hiện hành về thi
hành án cấp dưỡng.


2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình lựa chọn đề tài ban đầu cũng như tìm kiếm các tài liệu để phục
vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy đã có một số cơng trình nghiên cứu
khoa học có sự liên quan đến đề tài đã được cơng bố, giáo trình của một số trường Đại
học nghiên cứu liên quan đến đề tài như sau:
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Thi hành án dân sự Việt
Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. Nội dung giáo trinh đã trình bày những
vấn đề cơ bản về Luật Thi hành án dân sự, phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật
Thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục thi hành án dân sự, các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Hoàng Thị Thanh Hoa, Hồ Qn Chính và Nguyễn Văn Nghĩa (2019), Bình
luận Luật Thi hành án dãn sự, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. Để có cái nhìn tồng thể,
đa chiều về thực trạng các quy định của pháp luật thi hành án dân sự hiện hành cũng như
tính hiệu quả của nó trong thực tiễn. Tác giả đã chỉ ra những hạn chế, vướng mắc của
pháp luật hiện hành khi áp dụng vào các tình huống thi hành án cụ thể. Ngồi ra, tác giả
đã đưa ra những bình luận các quy định của Luật Thi hành án dân sự dưới góc độ của
những người trực tiếp thực hiện cơng tác thi hành án dân sự.
- Đinh Công Tráng (2003), “Một số vấn đề cấp dường nuôi con trong thi hành
án”, Tạp chỉ Tòa án nhân dân, số 4, 11-12. Trong bài bình luận này tác giả đã đưa ra
những nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng người cha hoặc mẹ
không thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng ni con sau khi ly hơn. Đó là, thứ nhất: “Người
phải thi hành án có hộ khẩu, địa chì rõ ràng, có cơng việc và thu nhập ổn định, có điều
kiện kinh tế cũng như khả năng tài chính nhưng khơng chịu cấp dường ni con vì
nguồn thu nhập của họ bị người vợ, người chồng mới quản lý chặt chẽ, không cho họ sử

dụng đề lo cho việc cấp dưỡng nuôi con riêng của họ sau khi đã ly hôn”; thứ hai:
“Người phải thi hành án sau khi ly hơn do làm ăn thua lồ, phá sản, khơng có thu nhập,
khả năng kinh tế nên khơng có tiền đế thực hiện việc cấp dưỡng dù rằng họ khơng có ý
định lẩn tránh trách nhiệm. Ngồi ra, có những trường hợp sau khi ly hôn họ đã rời khỏi
địa phương đê đi nơi khác làm ăn hoặc khơng có địa chỉ cố định theo tính chất cơng việc


nên cơ quan thi hành án cũng phải chịu bó tay”. Chính từ những ngun nhân đó, đã dẫn
đến tình trạng quyền lợi cúa người được thi hành án cấp dưỡng bị xâm phạm, khi đơn
yêu cầu của họ bị cơ quan thi hành án trả lại hoặc là kéo dài sau rất nhiều năm nhưng
vần không được thi hành.
- Đinh Duy Bằng (2011), “Thi hành án cấp dưỡng nuôi con một số vấn đề từ
thực tiễn”, Tạp chi Dãn chủ và pháp luật, số 11, 55-59. Trong bài viết này, tác giá đã đề
cập đến những khó khăn, vướng mắc mà Chấp hành viên gặp phải trong quá trình thi
hành án cấp dưỡng nuôi con. Và tác giả cũng đưa ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên
xuất phát chính từ những bất cập, khoảng trống, sự thiếu hồn thiện cúa pháp luật về thi
hành án dân sự.
- Nguyễn Duy Phương (2014), “Hoàn thiện luật thi hành án dân sự”, Tạp chỉ
Nghiên cứu lập pháp, số 07, 25-28. Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên những bất cập
còn tồn tại trong pháp luật thi hành án dân sự. Thứ nhất, theo pháp luật Việt Nam thì chù
thể có thấm quyền ra quyết định thi hành án là cơ quan thi hành án. Tuy vậy, theo kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới, việc ra quyết định thi hành án là do Tòa án mà cụ
thể là Thẩm phán thực hiện, vì bản chất của thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp, là
giai đoạn cuối của q trình tố tụng, do vậy, Tịa án phải có trách nhiệm đến cùng với
bán án, quyết định mà mình ban hành; “ khơng đề tình trạng cắt khúc, tách rời các giai
đoạn tố tụng làm hạn chế mối quan hệ giữa hoạt động xét xử với hoạt động thi hành án
dân sự, giữa Tòa án với cơ quan thi hành án”, tác giả cho rằng, trao thấm quyền ra quyết
định thi hành án cho Tòa án là hoàn toàn hợp lý. Thứ hai, vấn đề xác minh điều kiện thi
hành án, theo đó người được thi hành án phải tự mình xác minh điều kiện thi hành án
của người phải thi hành án để cung cấp thông tin cho cơ quan thi hành án, đây là một

việc làm hết sức khó khăn, khơng có tính khả thi. Thứ ba, trong trường hợp chủ động ra
quyết định thi hành án thì Chấp hành viên phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án
cùa người phải thi hành án, trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi
hành án đã áp dụng các biện pháp cân thiêt mà không thê tự xác minh được điêu kiện thi
hành án của người phải thi hành án thì có thể u cầu Chấp hành viên tiến hành xác
minh, “thực tế cho thấy việc Chấp hành viên xác minh khó khăn vì người phải thi hành


án có thể ở khác nơi cư trú với người được thi hành án; họ có thể làm việc và có thu
nhập ở một nơi khác; tài sản của họ có thể nằm ở nhiều địa phương hoặc nước ngồi...”.
- Nguyễn Đức Hiểu (2015), “Bàn về việc kiểm sát sự tuân theo pháp luật trong
thi hành án dân sự đối với việc ra quyết định thi hành án, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con”,
Tạp chỉ Kiêm sát, số 21, 40-42. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến sự chưa hoàn
thiện về thể chế pháp luật, các quy định của pháp luật hiện hành chưa thực sự rõ ràng,
dẫn đến quan điểm áp dụng pháp luật còn khác nhau giữa các cơ quan, cụ thể là Viện
Kiểm sát nhân dân và Cơ quan thi hành án dân sự, nên việc kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Viện Kiểm sát nhân dân chưa hoàn toàn đạt được mục đích, chưa thể hiện được
vai trị tích cực.
- Trần Thế Hệ (2015), “Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi cha mẹ ly
hơn cịn nhiều bất cập”, Luật sư Việt nam, số tháng 5, 36-39. Tác giả đã nêu lên những
bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của con cái
khi cha mẹ ly hơn. Trong đó, nối bật là việc “người có nghĩa vụ cấp dưỡng khơng tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; cơ quan thi hành án và cơ quan, tổ chức trả tiền
lương, tiền công lao động cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng khơng thực hiện việc khấu
trừ khoản cấp dưỡng cho người có nghĩa vụ cấp dường để chuyển trả cho người được
cấp dưỡng”, “các quy định về cấp dưỡng còn chung chung, chưa cụ thể về mức cấp
dưỡng nuôi con sau khi ly hôn nên nhiều trường hợp các bên đã tự thởa thuận một mức
cấp dưỡng quá thấp không đảm bảo được quyền lợi cho trẻ nói riêng cũng như gây khó
khăn cho hoạt động thi hành án nói chung”. Ngồi ra, cơ chế xử lý những trường hợp vi
phạm nghĩa vụ về cấp dưỡng cịn chưa kiên quyết, dẫn đến tình trạng trốn tránh, không

thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng rất phổ biến trong thực tế.


- Nguyền Nhàn, Vụ Nghiệp vụ 1 - Tổng cục Thi hành án dân sự, Bàn về vấn đề
thỏa thuận thi hành án dân sự ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ
ba, đăng trên cổng thông tin điện tử Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp ngày
09/9/2016. Bài viết đưa ra các ví dụ về thực tiễn và phân tích những quan điểm khác
nhau về hướng giải quyết theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 50 và Khoán 4 Điều
54 Luật Thi hành án dân sự sửa đồi, bố sung năm 2014. Sau đó được Tổng cục thi hành
án dân sự tổ chức họp liên ngành với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao để thống nhất hướng giải quyết thích hợp. Trong bài viết đã đề cập đến các vấn
đề về người thứ ba trong thi hành án, việc đình chỉ thi hành án theo sự công nhận thỏa
thuận của đương sự. Tuy nhiên, vẫn chi nêu một khía cạnh về thỏa thuận thi hành án,
chưa làm rõ hết các trường hợp khác về thỏa thuận nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành
án.
Như vậy, đến thời điểm hiện tại chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên
cứu hoạt động thi hành án về cấp dưỡng trong pháp luật thi hành án dân sự. Tuy nhiên,
các cơng trình nghiên cứu trên cũng là nguồn tham khảo quan trọng để tác giả nghiên
cứu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
•••“
3.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Đề tài nhằm nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án dân sự về
cấp dường. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật
hiện hành và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Từ đó có những kiến nghị hoàn
thiện các quy định pháp luật đối thi hành án dân sự về cấp dưỡng, góp phần tích cực cho
hoạt động giải quyết vụ việc cấp dưỡng dân sự cùa cơ quan thi hành án, đảm báo quyền
và lợi ích hợp pháp cúa cơng dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu cùa các cơng trình khoa học đã cơng bố, luận văn

tiếp tục nghiên cứu làm rõ các nội dung sau đây:


- Làm rõ những vấn đề mang tính lý luận và quy định của pháp luật về thi hành
án dân sự cấp dưỡng.
- Nhận xét, đánh giá tông quát những quy định pháp luật vê thi hành án vê cấp
dưỡng. Từ việc đánh giá này phân tích những hạn chế của quy định pháp luật hiện hành
làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp
luật.
- Đánh giá kết quả thi hành án, thuận lợi, khó khăn trong q trình tổ chức thi
hành của cơ quan thi hành án dân sự về thi hành án cấp dưỡng. Đe từ đó đề xuất các giải
pháp hồn thiện pháp luật và giải quyết khó khăn khi thi hành án cấp dưỡng trên thực tế.
- Đe xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện quy định của pháp luật về thi hành
án dân sự về cấp dưỡng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm: những vấn đề lý luận về thi hành án
dân sự về cấp dưỡng; các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thi hành án dân
sự về cấp dưỡng, thực tiền thi hành về thi hành án dân sự về cấp dưỡng tại cơ quan thi
hành án dân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn này giới hạn nghiên cứu theo các
nguồn tài liệu (bản án, quyết định thi hành án, bài báo, tạp chí,..) trong phạm vi lãnh thổ
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu vê thời gian:
+ Đối với các văn bản quy phạm pháp luật: Luận văn sử dụng các văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực từ năm 2008 đến nay.
+ Đối với các bản án, quyết định, quyết định thi hành án: Luận văn sử dụng các
bản án, quyết định, quyết định thi hành án trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu vê nội dung: Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên

cứu những quy định của pháp luật về thi hành án cấp dưỡng theo Luật Thi hành án dân


sự năm 2008, được sửa đồi, bổ sung năm 2014, thực tiễn thi hành, các bất cập trong thi
hành án về cấp dưỡng và đề xuất những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật, cơ chế
thi hành án về cấp dưỡng tại cơ quan thi hành án dân sự.
5. Phuong pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chủ nghĩa
Mác-Lê Nin, quan điểm duy vật biện chứng lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật Việt Nam hiện nay về Thi hành án dân sự về cấp dưỡng theo pháp luật Việt
Nam.
- Phương pháp cụ thể:
Ngoài phương pháp luận, luận văn cũng sử dụng tồng họp nhiều phương pháp
phân tích, đánh giá, tổng họp để xem xét từng vấn đề trong nội dung đề tài, cụ thể:
+ Phương pháp phân tích được sừ dụng để phân tích cơ sở lý luận và thực trạng,
bất cập của thi hành án dân sự về cấp dưỡng.
+ Phương pháp tồng hợp cũng được sử dụng trong toàn bộ luận văn. Trên cơ sở
các tài liệu đã phân tích, sử dụng phương pháp này để tống hợp những vấn đề đã nêu ra,
từ đó rút ra những nhận định, kiến nghị, những bổ sung cần thiết nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự về cấp dưỡng.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu với 2 chương như sau:
Chương 1. Tự nguyện thi hành án dân sự vê câp dưỡng
Chương 2. Cưỡng chế thi hành án dân sự về cấp dưỡng


CHƯƠNG 1
TỤ NGUYỆN THI HÀNH ÁN DÂN sụ VÈ CẤP DƯỠNG

1.1. Khái niệm thi hành án dân sự về cấp dưỡng
1.1.1. Khái niệm cấp dưỡng
Theo Từ điển Tiếng Việt, cấp dưỡng là nuôi, cho tiền hàng tháng cho đủ sống 1.
Theo khái niệm này, cấp dưỡng là việc một người hồ trợ về vật chất cho những người có
điều kiện, hồn cảnh khó khăn về vật chất lẫn tinh thần, nhằm giúp cho họ có được một
cuộc sống ồn định trong xã hội. Nghĩa vụ này xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, truyền thống “lá lành đùm lủ rách”, giúp đỡ những người có hồn cảnh khó khăn,
cơ nhỡ.
Theo khoản 24 Điều 3 LHNGĐ “cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng
góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người khơng sống chung
với mình mà có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng trong trường họp
người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà khơng có khả năng lao
động và khơng có tài sản để tự ni mình hoặc gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định
của Luật này”. Với quy định này, cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ cung cấp về
vật chất cho những người khơng sống chung với mình nhưng có quan hệ hơn nhân,
huyết thống hoặc ni dưỡng trong trường hợp người đó chưa thành niên hoặc đã thành
niên nhưng khơng có khả năng lao động, khơng có tài sản đế tự ni mình hoặc gặp khó
khăn, túng thiếu.
Nghĩa vụ cấp dưỡng gắn liền với nhân thân của các chủ thể trong quan hệ cấp
dưỡng, không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và cũng không thể chuyển giao cho
người khác. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải tự mình thực hiện nghĩa vụ, khơng thể
chuyển giao nghĩa vụ này cho bên thứ ba thực hiện thay cho mình. Nghĩa vụ cấp dưỡng
là một loại nghĩa vụ dân sự phải do chính người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện để
đảm bảo nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính đền bù ngang giá và phát sinh căn cứ vào
quan hệ thân thuộc và yếu tố tình cảm. Nghĩa vụ này chỉ phát sinh khi người được cấp
1Viện Ngôn ngữ, Từ điền Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa, tr 121.


dưỡng không thể tự minh đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu cùa mình. Nghĩa vụ cấp

dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình trên cơ sở hơn nhân, huyết thổng
hoặc ni dưỡng nhằm mục đích tương trợ, giúp đỡ người không thể tự nuôi sống mình.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 LHNGĐ “Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể
thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác Theo quy định
này, nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ mà pháp luật áp đặt đối với một thành viên trong
gia đình phải giúp đỡ các thành viên khác về phương diện vật chất khi họ khơng cịn
chung sống với nhau, trong điều kiện thành viên đó là người chưa thành niên, người đã
thành niên mà khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình hoặc
gặp khó khăn, túng thiếu. Nghĩa vụ cấp dưỡng là một nghĩa vụ đặc thù không thể
chuyển giao cho người khác và cũng không thể thay thể bằng một nghĩa vụ khác.
1.1.2. Khái niệm thi hành án dãn sự
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thi hành là “thực hiện điều đã chính thức quyết
định”2. Theo khái niệm này, thi hành án là việc tồ chức thực hiện các bản án, quyết định
của Tòa án trên thực tế. Hoạt động thi hành án là hoạt động làm cho các bản án, quyết
định của Tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm quyền khác được thực thi trên
thực tế. Hoạt động thi hành án đóng vai trị vơ cùng quan trọng, góp phần giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Theo Điều
106 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chù nghĩa Việt Nam khắng định năm 2013: “Bủn
ủn, quyết định của Tịa án nhản dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tô chức,
cá nhân tôn trọng; cơ quan, tô chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chinh chấp hành
”3. Theo quy định này, các bản án, quyết định của Tịa án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được các cơ quan, tố chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.
Theo nghĩa chung, thi hành án dân sự là thực hiện bản án, quyết định dân sự của
Tòa án, trọng tài, hội động xử lý vụ việc cạnh tranh. 4 Theo khái niệm này, thi hành án
dân sự là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật theo
2Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Vãn hóa thơng tin, Hà Nội, tr. 1559
3Quốc Hội (2013) Hiến pháp nước cộng hòa xà hội chủ nghĩa Việt Nam
4Trường Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Luật Thi hành án dân sự Việt Nam, NXB. Công an nhân dân
Hà Nội, 2019, tr.10.



trình tự, thủ tục pháp luật quy định do cơ quan nhà nước có thấm quyền thực hiện, nhằm
đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định hiệu quả của quản lý nhà nước, bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động làm cho bản án, quyết định của Tòa
án, quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định của Trọng tài thương
mại Việt Nam; bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng
tài nước ngồi đã được Tồ án Việt Nam cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam được
thực thi trên thực tế, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Từ phân tích trên, thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền, theo trình tự, thú tục do luật định, hiện thực hóa các quyết định trong bán án,
quyết định cúa Tòa án, quyết định của các tổ chức thẩm quyền khác nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích họp pháp của Nhà nước, cơng dân và các chủ thể có liên quan.
1.1.3. Khái niệm thi hành án dãn sự về cấp dưỡng
Thi hành án dân sự về cấp dưỡng được hiểu là hoạt động của cơ quan có thấm
quyền tiến hành các hoạt động thực hiện các bản án, quyết định về cấp dưỡng của Tòa
án theo quy định pháp luật. Cơ quan thi hành án dân sự và Châp hành viên là người
được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định.
về nguyên tắc, khi bản án, quyết định của Tòa án về cấp dưỡng đã có hiệu lực
pháp luật được các bên đương sự tự nguyện thi hành. Trường hợp người phải thi hành án
không tự nguyện thi hành, cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự về cấp dưỡng là việc cơ quan thi hành án
dân sự và Chấp hành viên, tổ chức thi hành các quyết định về cấp dưỡng theo trình tự,
thú tục pháp luật quy định.
Thi hành án dân sự về cấp dưỡng là một hình thức xử lý tài sản của người phải
thi hành án (người cấp dường) trong quá trình cưỡng chế thi hành án nhằm đàm bảo
quyền và lợi ích họp pháp của người được thi hành án. Thi hành án dân sự về cấp dưỡng
là phương thức thực hiện các bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực, tạo điều kiện
đế cơ quan thi hành án dân sự thực hiện tốt nhiệm vụ của









I

•••

••

mình và đảm bảo bản án, quyết định có hiệu lực trên thực tế.
Từ phân tích trên, thi hành án dân sự về cấp dưỡng là hoạt động của cơ quan có
thẩm quyền, tố chức thực hiện việc thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng được quyết định trong
các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhằm đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của người được cấp dưỡng.
1.2. Các trường hợp tự nguyện thi hành án về cấp dưỡng
1.2.1. Tự nguyện thì hành án về cấp dưỡng khi cơ quan thi hành án chưa
han hành quyết định thi hành án
Tự nguyện thi hành án về cấp dường là trường hợp các bên đương sự tự thỏa
thuận với nhau về việc thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng mà không thông qua cơ quan thi
hành án.
Theo Điều 6 LTHADS: “Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu
thỏa thuận đó khơng vi phạm điều cấm của pháp luật và không trải với đạo đức của xã
hội. Ket quả thi hành án theo thỏa thuận được công nhận. Theo yêu cầu của đương sự,
Châp hành viên có trách nhiệm chứng kiên việc thỏa thuận vê thi hành án Theo quy
định này, đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án và kết quả thởa thuận được

công nhận nếu việc thỏa thuận đó khơng vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã
hội.
Qua thực tiễn thi hành án dân sự về cấp dường tác giả nhận thấy có những khó
khăn, bất cập như sau:
Thứ nhất, người phải thi hành án lợi dụng việc thỏa thuận thi hành án để tấu tán
tài sản.
Theo khoản 1 Điều 5 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP: Trường họp đương sự thỏa
thuận trước khi yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu nhưng cơ quan thi hành án dân sự
chưa ra quyết định thi hành án thì thỏa thuận đó phải lập thành văn bản nêu rõ thời gian,
địa điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký hoặc điềm chỉ của các bên tham gia thỏa
thuận. Đương sự có nghĩa vụ tự thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận.
Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận mà


thời hiệu u cầu thi hành án vẫn cịn thì bên có quyền được yêu cầu thi hành án đối với
phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
Theo quy định này, việc thỏa thuận thi hành án được pháp luật ghi nhận và tôn
trọng. Tuy nhiên, nếu người phải thi hành án lợi dụng việc thỏa thuận thi hành án để tẩu
tán tài sản, tùy theo hành vi tẩu tán mà Chấp hành viên áp dụng các biện pháp xử lý tài
sản khác nhau theo quy định.
Biểu hiện của trường họp này là:
Một, chuyển dịch tài sản giữa người phải thi hành án và người khác thông qua
việc bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho tài sản từ khi bản án có hiệu lực


pháp luật5. Khi thực hiện việc này, người phải thi hành án nhằm mục đích chuyển quyền
sở hữu tài sản cho người khác.
Hai, việc chuyển dịch tài sản thông qua việc thế chấp, cầm cố tài sản cho người
khác trước thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm và trước khi bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật.

Ba, chuyến dịch tài sản giữa người phải thi hành án và người khác thông qua
việc bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho và các giao dịch khác được thực hiện
sau thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm và sau thời điểm bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật nhưng khơng sử dụng số tiền có được để thi hành án.
Ví dụ: Theo Quyết định số 07/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12/01/2018 của Tòa án
nhân dân huyện Chợ Lách, tỉnh Ben Tre về việc cơng nhận thuận tình ly hơn và sự thỏa
thuận của các đương sự, theo đó: Ơng Trần Hữu Tân và bà Nguyễn Thị Tố Quyên có
một người con chung là Trần Hữu Thịnh, sinh ngày 26/02/2012. Hai người thống nhất
với nhau sau khi ly hôn bà Nguyễn Thị Tố Qun được quyền trực tiếp ni con. Ơng
Trần Hữu Tân có nghĩa vụ cấp dưỡng ni con 650.000 đồng (sáu trăm năm mươi nghìn
đồng)/tháng kể từ ngày 12/01/2018 cho đến khi cháu Thịnh trịn 18 tuổi.
Giữa ơng Tân và bà Qun có thỏa thuận về việc ơng Tân tự nguyện thi hành án.
Sau đó, ơng Tân khơng cấp dưỡng cho cháu Thịnh. Ngày 12/02/2019, bà Nguyễn Thị Tố
Quyên đã làm đơn yêu cầu thi hành án gửi đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ
Lách, tinh Bốn Tre đề buộc ông Trần Hữu Tân phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Qua xác minh cho thấy, ông Tân có tài sản là diện tích 200m 2 đất vườn. Tuy
nhiên, ngày 05/2/2018 ông Tân đã lập hợp đồng tặng cho diện tích đất nêu trên cho anh
trai của mình. Đến ngày 15/2/2018 thì đã hồn tất việc sang tên diện tích 200m 2 đất tại
Văn phịng cơng chứng.6
Từ vụ án trên, tác giả nhận thấy:
5Điều 24 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 cùa Chính phù sửa đơi, bơ sung một số điêu cùa
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phú quy định chi tiết và hướng dần thi hành một số điều
của Luật Thi hành án dân sự.
•••
6Quyết định số: 07/2018/QĐST-HNGĐ “V/v cơng nhận thuận tình ly hơn và sự thỏa thuận cua các
đương sự” của Tịa án nhân dân huyên Chợ Lách, tỉnh Ben Tre.


Một, thỏa thuận giữa ông Tân và bà Quyên là thỏa thuận về việc tự nguyện thi
hành án mà không thơng qua cơ quan thi hành án. Ơng Tân đã thỏa thuận sẽ tự nguyện

thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Thịnh nên bà Qun đã khơng có đơn yêu cầu
thi hành án.
Hai, ông Tân đã lợi dụng việc thỏa thuận thi hành án nhầm đế tẩu tán tài sản.
Tuy đã thỏa thuận về việc tự nguyện thi hành án, nhưng ông Tân đã thực hiện giao dịch
liên quan đến tài sản thi hành án mà không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ba, vì giao dịch liên quan đến tài sản phải thi hành án của ông Tân đã hồn thành
việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng. Vì vậy, Chấp hành viên không thể kê biên, xứ lý tài
sản của ông Tân mà phải thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 LTHADS. Chấp
hành viên cần phải có căn cứ để xác định giao dịch liên quan đến tài sản của ông Tân
nhằm để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ. Đây là một vấn đề vô cùng khó khăn đối
với Chấp hành viên.
Pháp luật quy định đương sự có quyền thỏa thuận về việc thực hiện nghĩa vụ thi
hành án, nhưng không phải ai cũng sử dụng quyền này vì mục đích tốt, vì lợi ích của
người được thi hành án nói chung hay người được cấp dưỡng nói riêng. Một số người
lợi dụng quyền thỏa thuận thi hành án mà pháp luật cho phép để trốn tránh việc thực
hiện nghĩa vụ.
Để giải quyết vấn đề trên, theo tác giả khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự
năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 cần được sửa đổi như sau:
“Trong trường hợp cân thiêt đê đảm bảo quyên lợi củci người được thi hành án
thì Chấp hành viên thơng báo cho người được thi hành án để yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch vơ hiệu hoặc u cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao
dịch đó
Lý do: Chấp hành viên rất khó có thể tìm được căn cứ để có thể chứng minh giao
dịch liên quan đến tài sản của người phải thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng. Chấp hành viên không thể thông báo cho người được thi hành án để yêu cầu Tịa
án tun bố giao dịch vơ hiệu hoặc u cầu cơ quan có thẩm quyền húy giấy tờ liên
quan đến giao dịch đó. Vậy nên, người phải thi hành án có thể thuận lợi thực hiện các


giao dịch liên quan đến tài sản mà không sừ dụng số tiền thu được để thực hiện nghĩa vụ

cấp dưỡng, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cúa người được cấp dưỡng.
Vì vậy, cần sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm
2008, sửa đối, bổ sung năm 2014 để Chấp hành viên có thể chủ động hon trong việc
thơng báo cho người được thi hành án có thể yêu cầu Tịa án tun bố giao dịch vơ hiệu
hoặc u cầu cơ quan có thấm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó. Khi phát
hiện người phải thi hành án có hành vi thực hiện các giao dịch đế tẩu tán tài sản, để có
thế kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của người được thi hành án.
Thứ hai, người phải thi hành án lợi dụng việc thỏa thuận thi hành án để không
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con chủ yếu xuất hiện khi quan hệ hôn nhân giữa
cha, mẹ khơng cịn tồn tại. Thơng thường, sau khi vợ, chồng ly hôn, một bên sẽ tự giác
cam kết việc cấp dường với sự đồng ý của bên kia hoặc cả hai sẽ thỏa thuận về việc ai
nuôi con và ai sẽ cấp dưỡng. Việc cấp dưỡng này không những để duy trì mối quan hệ
gia đình, thể hiện trách nhiệm của cha, mẹ đối với con mà còn để đảm bảo cuộc sống và
sự phát triển của con sau khi cha mẹ ly hôn.


Biêu hiện của trường hợp này là khi ly hôn cha, mẹ thường thỏa thuận vê việc
cấp dưỡng nuôi con. Nhưng trên thực tế, sau khi thỏa thuận về việc cấp dưỡng, bên có
nghĩa vụ thường khơng thực hiện nghĩa vụ, trốn tránh, hứa hẹn nhiều lần đế không thực
hiện nghĩa vụ. Vì muốn giữ tình cảm giữa cha, con hoặc mẹ, con, nên người trực tiếp
nuôi con thường không muốn yêu cầu thi hành án mà trông chờ vào sự tự giác của người
phải thi hành án. Ngược lại, khi nhận được sự thông cảm, đồng ý cùa người trực tiếp
ni con thì người phải thi hành án lại cố tình kéo dài, khơng thực hiện việc cấp dưỡng
và kèm theo đó là viện dẫn ra nhiều lý do để trốn tránh.
Ví dụ: Theo bản án số 19/2016/HN-ST ngày 19/5/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bến Tre, về việc xin ly hôn giữa anh Phạm Văn Du và chị Bùi Thị Mộng Tuyền. Theo
đó, anh Du có trách nhiệm cấp dưỡng cho cháu Phạm Thị Ngọc Châu, sinh ngày
11/9/2014 mồi tháng là 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) cho đến khi cháu Châu tròn 18

tuổi và chị Tuyền được trực tiếp ni con.
Chị Tuyền và anh Du đã có thỏa thuận về việc anh Du sẽ tự nguyện thi hành số
tiền cấp dưỡng nêu trên. Tuy nhiên, anh Du đã lợi dụng sự thỏa thuận thi hành án, không
tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dường nuôi con. Sau nhiều lần trong chờ vào sự hứa
hẹn của anh Du, nhưng anh Du vẫn không thực hiện, đến ngày 18/5 /2017 chị Bùi Thị
Mộng Tuyền buộc phái có đon yêu cầu thi hành án gửi đến Cục Thi hành án nhân dân
tỉnh Bến Tre với nội dung yêu cầu anh Phạm Văn Du thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
con7.
Từ vụ án trên, tác giả nhận thấy: việc thỏa thuận giữa anh Du và chị Tuyền trong
việc cấp dưỡng nuôi cháu Châu là việc mà anh Du đã có dự liệu trước là sẽ không thực
hiện. Biểu hiện cụ thế của hành vi này là anh Du đã không thực hiện theo nội dung bản
án của Tòa án nhân dân tỉnh Bển Tre. Lợi dụng việc thỏa thuận với chị Tuyền về việc sẽ
tự nguyện thực hiện nghĩa vụ để chị Tuyền khơng có đơn u cầu thi hành án, sau đó
anh Du đã trổn tránh khơng thực hiện nghĩa vụ. Ngoài ra, việc chị Tuyên yêu câu Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Bên Tre buộc anh Du thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là
căn cứ để xác định anh Du trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Ngược lại, chị Tuyền đã không kiên quyết với việc anh Du không thi hành án. Lẽ
7Bân án số: 19/2016/HN-ST “V/v Xin ly hơn” của Tịa án nhân dân tỉnh Ben Tre.


ra, chị Tuyền phải có đơn yêu cầu anh Du thi hành án gửi đến cơ quan thi hành án sớm
hơn. Vì sự khơng kiên quyết của chị Tuyền mà ảnh hưởng đến quyền lợi của bẻ Châu, vì
để càng lâu thì số tiền cấp dường càng cao và khả năng được thi hành án cua chị Tuyền
càng không được đáp ứng.
Việc thỏa thuận thi hành án đề không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng không chỉ
xáy ra đối với trường hợp cấp dưỡng cho con mà còn xảy ra giữa vợ, chồng hoặc giữa
những thành viên khác trong gia đình. Biểu hiện điền hình của các trường hợp này là
người phải thi hành án ln tìm mọi lý do để trì hỗn, trốn tránh việc thi hành án. Hành
vi lợi dụng việc thỏa thuận thi hành án để trốn tránh nghĩa vụ thường xảy ra nhiều đối
với nghĩa vụ cấp dưỡng, bởi vì người phải thi hành án thấy được điểm yếu trong các

quan hệ cấp dường là các bên đương sự trong thi hành án ln có mối quan hệ thân
thích, huyết thống nên chủ yếu họ sẽ xử sự theo đạo đức, tình nghĩa, thói quen là chính.
Chính vì nhận thấy điểm yếu này, mà người phải thi hành án thường khai thác tối đa đề
nhằm trốn tránh việc thi hành án.
Theo khoản 2 Điều 6 LTHADS có quy định: “Trường hợp đương sự khơng thực
hiện đủng thỏa thuận thì có quyền u cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần
nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định. ” Theo quy định này,
nếu đương sự đã thỏa thuận thi hành án mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
thỏa thuận thi có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành nghĩa vụ chưa được
thi hành theo nội dung bản án.
Việc thỏa thuận thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng của đương sự về bản chất là thỏa
thuận dân sự, trên cơ sở tự nguyện, nên được ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên,
việc thỏa thuận thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng của đương sự trong một số trường họp
khơng nhằm mục đích để thi hành án mà nhằm mục đích để khơng thực hiện nghĩa vụ
câp dưỡng. Những trường hợp này nêu có yêu câu của người được thi hành án thì Chấp
hành viên sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Từ thực tiễn trên, theo tác giả, Điều 6 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa
đổi, bổ sung năm 2014 cần được hướng dẫn theo hướng như sau:
“1. Đương sự có quyên thỏa thuận vê việc thi hành án, nêu thỏa thuận đó khơng


vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo
thỏa thuận được công nhận.
Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc
thỏa thuận thi hành án. Thỏa thuận thi hành án được chấp hành viên ghi nhận và có giả
trị bũt buộc thi hành đôi với đương sự.
2. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có qun u cầu
cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung
thỏa thuận ”.
Lý do: Thỏa thuận giữa các đưong sự là thỏa thuận dân sự trên cơ sở tự nguyện.

Vi vậy, khi đương sự đã thỏa thuận về việc thi hành án thì thỏa thuận này phải có tính
ràng buộc và đảm bảo thi hành. Quy định này nhằm đảm bảo các đương sự tơn trọng và
chấp hành nghiêm thỏa thuận cùa mình.
1.2.2. Tự nguyện thi hành án về cấp dưỡng khi cơ quan thi hành án dã ban
hành quyết định thi hành án
Tự nguyện thi hành án ghi nhận sự thể hiện ý chí và mong muốn thực hiện nghĩa
vụ của người phải thi hành án8. Tự nguyện thi hành án về cấp dưỡng khi cơ quan thi
hành án đã ban hành quyết định thi hành án là việc người phải thi hành án sau khi nhận
được quyết định hoặc được thông báo hợp lệ về việc thi hành án từ cơ quan thi hành án,
sẽ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ câp duỡng, cơ quan thi hành án không phải áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 LTHADS “Người phải thi hành án có điều
kiện thi hành án mà khơng tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định của Luật này ” và quy định tại Điều 45 LTHADS “Thời hạn tự nguyện thi hành án
là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc
được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án."
Theo khoản 2 Điều 5 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP: Trường hợp cơ quan thi
hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án, đương sự vần có quyền tự thỏa thuận thi
8Lê Thị Ngời (2010), "Băn về việc áp dụng biện pháp tự nguyện trong thi hành ân dán sự”, Tạp chỉ dân
chù vá phảp luật, số 5 trang 24-28.


hành án. Thỏa thuận phải bằng văn bản thể hiện rõ thời gian, địa điếm, nội dung thởa
thuận, thời hạn thực hiện thỏa thuận, hậu quả pháp lý đối với việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên
tham gia. Đương sự phải chịu trách nhiệm về nội dung thóa thuận khơng vi phạm điều
cấm của luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhàm trốn tránh phí thi hành án.
Trường hợp các bên không tự nguyện thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa
thuận thì cơ quan thi hành án dân sự căn cứ nội dung quyết định thi hành án và kết quả

đã thi hành theo thỏa thuận, đề nghị cùa đương sự để tố chức thi hành. Trường hợp cơ
quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án mà đương sự thỏa thuận về việc không
yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định
thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án
đối với nội dung thỏa thuận đó.
Khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến và ký tên
vào văn bản thòa thuận. Việc chứng kiến thỏa thuận phải được thực hiện tại trụ sở cơ
quan thi hành án dân sự. Trường hợp phát hiện thỏa thuận vi phạm điều cấm của luật,
trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích họp
pháp cúa người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án thì Chấp hành viên từ chôi
chứng kiên thỏa thuận nhưng phải nêu rõ lý do từ chòi vào biên bản thỏa thuận.
Theo các quy định trên, nếu có điều kiện thi hành án mà người phải thi hành án
không thực hiện nghĩa vụ cẩp dưỡng thì bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn đề người
phải thi hành án được tự nguyện thi hành là 10 ngày, kế từ ngày nhận được quyết định
hoặc được thông báo họp lệ quyết định thi hành án.
Nhà nước luôn tạo điều kiện đế người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ theo
bản án. Tùy thuộc vào từng điều kiện, khả năng của mình, người phải thi hành án được
lựa chọn cách thức thi hành án phù hợp. Người phải thi hành án khi tự nguyện thi hành
án sẽ có nhiều thuận lợi hơn về thời gian, cách thức, nội dung và phạm vi thực hiện việc
thi hành án so với việc bị cưỡng chế thi hành án.
Qua thực tiễn thi hành án dân sự về cấp dưỡng khi cơ quan thi hành án đã ban


×