Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Quy định của pháp luật việt nam về thừa kế không theo di chúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.58 KB, 55 trang )

ĐẠI HỌC QUOC GIA THANH PHO HO CHI MINH
TRƯỜNG ĐAI HOC KINH TẾ - LUẬT
NGUYỀN CHÍ HẢI

QUY ĐỊNH CƯA PHAP LƯẠT VIẸT NAM VE
THỪA KÉ KHÔNG THEO DI CHÚC
Ngành: Luật Dân sự & Tổ tụng Dân sự
Mã số: 8380Ỉ03

LUẬN VẤN THẠC sĩ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẢN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NẢM 2022
LỊI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học của cá nhân
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Nhung. Các dẫn
chứng sử dụng trong luận văn được trích dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là hoàn
toàn trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
NGƯỜI VIÉT

Nguyễn Chí I lải


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TÁT

ADN

Deoxyribonucleic acid - Phân tử mang
thơng tin di truyền


BLDS

Bơ lt Dân sư
•••

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

HĐXX

Hội đồng xét xử

HN&GĐ

Hơn nhân và Gia đình

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tồ án nhân dân tối cao

UBND


ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu..................................................................................................2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................3
•••“
3.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn.........................................................................3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn........................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................................4
4.1. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................................4
4.2. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................................4
5. Phuong pháp nghiên cứu............................................................................................4
6. Kết cấu luận văn.........................................................................................................5
CHƯƠNG 1 NGƯỜI CÓ QUYỀN THỪA KẾ.............................................................7
1.1. Hàng thừa kế............................................................................................................8
1.1.1. Khái niệm hàng thừa kế.........................................................................................8
1.1.2. Quy định pháp luật về hàng thừa kế......................................................................8
1.1.3. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về hàng thừa kế.....................................11
1.1.4. Kiến nghị hoàn thiện quy định về hàng thừa kế..................................................20
1.2. Thừa kế thế vị.........................................................................................................23

1.2.1. Khái niệm thừa kế thế vị......................................................................................23


1.2.2. Quy định pháp luật về thừa kế thế vị...................................................................24
1.2.3. Một số khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng quy định pháp luật về thừa
kế thế vị.........................................................................................................................25
1.2.4. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế thế vị.................................29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................................30
CHƯƠNG 2 XÁC ĐỊNH, THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN....................31
2.1. Xác định di sản thừa kế.........................................................................................31
2.1.1. Khái niệm di sản thừa kế.....................................................................................31
2.1.2. Quy định pháp luật về di sản thừa kế..................................................................31
2.1.3. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật trong việc xác định di sản thừa kế ...32
2.1.4. Một số giải pháp kiến nghị trong việc xác định di sản........................................34
2.2. Thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người chết................................................34
2.2.1............................................................................................................................... Kh
ái niệm thanh toán các nghĩa vụ tài sản do người chết đề lại........................................34
2.2.2. Quy định pháp luật về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết đề lại..............35
2.2.3. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại.......................................................................................................................36
2.2.4. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thanh toán các nghĩa vụ tài sán do
người chết để lại............................................................................................................39
2.3. Phân chia di sản thừa kế.......................................................................................40
2.3.1. Khái niệm phân chia di sán thừa kế.....................................................................40
2.3.2. Quy định pháp luật về phân chia di sản thừa kế..................................................40
2.3.3. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về phân chia di sản thừa kế..................41
2.3.4. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về phân chia di sản thừa kế...............45


KÉT LUẬN CHU ƠNG 2.............................................................................................46

KẾT LUẬN CHUNG.....................................................................................................47
DANH MUC TÀI LIÊU THAM KHẢO


1

PHẦN MỎ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thừa kế là một trong những chế định có lịch sử hình thành và phát triển khá sớm
so với rất nhiều chế định khác, là một trong những chế định quan trọng trong lĩnh vực
dân sự. Việc thừa kế ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của những chú
thể có quyền, do đó việc xảy ra tranh chấp về thừa kế là điều không thể tránh khỏi. Phần
lớn các tranh chấp về thừa kế thường gây ảnh hưởng lớn đến tình cảm của các thành
viên trong gia đình, trong nhiều trường hợp các tranh chấp liên quan đến phân chia di
sản thừa kế còn gây nên những hậu quả nặng nề ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của
các thành viên trong gia đình.
Trên cơ sở kế thừa những quy định của pháp luật về thừa kế được quy định trong
BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã có nhiều thay đổi, bổ sung mới nhằm đưa các quy
định của pháp luật phù hợp với thực tiễn khách quan của đời sống xã hội. Pháp luật về
thừa kế hiện hành của nước ta đã có sự phát triển nhất định về mặt


X





•X


••

pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến thừa kế.
Tuy nhiên, pháp luật về thừa kế cũng còn nhiều bất cập, một số vấn đề chưa được quy
định cụ thể, rõ ràng dẫn đến việc lúng túng, chưa có sự thống nhất trong việc giải quyết
một số tranh chấp.
Thực tiễn quá trình giải quyết các tranh chấp về thừa kế gặp rất nhiều khó khăn,
thậm chí phái xét xử nhiều lần ở nhiều cấp Toà khác nhau làm mất nhiều thời gian, tốn
nhiều chi phí của Nhà nước và đương sự. Việc này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau,
trong đó phải kể đến việc các quy định của pháp luật về thừa kế còn chưa cụ thể, thiểu
đồng bộ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau là tiền đề cho việc áp dụng không nhất quán
các quy phạm pháp luật.
Vì vậy, người viết quyết định lựa chọn đề tài: “Quy định của pháp luật Việt
Nam về thùa kế không theo di chúc” để làm đề tài Luận văn tốt nghiệp cúa mình.


2. Tình hình nghiên cún
Thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng là một vấn đề rộng, phức
tạp, có lịch sử phát triển lâu đời, do đó đề tài về thừa kế được rất nhiều sự quan tâm cúa
nhiều tác giả, nhóm tác giả, có thể kể đến một sổ cơng trình tiêu biểu như sau:
1. Sách: Đồ Văn Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam Bản án và bình luận Bản án
(tập 1 + 2), NXB Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam. Trong cuốn sách này tác giả đã tập
hợp, phân tích, bình luận những quyết định, bản án của Tòa án về thừa kể, làm nồi bật
lên những quy định pháp luật về thừa kế. Đồng thời với những bình luận, phân tích từ
thực tiễn tranh chấp về thừa kế thơng qua những bản án quyết định của Toà án, tác giả
đã chỉ ra những điềm ưu việt, cũng như những điểm còn hạn chế của pháp luật Việt
Nam về thừa kế, từ đó đề ra những giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật Việt Nam trên
cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xứ.
2. Sách: Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực
tiễn giải quyết tranh chấp, NXB Tư pháp. Trong cuốn sách này, thông qua việc so sánh

thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật tác giả đã làm nối bật lên những nét đặc
trưng của thừa kế theo pháp luật. Bên cạnh đó, bằng việc so sánh các quy phạm pháp
luật và quá trình áp dụng pháp luật về thừa kế trong từng thời kỳ, tác giả cũng đã làm
nổi bật lên những ưu việt của pháp luật về thừa kế.
3. Luận án Tiến sĩ Luật học: Đặng Thu Hà (2019), Thừa kế theo pháp luật theo
Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2015. Luận án đã nêu lên, bổ
sung và hoàn thiện một số vấn đề lý luận về thừa kế theo pháp luật, nêu được đặc điểm,
bản chất và tầm quan trọng của thừa kế theo pháp luật. Mặt khác, tác giả cũng đã phân
tích, bình luận một số tình huống thực tiễn, một số bản án tiêu biểu liên quan đến tranh
chấp thừa kế theo pháp luật, chỉ ra nguyên nhân cua những tồn động, hạn chế từ đó đưa
ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về thừa kế theo luật định.


Cùng với đó là nhiêu bài viêt của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đã công bố
trên các tạp chí khoa học chun ngành. Các cơng trình nghiên cứu đã giải quyết một
cách hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận liên quan đến chế định thừa kế nói
chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng. Đây thực sự là những cơng trình có giá trị cả
về khoa học lý luận và thực tiễn.
Thừa kế theo pháp luật không phải là một đề tài quá mới mẻ, nhưng với sự phát
triển nhanh của các quan hệ xã hội, các quan hệ tài sản đòi hòi cần phải có sự thay đồi
cùa các quy định pháp luật đế phù hợp hơn với điều kiện thực tế. Vì vậy, việc nghiên
cứu, đề xuất kịp thời các quy định pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ này cho phù
hợp với tinh hình thực tế là hết sức cần thiết.
•••~

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cún
3.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận vãn
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định cúa Bộ luật Dân

sự 2015 về thừa kế không theo di chúc (hay nói cách khác là thừa kế theo pháp luật) bao

gồm việc xác định người thừa kế, di sản thừa kế, thanh toán và phân chia di sản thừa kế,
tìm ra những vướng mắc, bất cập của pháp luật từ thực tiễn giải quyết tranh chấp, từ đó
đưa ra những kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng của
các quy định này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cúu của luận văn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã cơng bố, luận văn
tiếp tục nghiên cứu làm rõ các nội dung sau đây:
- Nghiên cứu phân tích các quy định pháp luật hiện hành về người thừa kế không
theo di chúc, xác định di sản, thanh toán và phân chia di sản thừa kế, đồng thời so sánh
đối chiếu với các quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 và các quy định trước đó.
- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp về người thừa kế không theo di
chúc, xác định di sản, thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong thời gian gần đây,
qua đó nêu lên những ý kiên vê tính hợp lý cũng như những điêm chưa hợp lý trong các
quy định pháp luật, những yếu tố dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng pháp luật.
- Đe xuất các giải pháp cụ thể, những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật,


nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp liên quan đến nội dung này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cú-u
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiền áp dụng quy
định của pháp luật về thừa kế không theo di chúc (thừa kế theo pháp luật) bao gồm việc
xác định người thừa kế, di sản thừa kế, thanh toán và phân chia di sản thừa kế.
4.2. Phạm vi nghiên cún
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về thừa kế
không theo di chúc (thừa kế theo pháp luật) bao gồm việc xác định người thừa kế, di sản
thừa kế, thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong phạm vi lãnh thồ Việt Nam, trừ
thừa kể theo di chúc, thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngồi và phân chia di sản
thừa kế theo thoả thuận.
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý liên quan

đến thừa kế theo pháp luật việc xác định di sản, thanh toán và phân chia di sản thừa kế
được quy định tại BLDS năm 2015, bên cạnh đó có so sánh đối chiếu với các quy định
của pháp luật về thừa kế được quy định trong BLDS 2005 và các quy định trước đó.
5. Phuong pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này người viết đã vận dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khoa học pháp lý như phân tích, so sánh, tổng hợp đối với từng nội dung cụ
thế nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra cụ
thể:
- Luận văn đã sử dụng chủ yêu các phương pháp nghiên cứu như: mô tả, khái
quát để nêu lên khái niệm về hàng thừa kế, thừa kế thế vị, di sản thừa kế, thanh toán di
sản thừa kế, phân chia di sản thừa kế; phân tích những quy định pháp luật có liên quan,
đồng thời trong quá trình phân tích người viết cũng có so sánh những quy định hiện
đang có hiệu lực này so với những quy định trước đây để làm nổi bật lên những ưu việt
cũng như hạn chế của những quy định đó.
- Bên cạnh đó luận văn cịn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác như:
phân tích, diễn giải, bình luận đế nêu lên thực trạng áp dụng quy định pháp luật về


người thừa kế theo pháp luật, việc xác định di sản, thanh tốn và phân chia di sản thừa
kế thơng qua những tình huống, sự kiện pháp lý, những bản án, quyết định của Tồ án,
từ đó nhìn nhận được những điềm cịn hạn chế trong q trình áp dụng các quy định
pháp luật trên và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế
theo pháp luật và người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu với 2 chương như sau:
Chương 1. Người có quyền thừa kế
Trong chương này người viết đã đưa ra những khái niệm và tập trung phân tích
những quy định pháp luật về xác định người có quyền thừa kế không theo di chúc bao
gồm hàng thừa kế, thừa kế thế vị, cũng như nêu lên những điểm còn hạn chế của những

quy định này dựa trên việc phân tích, bình luận thực tiễn giải quyết các vụ án về việc
xác định người thừa kế đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn
chế trên.
Chương 2. Xác định, thanh toán và phân chia di sản thừa kế
Trong chương này người viết đã nêu lên những khái niệm và phân tích những
quy định pháp luật về việc xác định di sản thừa kế, thanh tốn và phân chia di sản thừa
kê đơng thời nêu lên thực trạng của những quy định này trong quá trình áp dụng pháp
luật về việc xác định, thanh tốn và phân chia di sản thừa kế từ đó đề ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện những quy định này.


CHNG 1
NGƯỜI CĨ QUN THỪA KẾ
Nếu như tài sản do con người tạo ra thuộc sở hữu hợp pháp của họ khi cịn sống,
thì khi chết đi tài sản ấy sẽ được dịch chuyển sang cho những người thừa kể để tiếp tục
khai thác giá trị, công dụng cua tài sản đó, q trình này được gọi là thừa kế. Hiện nay
pháp luật nước ta ghi nhận thừa kế tồn tại dưới hai hình thức là thừa kế theo di chúc và
thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc chỉ xảy ra khi người chết có để lại di chúc, đồng thời di
chúc đó phải đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật 3. Theo
đó, di sản cúa người chết đế lại sẽ được phân chia cho những người được chỉ định là
người thừa kế trong di chúc.
Ngược lại, nếu người chết khơng đề lại di chúc hoặc di chúc khơng có hiệu lực
thì phần di sản ấy sẽ được chia theo pháp luật. Ngồi ra, thừa kế theo pháp luật cịn
được áp dụng trong các trường hợp người được chỉ định làm người thừa kế chết trước
hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc cơ quan tổ chức không còn tồn tại vào
thời điếm mở thừa kế; người được chỉ định làm người thừa kế trong di chúc không có
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản; phần di sản không được định đoạt trong di
chúc; phần di sản trong di chúc khơng có hiệu lực pháp luật; phần di sản mà người được
chỉ định làm người thừa kế theo di chúc khơng có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di

sản, chết trước hoặc cùng thời điềm với người lập di chúc hoặc cơ quan tổ chức khơng
cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo đó, những trường hợp trên được gọi là thừa kế không theo di chúc (thừa kế
theo pháp luật). Vậy thừa kế không theo di chúc là việc tài sản của người chết được dịch
chuyển sang cho người sống không theo ý chí của người để lại di sản. Người có quyền
thừa kế không theo di chúc là những người thuộc diện, hàng thừa kế và thừa kế thế vị.
1.1. Hàng thừa kê

3Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015


1.1.1.

Khái niệm hàng thừa kế

Hàng thừa kế là thứ tự những người thuộc diện thừa kế được hưởng di sản của
người chết để lại dựa trên những trình tự theo quy định pháp luật. Hàng thừa kế được
xác định dựa trên mối quan hệ thân thích với người để lại di sản mà khơng phân biệt độ
tuổi, giới tính, địa vị xã hội, trình độ hay năng lực hành vi dân sự. Mọi người trong cùng
một hàng thừa kế đều nhận được một phần di sản bằng nhau. Do đó có thể hiểu một
cách khái quát “Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần
gũi với người chết và theo đó họ cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế
mà người chết đế lại4
1.1.2.

Quy dinh pháp luật về hàng thừa kế

Pháp luật Việt Nam quy định về hàng thừa kế như sau:
- “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;

- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ha gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chủ ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là
bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là
cụ nội, cụ ngoại. ”5
Hàng thừa kế thứ nhất:
Hàng thừa kế này bao gồm hai mối quan hệ thừa kế là quan hệ hôn nhân (vợ chồng) và quan hệ cha, mẹ - con.
Môi quan hệ vợ chông: Theo quy định trên thì vợ hoặc chơng có qun hưởng
một phần di sản của bên cịn lại nếu hơn nhân của họ vẫn còn tồn tại về mặt pháp lý vào
4Phạm Vãn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thục tiền giái quyết tranh chấp, NXB:
Tư pháp, tr.296
5Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015
•••


thời điềm mở thừa kế. Trường hợp, vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kỳ hơn
nhân thì khi phát sinh quan hệ thừa kế người còn lại vẫn được hưởng một phần di sản
mà người mà người kia để lại. Trường hợp, vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kỳ
hơn nhân hoặc đang trong q trình giải quyết ly hôn, hay người đang là vợ, chồng của
một người tại thời điểm người đó chết và kết hơn với một người khác sau thời điểm
người đó chết thì khi phát sinh quan hệ thừa kế thì vợ hoặc chồng vẫn được hưởng một
phần di sản của người kia để lại6 vì cơ bản tại thời điềm phát sinh quan hệ thừa kế, mối
quan hệ hôn nhân cua họ vẫn còn, chưa chấm dứt, đáp ứng đủ các điều kiện về diện và
hàng thừa kế theo quy định pháp luật do đó họ được xem là người thừa kế của người đã
chết.
Mối quan hệ giữa cha, mẹ - con:
Thứ nhất, nếu quan hệ huyết thống thì đó là những người có cùng dịng máu trực
hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Theo đó cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã

sinh người đó ra và được pháp luật thừa nhận. Các con đẻ không phân biệt con trai, con
gái, con trong giá thú hay con ngồi giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay khơng có
năng lực hành vi dân sự đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
Thứ hai, nếu quan hệ ni dường thì đó là quan hệ giữa những người ni dưỡng
với nhau. Cha nuôi, mẹ nuôi của một người là người đã nhận người đó làm con ni
theo quy định pháp luật. Đồng thời quan hệ nuôi dường phài tồn tại cho đến thời điểm
mở thừa kế.
Thứ ba, quan hệ thừa kế giữa con riêng và bổ dượng, mẹ kế: con riêng và bố
dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con mẹ con thì được
thừa kế di sản của nhau.
Hàng thừa kê thứ hai:
Trong hàng thừa kế này có hai mối quan hệ thừa kế như sau:
Mối quan hệ thừa kế giữa ông bà với cháu: Theo quy định tại điếm b khoản 1
Điều 651 BLDS 2015 thì căn cứ để xác định mối quan hệ giữa ông bà và cháu chỉ dựa
vào quan hệ ruột thịt chứ không dựa vào quan hệ nuôi dưỡng. Ông bà nội, ông bà ngoại
6Điều 655 Bộ Luật Dân sự năm 2015


của một người là người đã sinh ra cha đỏ, mẹ đẻ của người đó. Pháp luật khơng thừa
nhận quan hệ thừa kế giữa cha đẻ, mẹ đẻ của một người với con nuôi của họ.
Mối quan hệ thừa kế giữa anh chị em ruột: Quan hệ thừa kế này được hình thành
dựa trên mối quan hệ huyết thống. Theo đó một người được xem là anh chị em ruột với
người khác khi có cùng huyết thống kể cả giữa họ chỉ có một mổi quan hệ huyết thống
về bên người cha hoặc người mẹ. Pháp luật không thừa nhận mối quan hệ thừa kế giữa
anh chị em từ quan hệ nuôi dưỡng.
Hàng thừa kế thứ ha:
Trong mối quan hệ thừa kế thứ ba có hai mối quan hệ thừa kế như sau:
Quan hệ thừa kế giữa cụ với chắt
Để xác định đúng mối quan hệ này, trước hết cần phải hiểu cho đúng thế nào là
“cụ” là “chắt”: cụ ở những vùng miền khác nhau được thể hiện dưới nhiều tên gọi khác

nhau, có nơi gọi là cụ, có nơi gọi là cố, nhưng đều chung nhất cụ là người sinh ra ông bà
(ông bà nội, ông bà ngoại); Chắt là con đẻ của cháu (cháu nội, cháu ngoại) của người để
lại di sản hay là cháu (cháu nội, cháu ngoại) của con đẻ cùa người để lại di sản, tức là
đời thứ tư trong mối quan hệ huyết thống.
Quan hệ thừa kế giữa hác ruột, chủ ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột
Bác ruột, chú ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột của một người là anh chị em ruột
của cha đẻ hoặc mẹ đẻ của người đó. Cũng như những mối quan hệ khác thì này cũng
được hình thành dựa trên mối quan hệ huyết thống.


1.1.3. Thực trạng áp dụng quy đinh pháp luật vê hàng thừa kê
Quy định về hàng thừa kế được ra đời từ rất sớm, kể từ thời kỳ phong kiến các
nhà làm luật đã đặt ra những quy định này nhằm đảm bảo cho di sản của người chết
được dịch chuyển sang người thừa kế theo một trật tự nhất định. Trải qua nhiều lần sửa
đổi bồ sung, quy định về hàng thừa kế đã ngày một hoàn thiện, phù hợp hơn với thực
tiễn xã hội. Đến nay, BLDS năm 2015 đã kế thừa toàn bộ quy định của BLDS năm 2005
về hàng thừa kế, quy định này đã bộc lộ được những ưu việt, phù hợp với sự phát triển
cúa kinh tế - xã hội cũng như thuần phong mỹ tục cúa dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên,
trong quá trình áp dụng những quy định này cũng gặp phải một số khó khăn có thể kể
đến như:
Thứ nhất: mối quan hệ hôn nhân là một trong những mối quan hệ chủ yếu ở
hàng thừa kế thứ nhất. Tuy nhiên, ở từng thời kỳ khác nhau thì pháp luật về hơn nhân lại
có những quy định khác nhau. Do đó việc xác định giữa họ có tồn tại quan hệ hôn nhân
trong những trường hợp này hay không cũng gặp phải một số khó khăn nhất định, thậm
chí cịn có trường hợp xác định sai làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
bên có quyền.
Năm 1976 ơng T V R và bà Đ T s chung Sống với nhau như vợ chồng, không
đãng đăng ký kết hôn, có 02 con chung. Năm 1980, cả hai ly thân, khơng cịn sống
chung với nhau nữa. Khống vài tháng ơng R gặp và sổng chung với bà T T N tại Bà
Rịa, khơng đăng kỷ kết hơn và khơng có con chung, việc cưới bà N gia đình ơng R biết.

Năm 2002 ông R chết không để lại di chúc, bà s khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đổi với
phần di sản của ông R.
Bản án Dãn sự sơ thâm xác định người thừa kế của ông R bao gồm: bà Trần Thị
N; bà Trần Thị S; bà Trần Thị Bích V; ơng Trần Văn E.
Bản án phúc thẩm xác định hàng thừa kế của ông R gồm: bà Trần Thị Bích V, bà
Trần Thị Bích p, bà Trần Thị N, mẹ ruột bà Trần Thị L (đã chết) người thừa


kế của bà L ỉà bà Bùi Thị X, bà Bùi Thị ư, bà Bùi Thị c, bà Bùi Thị B7.
Trong trường hợp trên người viết cho rằng cần phải công nhận bà s là vợ họp
pháp và thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ơng R. Cịn bà T.T.N mặc dù sống chung đến
khi ông R mất nhưng không được công nhận là vợ và không phải là người thừa kế cùa
ơng R. Bởi vì quan hệ hơn nhân giữa ông R và bà s vẫn chưa chấm dứt cho đến khi ông
R chết.
Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35/2000 của Quốc hội,
trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng
ký kết hơn thì được khuyến khích đăng ký kết hơn; trong trường hợp có u cầu ly hơn
thì được Tồ án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2000
đề giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Trong trường họp này mối quan hệ hôn
nhân của họ được xác định kể từ ngày bắt đầu sống chung với nhau như vợ chồng và
chấm dứt bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc một trong các bên
chết.
Do vậy, bà s chung sống với ông R trước năm 1980, không đăng ký kết hơn,
được gia đình hai bên biết và cơng nhận, có hai con chung, khơng có quyết định ly hơn
nên được công nhận là vợ họp pháp. Bà N mặc dù đã ở với ông R từ năm 1980 đến khi
ông R chết nhưng việc sống chung này không được pháp luật công nhận là vợ chồng
hợp pháp do ông R lúc này đã có vợ là bà s (do được công nhận hôn nhân thực tế) và
chưa ly hôn. Do đó việc ơng R sống chung với bà N như vợ chồng là vi phạm chế độ
hôn nhân một vợ một chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Vì vậy, hơn
nhân giữa ơng R và bà N không được công nhận, bà N không phải là vợ hợp pháp cùa

ơng R. Do đó theo người viết thì trong trường hợp này bà N khơng phải là người thừa kế
của ơng R, do đó nhận định của Tồ án cấp phúc thẩm là khơng phù họp.
Việc pháp luật thừa nhận những trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn là cần thiết để giải quyết những tàn dư cua chê độ cũ.
Tuy nhiên, việc thừa nhận này đã gây rât nhiêu khó khăn cho Tồ án trong việc giải
quyết các vụ án về thừa kế có liên quan đến vấn đề hơn nhân thực tế như đã phân tích
7Bản án số: 112/2019/DS-PT ngày 06 tháng 11 năm 2019 của TAND tinh Bà Rịa - Vũng Tàu


phía trên. Do đó, vấn đề này cần phải sớm được loại bỏ.
Thứ hai, đối với quan hệ giữa cha, mẹ - con, khi các bên có tranh chấp trong việc
xác định mối quan hệ cha con, mẹ con giữa người được hưởng di sản và người để lại di
sản thì việc giám định ADN có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc làm sáng tở vụ án,
là căn cứ quan trọng mang tính khoa học để có thể xác định giữa họ có tồn tại quan hệ
huyết thống hay không. Tuy nhiên, việc thu thập mẫu giám định trong một số trường
hợp là vơ cùng khó khăn như trong trường hợp người được giám định đã chết, việc khai
quật mồ mả người chết lên để giám định là khơng phù hợp với phong tục tập qn do đó
thường không nhận được sự đồng ý của các đưong sự. Thông thường trong trường hợp
này để xác định quan hệ cha con, mẹ con thường được thực hiện giữa những anh chị em
ruột có nghĩa là cần xét nghiệm mối quan hệ huyết thống giữa người cần được xác định
cha con với con ruột của người đã chết xem giữa họ có mối quan hệ huyết thống (anh,
chị, em) hay khơng để từ đó xác định giữa người cần được xác định và người chết có
mối quan hệ cha con, mẹ con hay không. Tuy nhiên việc này cũng tồn tại một số rủi ro:
Nguyên đơn bà Hồng khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của vợ chồng cụ
Đặng và cụ Linh. Trong quá trình giải quyết vụ án bà Thắng có đơn yêu cầu được chia
phần di sản thừa kế của cụ Đặng với lý do bà là con đè của cụ Đặng.
Bà Thắng có yêu cầu giám định ADN và cung cấp cho Tòa khả năng thực hiện
giám định mặc dù trước đó bà khơng đồng ý việc giám định bởi vì khơng biết có thế xác
định huyết thống giữa bà Thẳng với vụ Đặng thông qua việc giám định ADN giữa bà
Thắng với bà Hồng hay khơng, cịn nếu phải khai quật mộ của cụ Đặng lên để lẩy mẫu

giám định thì bà khơng đồng ý.
Tồ ủn cấp phúc thâm cho rằng bà Tháng khơng có u cầu giám định ADN nên
khơng trưng cầu giám định mà căn cứ vào lời khai của đương sự cũng như người làm
chứng cho rằng bà Thắng không phải là con của cụ Đặng.
Tịa giảm đơc thâm cho răng Tịa câp phúc thâm khơng tiên hành giảm định mà
chỉ căn cứ vào lời khai là không phù hợp với thực tế khách quan. Do đó, Tồ giám đốc
thầm đã tuyên huỷ bản án sơ thâm và bản án phúc thâm8.
8Quyết định Giám đốc thẩm số 39/2007/DS-GĐT ngày 14/12/2007 của Toà án nhân dân tối cao


Trong trường hợp trên chúng ta nhận thấy Tòa giám đốc thẩm vẫn đánh giá cao
tầm quan trọng của các tài liệu chứng cứ cũng như lời trình bày của nhân chứng. Tuy
nhiên Toà giám đốc thẩm vẫn chưa thể khẳng định bà Thắng có phải là con đẻ cúa cụ
Đặng hay khơng bởi lẽ tính xác đáng của những loại chứng cứ này chỉ mang tính chất
tương đối phụ thuộc vào nhận thức chú quan cúa HĐXX. Do đó trong trường họp này
để có thể khắng định bà Thắng có phải là con đẻ của cụ Đặng hay khơng thì Tồ án cịn
cần phải thu thập thêm những chứng cứ mang tính xác thực hơn, đó là giám định ADN.
Trong vụ việc này, giám định mối quan hệ huyết thống được thực hiện giữa
những người còn sống, cụ thế là giám định ADN giữa bà Thắng và bà Hồng (bà Hồng là
con của cụ Đặng). Việc giám định mối quan hệ huyết thống giữa bà Thắng và bà Hồng
để nhằm mục đích xác định mối quan hệ cha con giữa bà Thắng với cụ Đặng là không
chắc chắn, bởi lẽ bà Hồng có thể khơng phải là con để cùa cụ Đặng trong khi ở đây
chúng ta cần chứng minh là người cịn sống ở đây có mối quan hệ cha con với người đã
chết hay khơng. Có thể bà Hồng có cùng gen với bà Thắng nhưng chưa thế khẳng định
một cách chắc chắn ràng bà Hồng có phải là con đẻ của cụ Đặng hay không. Cũng có
thế có trường hợp xảy ra là bà Thắng khơng có cùng gen với bà Hồng tuy nhiên bà
Thắng vẫn có thế là con đẻ của cụ Đặng bởi vì bà Hồng không phải là con đẻ của cụ
Đặng. Việc giám định ADN giữa những người còn sống để xác định mối quan hệ huyết
thống giữa người cần xác định với người chết cũng là một giải pháp mang tính tương
đổi đang được một số tòa áp dụng khi giải quyết các vụ án có tính chất tương tự, tuy

nhiên đó lại khơng phải là một giải pháp có độ tin cậy tuyệt đối. Do đó, ngồi việc thực
hiện giám định ADN thì cần phải xem xét đến các chứng cứ khác như các giấy tờ tài
liệu, lời khai của nhân chứng, lời trình bày của các đương sự đê xác định giữa họ có tơn
tại mơi quan hệ cha con, mẹ con hay không.
Đối với việc xác định mối quan hệ huyết thống giữa cha con, mẹ con khi khơng
có sự thống nhất giữa các hàng thừa kế thì việc giám định ADN là một trong những
phương pháp mang tính hữu hiệu, có sự chính xác cao, làm cho vụ án được sáng tỏ. Tuy
nhiên, khi các bên đương sự đã có tranh chấp, khơng tìm được tiếng nói chung thì việc
hồ trợ nhau để thực hiện giám định ADN cũng trở nên vơ cùng khó khăn khi các bên


không đồng ý cung cấp mẫu giám định, việc này Luật giám định tư pháp cũng chưa quy
định rõ gây ra rất nhiều khó khăn trong q trình giải quyết vụ án. Do đó hướng tới pháp
luật cần nên thay đổi để phù hợp hơn.
77ỉứ ba, đối với quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi: kể từ xa xưa việc cho,
nhận nuôi con nuôi đã diễn ra rất phổ biến trong đời sống xã hội, có những thời điểm tại
một số địa phương nó được xem như là một yếu tố tâm linh để việc nuôi dạy trẻ được dễ
dàng hơn, do đó tồn tại rất nhiều mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi trong xã
hội lúc bấy giờ, tuy nhiên những quy định pháp luật về vấn đề này lại ra đời khá trễ. Ke
từ khi Luật Nuôi con nuôi 2010 được ban hành thì việc cho, nhận ni con ni mới
được quy định một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, đã hơn 10 năm kế từ khi được ban hành thì
vấn đề cho, nhận nuôi con nuôi vẫn chưa được quan tâm, chưa được thực hiện một cách
chặt chẽ, đúng quy định pháp luật. Bằng chứng là hàng loạt trường hợp cho, nhận nuôi
con nuôi không đáp ứng được các điều kiện về việc cho, nhận nuôi con nuôi theo quy
định pháp luật từ đó làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể có
quyền. Mà nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc này chính là sự thiếu hiểu biết của người
dân trong việc cho, nhận nuôi con nuôi.
Bà Phan Thị L và ông Lê Quang Vỉ kết hôn năm 2014, ơng Vỉ có một người con
riêng là Lê Nguyền Minh Đ, năm 2011 bà và ơng VI có nhận Lê Công V, sinh năm 2011
làm con nuôi. Sau khi nhận V làm con ni bà có đăng ký khai sinh cho V



tại ưỷ ban nhân dân phường Đ, theo như thê hiện trong giây khai sinh thì Lê Cơng V có
cha là Lê Quang VI và mẹ là Phan Thị L.
Năm 2013 ông Lê Quang VI chết không để lại di chúc. Bà Phan Thị L khởi kiện
yêu cầu phân chia di sản thừa kế của ông Lê Quang VI.
Bản án dân sự sơ thâm đã quyết định: Chia phần di sản thừa kế của ông Lê
Quang VI thành 03 phần cho bà Phan Thị L, Lê Nguyễn Minh Đ và Lê Công V.
Sau khi bản án sơ thẩm được tuyên anh Lê Nguyền Minh Đ có đơn kháng cảo
yêu cầu Tịa phúc thấm khơng cơng nhận Lê Cơng V là con nuôi cũng đồng thời không
phải là con ruột của ông Lê Quang VI và bà Phan Thị L.
Bản án phúc thâm đã tuyên xử không công nhận Lê Công V là con nuôi của ông
VI và bà L9.
Qua trường hợp trên chúng ta nhận thấy rằng: trong thực tế hiện nay việc nhận
nuôi con nuôi là rất phổ biến nhưng cũng không phải ai cũng biết đến việc bắt buộc phải
đăng ký nuôi con nuôi và thực hiện việc đăng ký này, dẫn đến những tranh chấp khơng
đáng có về sau mà cụ thể là tranh chấp về thừa kế như chúng ta đã thấy trong trường
hợp trên.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi giữa
công dân Việt Nam với nhau trước ngày 01/01/2011 mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có
hiệu lực. Đồng thời theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21
tháng 03 năm 2011 của Chính phủ về đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế:
“Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam vói nhau
mà chưa đăng ký trước ngày 01/01/2011, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định tại
khoản 1 Điều 50 của Luật Ni con ni, thì được đăng ký kể từ ngày 01/01/201 ỉ đền
hêt ngày 31/12/2015 tại Uy ban nhân dân câp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và
con nuôi.”
Căn cứ theo quy định trên, đồng thời đối chiếu với trường hợp của ông Lê
Quang V1, bà Phan Thị L và cháu Lê Công V ta thấy trên thực tế ông V1, bà L và cháu

V có tồn tại quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi, ông bà và V cùng sống chung một nhà,
9Bản án số 32/2019/DS-PT ngày 26/4/2019 cùa Toà án nhân dân tinh Thanh Hoá


ông VI bà L cùng chăm sóc nuôi dưỡng cháu V, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ đối với con theo quy định của Luật HN&GĐ, việc nhận nuôi con nuôi giữa ông
VI bà L và V cũng đáp ứng được các điều kiện về nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên việc
nhận nuôi con nuôi giữa ông bà và V phát sinh sau ngày Luật nuôi con ni có hiệu lực
do đó việc nhận ni con ni chỉ được pháp luật thừa nhận khi có đăng ký. Vì vậy mà
V khơng được pháp luật thừa nhận là con ni của ơng VI và bà L, chính vì sự thiếu
hiểu biết pháp luật mà làm ành hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cháu V.
Trong trường họp trên chúng ta còn nhận thấy một số trường họp kém hiếu biết
pháp luật của người dân hiện nay là việc lầm tưởng giữa việc đăng ký nhận nuôi con
nuôi và việc đăng ký khai sinh cho trẻ. Việc này gây rất nhiều khó khăn cho Tồ án
trong q trình giải quyết tranh chấp, bởi lẽ Tồ án xét xử dựa vào chứng cứ do các bên
cung cấp, trong q trình xét xử so thấm ngun đơn có cung cấp cho Tịa giấy khai
sinh của cháu Lê Cơng V, theo đó thì Lê Quang VI và bà Phan Thị L là cha mẹ đẻ của
cháu V. Do đó Tồ án cấp sơ thấm xác định V là con đẻ của ơng VI là phù họp với
chứng cứ có thề hiện trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là Tịa án cấp sơ
thẩm thiếu thận trọng trong việc xem xét đánh giá chứng cứ khi có sự mâu thuẫn giữa
lời khai và chứng cứ mà Tịa án khơng làm rõ tính khách quan của chứng cứ dẫn đến sai
phạm trong quá trình xét xử. Trong trường họp trên ta thấy rõ ràng V là con nuôi cúa
ông VI và bà L đồng thời lời khai của các bên cũng thừa nhận vấn đề này, tuy nhiên V
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy đăng ký khai sinh với cha là ông VI và
mẹ là bà L là không đúng với sự thật khách quan do đó người viết hồn tồn đồng tình
với nhận định của Toà án cấp phúc thấm là V không được công nhận là người thừa kế
của ông VI mặc dù giữa V và ơng VI có tơn tại môi quan hệ cha con nuôi, tuy nhiên việc
nuôi con nuôi không đáp ứng được các điều kiện theo quy định pháp luật do đó khơng
được cơng nhận.
Một trường hợp khác:

Cụ Lê Thị A có anh ruột là cụ Lê Đượm N, ngồi ra cụ A khơng có chồng con,
đồng thời cũng khơng cịn cha mẹ, anh chị em nào khác.
Cụ A có nhận anh Lê Văn L, sinh năm 1962 làm con nuôi, nhưng không cỏ đăng


ký nhận con nuôi và không đăng ký khai sinh. Tại bản khai danh sách nhân khâu ngày
31/12/1976 hộ cụ Lê Thị A có 02 nhân khâu gồm cụ Lê Thị A chủ hộ và anh Lê Văn L
quan hệ con ni, đồng thời tên Lê Văn L bị xóa không rõ thời gian.
Năm 2004, cụ A chết, ông L vào quản lý toàn bộ di sản của cụ A. Cụ N khởi kiện
yêu cầu phản chia di sản thừa kế của cụ Lê Thị A.
Bản án Dãn sự phúc thâm đã xác định cụ Lê Đượm N là người thừa kế duy nhất
của cụ Lê Thị As.
Căn cứ theo Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 và Nghị định số
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký quản lý hộ tịch và Luật Hơn nhân và gia
đình và Luật ni con ni có quy định việc ni con ni phải được đăng ký hộ khấu
hộ tịch, đồng thời phải được đăng ký khai sinh tại UBND cấp xã nơi thường trú của
người nhận con nuôi hoặc con nuôi. Xét trong trường hợp này cụ Lê Thị A nhận anh Lê
Văn L làm con ni nhưng khơng có đăng ký do đó khơng đủ cơ sờ xác định L là con
nuôi của cụ A.
Trong những trường hợp này chúng ta thường xem xét đến trường hợp giữa cụ A
là anh L có tồn tại mối quan hệ con nuôi trên thực tế không bằng việc xem xét ý kiến
của những người sinh sống lâu năm tại địa phương về việc giữa họ có tồn tại mối quan
hệ ni dưỡng, chăm sóc, trách nhiệm cùa cha mẹ nuôi đối với con nuôi, trách nhiệm
chăm sóc cùa con ni đối với cha mẹ ni khi cha mẹ nuôi đau ốm,
8
Ban án số 241/2020/DS-PT ngày 21/08/2020 cùa Toà án nhân dân tinh Bến Tre đồng thời cũng
thể hiện ở việc lo ma chay khi cha mẹ ni chết. Căn cứ theo lời trình bày của những
người dân tại địa phương cũng như lúc còn sống cụ A có làm đơn thưa L vì L có
hành vi bóp cổ cụ và nhiều lần hâm doạ giết cụ A. Mặc dù L ở trên phần đất của cụ A
nhưng khơng tới lui thăm hỏi, chăm sóc cụ A trong những lúc cụ đau ốm ngược lại

còn thường xuyên dùng những lời lẽ hăm dọa làm ảnh hưởng đến tinh thần cũng như
sức khỏe cúa cụ A. Do đó trên thực tế giữa cụ A và anh L không tồn tại quan hệ
chăm sóc, ni dưỡng vì vậy việc Tồ án khơng cơng nhận quan hệ con ni giữa L
và cụ A là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ mối quan hệ này không đáp ứng được các điều
kiện nhận ni con ni đồng thời cũng khơng có quan hệ chăm sóc ni dưỡng trên
thực tế.
77? ứ tư, mối quan hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế: hiện nay pháp luật về
thừa kế nước ta ghi nhận giữa con riêng với bố dượng mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc
ni dưỡng như cha con, mẹ con ruột thì được thừa kế di sản của nhau. Tuy nhiên vấn


đề quan trọng là dựa trên cơ sở nào để xác định giữa họ có quan hệ chăm sóc ni
dưỡng như cha con mẹ con ruột thì pháp luật chưa đề cập, hiện nay cũng chưa có văn
bản nào hướng dẫn về việc xác định mối quan hệ nuôi dưỡng trong trường hợp này và
trên thực tế để chứng minh được mối quan hệ ni dưỡng là vơ cùng khó khăn.
Bà Đồ Thị L kết hôn với ông Nguyễn Văn T có 04 người con chung là anh Mạnh
T, anh Tiến H, chị LI và chị L2. Trước khi kết hơn với bà L ơng T có vợ là bà K, có 09
người con riêng là: Thị T, Quốc B, Mạnh X, Cơng Q, Cơng K, Thị H, Đình H, Thị Q,
Thị L3.
Năm 2002 bà L chết không đê nhà di chúc. Các con riêng của của ông Tyêu cầu
được chia phần di sàn của mẹ kế lủ bà L.
Theo lời trình bày của các đương sự và những người làm chứng thì các con đẻ
của bà L sống chung với bà L cịn các con riềng của ơng T thì sống chung với bà K, khi
bà L đau ốm thì những người con riêng này có đến thăm, khi bà L chết thì


những người này có chịu tang bà L đơng thời cũng C‘ó đóng góp chi phỉ cho việc lo ma
chay, làm mộ cho bà L.
Toà án đã quyết định chia phần di sản thừa kế của bà L cho những người thừa
kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà L bao gồm: cụ Văn T, anh Mạnh T, anh Tiến H,

chị Thị LI và chị Thị L210.
Trong trường hợp trên ta thấy giữa bà L và những người con riêng có quan hệ mẹ
kế con riêng, những người con này có thăm nom, chăm sóc bà L đồng thời cũng chịu
tang, lo ma chay khi bà L chết. Tuy nhiên mối quan hệ chăm sóc ni dưỡng này có
được xem là chăm sóc như mẹ con ruột hay khơng thì thật khó để xác định bới lẽ pháp
luật khơng quy định thời gian chăm sóc, ni dưỡng nhau giữa con riêng và bố dượng,
mẹ kế là bao lâu sẽ được coi là chăm sóc như cha con, mẹ con; hành vi chăm sóc sẽ
được thề hiện từ hai bên hay chỉ từ một bên và nếu như có quan hệ chăm sóc nhưng họ
khơng xem nhau như cha con mẹ con thì có được hay khơng? Chăm sóc, ni dưỡng
một ngày thì có được xem làm có quan hệ ni dưỡng hay khơng hay bao nhiêu ngày thì
được xem là có quan hệ ni dưỡng việc định lượng này là vơ cùng khó trên thực tế và
những chứng cứ chứng minh cho quan hệ ni dưỡng đó là gì? Do đó quy định này gây
khó khăn cho việc giải quyết các vụ án có tính chất liên quan.
1.1.4.

Kiến nghị hoàn thiện quy đinh về hàng thừa kế

Thứ nhất, khi giải quyết các vụ án về thừa kế có liên quan đến mối quan hệ hôn
nhân đối với những trường hợp kết hôn hoặc sống chung với nhau như vợ chồng trước
ngày 03/01/1987 thì trước hết cần phải xem xét giữa họ có tồn tại hơn nhân thực tế
khơng. Việc xác định hôn nhân thực tế cần phải vận dụng có hiệu quả luật Hơn nhân và
Gia đình, Nghị quyết 35/2000 và Thông tư 60/TATC ngày 22/02/1978.
Đông thời đê tạo điêu kiện thuận lợi, giải quyêt những khó khăn cho Toà án trong
việc giải quyết các vụ án về thừa kế có liên quan đến hơn nhân thực tế thì hướng tới cần
phải rà sốt, cấp giấy xác nhận hơn nhân thực tế cho nam nữ sống chung với nhau như
vợ chồng trước ngày 03/01/1987 và mối quan hệ ấy vẫn còn tiếp diễn cho đến hiện tại.
10Bản án số 10/2017/DSST ngày 30/05/20 ì 7 cua Tịa án nhân dân Thành phố Việt Trì, tình Phú Thọ


Đa phần những cá nhân thuộc trường hợp này hiện nay đã lớn tuổi, do đó sẽ rất khó

khăn nếu như để họ tự thực hiện quyền của mình mà cần phải giao nhiệm vụ cho các
cấp có thẩm quyền tiến hành rà soát và cấp giấy xác nhận, mà cụ thể là giao nhiệm vụ
cho cán bộ Tư pháp - Hộ tịch xã thực hiện dưới sự kiểm tra, giám sát của Phịng Tư
pháp. Bên cạnh đó cũng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để họ biết được quyền lợi
cúa mình mà phối hợp thực hiện. Đồng thời để tiến hành đồng bộ và dứt điểm trường
hợp này thì cần phải thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định, cụ thể đến trước
01/01/2025.
Thứ hai, để giải quyết những khó khăn trong việc xác định mối quan hệ cha mẹ
con thì hướng tới pháp luật cần nên xem xét quy định cụ thể hơn về vấn đề này cụ thề
như:
- Khi các bên có sự nghi ngờ thì một trong các bên bất kỳ có quyền yêu cầu giám
định và bên nào thua kiện thì phải chịu phần chi phí giám định này. Hiện nay pháp luật
quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên yêu cầu và bên nào phản đối với chứng cứ
cùa bên còn lại đưa ra11, theo đó thì bên nào có ý kiến phản đối về mối quan hệ cha mẹ
con ruột cần phái thực hiện việc giám định ADN đề làm cho vụ án được sáng tỏ, đồng
thời pháp luật hiện hành cũng quy định bên nào có yêu cầu giám định thỉ phải chịu chi
phí giám định. Do đó, trong trường hợp bên có ý kiến phản đối về mối quan hệ cha mẹ
con ruột không tiến hành giám định gây khó khăn cho việc làm sáng tở vụ án và bên có
u cầu cũng khơng đồng ý việc giám định bởi lẽ họ đã có những chứng cứ khác chứng
minh cho mối quan hệ huyết thống giữa cha mẹ con ruột do đó khơng việc gì phải tiến
hành thêm việc giám định để tốn thêm chi phí. Mà việc giám định là một trong những
căn cứ quan trọng mang tính chính xác đê làm sáng tở vụ án. Do đó pháp luật cân quy
định bên nào thua kiện phải chịu ln phần chi phí giám định để bên có u cầu mạnh
dạn hơn trong việc yêu cầu giám định làm cho vụ án được sáng tỏ.
- Ngồi ra, cũng khơng ít trường hợp đương sự cố tình gây khó khăn cho việc
thu thập, không cung cấp mẫu giám định làm cho việc giám định không thể thực hiện
được khiến cho vụ án bị mập mờ khơng sáng tỏ, gây khó khăn cho tồ án trong q trình
11Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015



×