Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Pháp luật về hoạt động cho vay của công ty tài chính tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.29 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QC GIA THÀNH PHĨ HỊ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÙI KIM LAN VƯƠNG

PHÁP LUẬT VÊ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
CƠNG TY TÀI CHÍNH TAI VIÊT NAM

Ngành: Luật Kinh tê
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ vũ NAM

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi. Các sơ
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
TÁC GIẢ

BÙI KIM LAN VƯƠNG


DANH MỤC CÁC CHỦ VIẾT TẤT
STT


Tên viết tắt

Nội dung

1

CTTC

Công ty tài chính

2

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

3

NHTM

Ngân hàng thương mại

4

TCTD

Tổ chức tín dụng


DANH MỤC CÁC BẢNG BIÊU, HÌNH VẼ, ĐƠ THỊ

Biểu đồ 1: Tỷ trọng các sản phẩm cho vay trung bình ngành 2018 của các CTTC . 19
Bảng 1. Cơ câu sản phâm cho vay năm 2018


MỤC LỤC
LÒĨ CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIÊU, HÌNH VẼ, ĐỊ THỊ
MỤC LỤC

Trang



2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của cơng ty tài chính
..........................................................................................................................................56
2.2.1.
vay

Sự cần thiết và định hướng của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho

TÀI LIỆU THAM KHẢO


8

LỜI MỎ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Những năm gần đây, các cơng ty tài chính (“CTTC”) đã xuất hiện ngày càng

nhiều và đang cạnh tranh mạnh mẽ với các ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Nhu cầu
mua sắm khơng ngừng gia tăng khi đời sống kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, khá
nhiều người dân, nhất là giới trẻ tìm đến các CTTC để vay mua sắm tiêu dùng ngày
càng nhiều. Các CTTC vì thế cũng đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ đế phục vụ cho
nhu cầu của khách hàng.
Khách hàng lựa chọn vay tại CTTC vì thủ tục cho vay đơn giản, nhận tiền vay
nhanh chóng, hồ sơ vay vốn lại dễ hơn như chỉ cần có chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu
là có thể được xem xét cho vay. Khách hàng không nhất thiết phải có tài sản bảo đảm.
Đi cùng với việc cho vay đơn giản, không tài sản bảo đảm và đối tượng vay phần lớn là
những người đang gặp khó khăn tài chính, có nhu cầu vay nhanh nên khách hàng cũng
phải chấp nhận mức lãi suất cao hơn và ngược lại, các CTTC cũng chịu rủi ro cao không
thu hồi được nợ khi các khách hàng này khơng có tài sản bảo đảm.
Các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của CTTC đã được ban
hành và có thay đồi qua từng thời kỳ, tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế trong
quy định pháp luật đối với hoạt động cho vay của CTTC. Những bất cập, hạn chế này
khiến các CTTC chưa phát huy hết khả năng của mình trong hoạt động cho vay, chưa
đáp ứng nhu cầu cúa khách hàng và là rào cản cho sự phát triển của CTTC cũng như lợi
ích cùa khách hàng.
Từ các trình bày nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động cho
vay của cơng ty tài chính tại Việt Nam ” nhằm góp phần phân tích các quy định pháp
luật hiện hành và đánh giá thực tiền áp dụng các quy định pháp luật đó trong hoạt động
cho vay của CTTC. Từ đó, tác giả rút ra các vấn đề bất cập và nêu lên các kiến nghị của
mình nhằm góp phần vào q trình xây dựng, thực thi và hồn thiện các quy định pháp
luật có liên quan.
2.

Mục tiêu nghiên cún



9

Xét về mục tiêu, đề tài hướng đến nghiên cứu các quy định pháp luật về hoạt
động cho vay của CTTC, xem xét đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật và thực tiễn
hoạt động cho vay của CTTC tại Việt Nam, làm tiền đề bổ sung, hoàn thiện pháp luật có
liên quan. Nhằm đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ cụ thề sau
đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay của CTTC, các đặc
trưng trong thực tế hoạt động và pháp luật về hoạt động cho vay của CTTC.
- Phân tích và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành cũng như thực trạng áp dụng
pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay của CTTC, bao gồm cả các vấn đề về điều
kiện cho vay, thú tục cho vay, phương thức cho vay, giải ngân vốn vay, kiểm soát sau
vay của CTTC.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay cúa CTTC
để phù hợp với nhu cầu thị trường và tình hình phát triển của loại hình tổ chức tín
dụng này.
3.
3.1.

Đối tượng, phạm vi nghiên cún
Đối tượng nghiên cứu cua đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật hiện hành điều chính

trực tiếp và các quy định pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của CTTC.
Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá các quy định này so với các vấn đề thực tiễn phát sinh
liên quan đến hoạt động cho vay của CTTC hiện tại ở Việt Nam.
3.2.

Phạm vi nghiên cún của đề tài


Đề hoạt
tài tập
trung
vào của
các CTTC
vấn đề
cơViệt
sở lý
luận, thực tiễn quy định và áp dụng pháp luật để từ đó phân tích các quy định hiện hành
về
động
cho vay
tại
Nam.


Cụ thê, đê tài tập trung phân tích, làm sáng tỏ các đặc điêm, tính chât của hoạt
động cho vay của CTTC tại Việt Nam, từ đó, phân tích thực trạng pháp luật hiện hành
để tìm ra những điểm cịn bất cập, hạn chế của quy định pháp luật về hoạt động cho vay
của CTTC. Đồng thời, qua đó, tác giả cũng đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện các
quy định pháp luật có liên quan và việc áp dụng pháp luật trong hoạt động cho vay của
CTTC tại Việt Nam.
4.

Phuong pháp nghiên cún
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày khóa luận, tác giả sử dụng phương pháp

nghiên cứu chủ đạo là phân tích, tổng hợp và so sánh.
Phương pháp phân tích được áp dụng đối với các trường hợp cần làm rõ khái

niệm, vai trò và các quy định pháp luật liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích và đánh giá các quy định pháp
luật về hoạt động cho vay của CTTC tại thời điểm hiện tại và các quy định trước đây,
quy định của Việt Nam và thế giới. Đồng thời, phương pháp so sánh cũng được sử dụng
để làm rõ sự khác biệt giữa các quy định pháp luật áp dụng cho các CTTC và các quy
định pháp luật áp dụng cho các loại hình tổ chức tín dụng khác.
Phương pháp tồng hợp được dùng đưa ra kết luận, đánh giá cho từng phần của
Luận văn sau những vấn đề lớn đã được triển khai trong các mục, chương. Phương pháp
tổng hợp cũng được dùng để nêu ra một cái nhìn tồng qt về tồn bộ các nội dung được
phân tích và đánh giá trong toàn bộ Luận văn tại phần Kết luận của Luận văn.
5.

Tình hình nghiên cún
Thực tế, hoạt động cho vay của CTTC nhìn nhận dưới góc độ pháp lý chưa được

nhiều nhà nghiên cứu tiến hành. Trong phạm vi được tiếp cận với một số đề tài đã được
thực hiện, tác giả nhận thấy chi có một số ít tác giả thực hiện nghiên cứu hoạt động cho
vay tiêu dùng áp dụng chung cho các tồ chức tín dụng, hoạt động cúa các


CTTC hoặc một sô bài tông hợp nhăm phục vụ cơng tác nghiên cứu nội bộ. Trong đó, có
một số đề tài đáng chú ý như sau:
- Sách “Hoạt động cho vay tiêu dùng - Kinh nghiệm quốc tế, thực trạng và khuyến
nghị chính sách cho Việt Nam" do TS. Nguyễn Thị Kim Thanh làm chù biên, tài liệu
lưu hành nội bộ năm 2013. Đây là cơng trình của nhiều tác giả, tổng hợp các khảo
cứu về hoạt động cho vay tiêu dùng ở một số nước, trình bày các vấn đề lý luận
chung về phương diện kinh tế tài chính liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng,
đồng thời phân tích và đánh giá sơ bộ về hoạt động cho vay tiêu dùng giữa CTTC và
các NHTM. Tuy nhiên, đề tài tập trung nhiều vào các yếu tố về tài chính mà chưa tập
trung vào các vấn đề còn tồn tại liên quan đến quy định pháp luật hiện hành của Việt

Nam đối với hoạt động cho vay tiêu dùng.
- Luận văn thạc sĩ Luật học với đề tài “Pháp luật về hoạt động của các công ty tài
chính ở Việt Nam'" do Nguyễn Thị Thu Hương, Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học
Luật Hà Nội thực hiện năm 2014. Như đề cập tại tên đề tài, đề tài này tập trung vào
nghiên cứu hoạt động của CTTC, bao gồm thành lập, tổ chức điều hành, hoạt động,
chế độ tài chính của các CTTC. Đe tài chưa tập trung vào phân tích các các quy định
pháp luật cụ thề áp dụng đối với hoạt động cho vay của CTTC.
- Luận văn thạc sĩ Luật học với đê tài “Pháp luật vê hoạt động cho vay tiêu dùng
của các tố chức tín dụng” do Đỗ Thị Hương, Trường Đại Học Kinh Tế - Luật, Đại học
quốc gia TP Hồ Chí Minh thực hiện năm 2017. Nội dung đề tài tập trung nghiên cứu các
quy định pháp luật về hoạt động cho vay tiêu dùng, xem xét đánh giá thực trạng hệ
thống pháp luật và thực tiễn hoạt động cho vay tiêu dùng của các tổ chức tín dụng ở Việt
Nam. Đề tài chưa đi sâu phân tích cúa hoạt động cho vay cua
CTTC.
Với sự ra đời của các quy định pháp luật mới trong thời gian gân đây và những
vấn đề bất cập trong hoạt động cho vay của CTTC chưa được giải quyết, việc nghiên
cứu đề tài này là cần thiết nhằm cung cấp một cái nhìn tồn diện đối với pháp luật


hoạt động cho vay của CTTC đông thời đưa ra các đánh giá của tác giả vê thực trạng
của các quy định pháp luật hiện hành áp dụng cho loại hình tổ chức tín dụng này.
6.

Kết cấu của đề tài
Ngồi các nội dung giới thiệu về đề tài; mục tiêu, phạm vi và phương pháp

nghiên cứu của đề tài; tình hình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài và các phụ lục
về khảo sát thực tế thì luận văn của tác giả có kết cấu như sau:
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ CƠNG TY TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA CƠNG TY TÀI CHÍNH

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VÈ CƠNG TY TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
CƠNG TY TÀI CHÍNH
1.1.

Lý luận về cơng ty tài chính

1.1.1.

Khái niệm về cơng ty tài chính
Các ví dụ sớm nhất về các CTTC có từ đầu những năm 1800 khi các nhà bán lẻ

cung cấp tín dụng trả góp cho khách hàng1. Khi một khoản tín dụng trả góp được thỏa
thuận, người đi vay thực hiện một loạt các khoản thanh toán như nhau trong một khoảng
thời gian cố định. Các khoản cho vay trả góp hấp dẫn người tiêu dùng vì cho phép họ
thực hiện nhiều khoản thanh toán nhở để trả cho một khoản vay lớn.
Các CTTC được thành lập khi các công ty ô tô bắt đầu chiến lược bán hàng đại
chúng. Vào đầu những năm 1900, các ngân hàng không cho vay mua ô tô vì ô tô là được
coi là mua để tiêu dùng hơn là để sản xuất. Nhiều người muốn mua ô tô nhưng giá mua
quá cao. Các công ty ô tô vì thế đã thành lập các công ty con, được gọi là CTTC, để
cung cấp dịch vụ cho vay trả góp cho người mua ơ tơ 2. Ngay sau đó, nhiều nhà bán lẻ
khác đã áp dụng ý tưởng cung cấp tài chính cho người muốn mua hàng hóa của họ. Các
hoạt động cho vay đó khơng những giúp doanh số bán hàng tăng lên mà CTTC con càng
ngày càng có lãi.
CTTC ở Việt Nam được thành lập khá muộn so với các quốc gia khác. CTTC được
chính thức giới thiệu lần đầu tiên khi Hội đồng nhà nước thông qua và công bố Pháp

lệnh số 38-LCT/HĐNN8 về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và CTTC vào ngày

1 Jeff Desjardins (2017), 77ze 5,000-ỵear history of consumer credit, lừ cơ sờ dừ liệu của Insider Inc,
truy cập ngày 19 tháng 09 năm
2021.
2 Jeff Desjardins (2017), 77ze 5,000-ỵear history of consumer credit, từ cơ sờ dừ liệu của Insider Inc,
truy cập ngày 19 tháng 09 năm
2021.


ngày 23 tháng 05 năm 1990, có hiệu lực ngày 01 tháng 10 năm 1990. Theo đó, CTTC là
cơng ty quốc doanh hoặc cổ phần, hoạt động chủ yếu là cho vay để mua, bán hàng hoá,
dịch vụ bằng nguồn vốn của mình hoặc vay của dân cư3.
CTTC tự dùng nguồn vốn của mình đề hoạt động hoặc vay cúa người dân bằng
phát hành tín phiếu. CTTC khơng được nhận tiền gửi tiết kiệm và không sử dụng vốn
vay của người dân làm phương tiện thanh tốn. Bên cạnh đó, cùng với ngân hàng, CTTC
còn được phép thực hiện những nghiệp vụ về:
1.

Kinh doanh vàng, kim khí quý và đá quý;

2.

Cất giữ, mua, bán, chuyển nhượng, quản lý các chứng khốn và giấy tờ có giá

khác;
3.

Các nghiệp vụ về tín dụng thuê mua;


4.

Các dịch vụ tư vấn về tiền tệ và quản lý tài sản theo yêu cầu cúa khách hàng.
NHNN can thiệp khá sâu vào việc quản trị CTTC cố phần tương tự như với ngân

hàng cổ phần, việc bổ nhiệm, miễn nhiễm Tống giám đốc hoặc Giám đốc phải được
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước. Quy định này này vẫn được tiếp tục
thực hiện cho đến nay đối với hoạt động bổ nhiệm, yêu cầu phải có phê duyệt trước cúa
NHNN chẳng những áp dụng cho vị trí Tổng giám đốc hoặc Giám đốc và còn áp dụng
cho cả thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng quản trị.
Năm 1997, thuật ngữ “tổ chức tín dụng” lần đầu tiên được giới thiệu trong Luật
Các tố chức tín dụng năm 1997 “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo
quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền
tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi đê cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh tốn ”4. Theo đó, ngân hàng được phân loại là tơ chức
tín dụng, cịn các CTTC đã được đưa vào nhóm tơ chức tín dụng phi ngân hàng, được
thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhưng bị hạn chế hơn so với ngân hàng “Tơ chức
tín dụng phi ngân hàng là loại hình tồ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động
3Hội đồng nhà nước (1990), Pháp lệnh số 38-LCT/ỈĨĐNN8 về về ngân hàng, họp tác xã tín dụng và cơng
ty tài chính, ban hành ngày 23 tháng 5 năm 1990, Khoản 4 Điều 1.
4’Quốc hội (1997), Luật Các tơ chức tín dụng sổ 07/1997/QH10, ban hành ngày 12 tháng 12 năm 1997,
Khoán 1 Điều 20


ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi
không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh tốn. Tố chức tín dụng phi ngân hàng gồm
CTTC, cơng ty cho th tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. ”5.
Sau một thời gian dài, đến năm 2002, CTTC được chia thành nhiều loại CTTC
khác nhau theo Nghị định 81/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 79/2002/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của CTTC. CTTC được phân

loại thành CTTC tổng hợp và CTTC chuyên ngành, trong đó CTTC chuyên ngành sẽ
được phân thành hai loại là CTTC hoạt động trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng và CTTC
hoạt động trong lĩnh vực thẻ.
CTTC hoạt động trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng được thực hiện các hoạt động
như cấp tín dụng bằng hình thức cho vay mua trả góp, phát hành thẻ tín dụng và cho vay
bằng tiền; tư vấn tài chính ngân hàng, tiền tệ và đầu tư về tiêu dùng. Trong khi đó,
CTTC hoạt động trong lĩnh vực thẻ chi được thực hiện các hoạt động như dịch vụ thanh
toán và phát hành thẻ tín dụng. Như vậy, hoạt động của CTTC hoạt động trong lĩnh vực
thẻ là rất hạn chế, chỉ được thực hiện duy nhất một hoạt động là cấp tín dụng thơng qua
thẻ tín dụng.
Các loại hình tổ chức cùa CTTC tồn tại cho đến khi Nghị định 39/2014/NĐ- CP
về hoạt động của CTTC và công ty cho thuê tài chính ra đời. CTTC tồng hợp vẫn được
giữ nguyên, CTTC chuyên ngành đã thêm loại hình CTTC bao thanh tốn. Như vậy,
CTTC chun ngành bao gồm CTTC tín dụng tiêu dùng, CTTC bao thanh tốn và cơng
ty cho th tài chính.
Nghị định 39/2014/NĐ-CP cũng lân đâu tiên quy định vê việc cho phép chuyển
đổi loại hình của CTTC. Theo đó, CTTC tổng hợp được bổ sung, sửa đổi nội dung hoạt
động để chuyến đổi thành CTTC chuyên ngành nhưng CTTC chuyên ngành không được
bổ sung nội dung hoạt động để chuyển đổi thành CTTC tổng hợp. Tuy nhiên, NHNN có
quyền quyết định việc sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi loại hình của CTTC căn cứ kết
quả thanh tra, kiếm tra, giám sát của NHNN và trong quá trình tái cơ cấu CTTC.
5Quốc hội (1997), Luật Các tổ chức tín dụng số 07/Ì997/QH10, ban hành ngày 12 tháng 12 năm 1997,
Khoán 3 Điều 20.


Như thế, qua một quãng thời gian dài định hình và phát triển, CTTC đã được xác
định là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, được quản lý bởi NHNN và chịu sự điều
chỉnh của các quy định pháp luật về tổ chức tín dụng. CTTC được thực hiện một số hoạt
động ngân hàng tương tự NHTM như cho vay, huy động vốn bằng hình thức phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, vay vốn từ tố chức, nhận tiền gửi của

tổ chức, bảo lãnh ngân hàng, chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng, các giấy
tờ có giá khác, phát hành thẻ tín dụng, bao thanh tốn, cho th tài chính. Tuy nhiên,
CTTC có phạm vi hoạt động kinh doanh hạn hẹp hơn ngân hàng như khơng được thực
hiện hoạt động thanh tốn và huy động vốn từ cá nhân.
1.1.2.

Đặc điểm của công ty tài chính

1.1.2.1.

Phạm vi hoạt động:

Cơ cấu tổ chức và phạm vi hoạt động CTTC từ lúc xuất hiện cho đến nay đều
được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về các tổ chức tín dụng. CTTC mang đầy đủ
đặc điểm tưong tự ngân hàng và cũng có những điểm khác biệt.
Thứ nhất, đối tượng kinh doanh cúa CTTC là tiền tệ.
Đối tượng kinh doanh là tiền tệ đã tạo ra sự khác biệt cơ bản giữa CTTC với các
doanh nghiệp khác. Mọi biến động cùa nền kinh tế ngay lập tức sẽ ảnh hưởng tới giá trị
đồng tiền và hoạt động kinh doanh của CTTC cũng bị biến động theo. Hoạt động kinh
doanh tiền tệ vì thế là hoạt động thiếu tính ổn định, mang tính nhạy cảm và rủi ro. Đặc
điểm về đối tượng kinh doanh đặc biệt này có ý nghĩa quyết định đến cơ chế điều chỉnh
của pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của các CTTC. Do đó, các hoạt động của
CTTC cân được kiêm tra, giám sát nghiêm ngặt như ngân hàng, bởi NHNN để kịp thời
điều chỉnh, giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế.
Thứ hai, CTTC là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh là hoạt động ngân
hàng.
Tương tự như cơ chế hoạt động của NHTM, CTTC cũng được thực hiện một số
hoạt động huy động vốn như phát hành chứng chí tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu, vay vốn từ tổ chức, nhận tiền gửi của tố chức và dùng vốn huy động để cho vay,



dùng lãi tiền vay để thanh toán tiền lãi cho bên các bên được huy động. Khi một CTTC
không thu hồi được vổn, dẫn tới không đáp ứng được khả năng thanh tốn cho khách
hàng khi đến hạn thì sẽ gây bất an cho khách hàng của CTTC đó. Các thông tin tiêu cực
về CTTC sẽ lan tỏa sang các tổ chức tín dụng khác và ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của các tổ chức tín dụng khác. Khi nhiều khách hàng cùng nhau yêu cầu các tố
chức tín dụng tất toán các khoản tiền gừi của họ, các tố chức tín dụng có thế bị mất khả
năng thanh tốn vì chưa thế thu hồi các khoản cho vay. Hậu quả của việc này rất nghiêm
trọng vì gây ra sự mất ổn định cho cả nền kinh tế.
Thứ ba, CTTC là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của NHNN và
thuộc phạm vi áp dụng pháp luật ngân hàng.
Tuy vậy, CTTC cũng có những đặc điểm riêng để có thể được nhận biết, phân
biệt với các loại hình tổ chức tín dụng khác, cần phải có sự phân biệt này vì các tổ chức
tín dụng có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau. Do đó những hoạt động kinh
doanh mà pháp luật quy định cho từng loại hình tổ chức tín dụng cần cụ thể, để tránh
trùng lắp, mâu thuẫn, khiển cho hiệu quả hoạt động giảm sút, ảnh hưởng đến nền kinh
tế. Sự phân biệt của từng loại hình hoạt động cũng giúp Nhà nước quản lý dễ dàng hơn,
thực thi các biện pháp điều chỉnh nhanh chóng và kịp thời.
Có thể phân biệt CTTC với các loại hình tổ chức tín dụng khác ở nước ta bằng
các yếu tố sau:
Thứ nhất, do yêu cầu về vốn pháp định đối với CTTC nhở hơn nhiều lần so với
NHTM, các CTTC thường được thành lập với số vốn vừa bằng vốn pháp định.
Trong thời gian kinh doanh, các CTTC phải huy động vôn đê hoạt động. Nguôn vôn huy
động bao gồm nhận tiền gửi cùa các tổ chức, phát hành các loại giấy tờ như chứng chi
tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu có giá cho các tố chức trong nước và nước ngồi,
nhận ủy thác vốn từ các tổ chức, Chính phủ hoặc cá nhân trong lần ngoài nước và vay
thêm từ các tổ chức tín dụng khác hoặc các tồ chức tài chính trong nước và nước ngồi,
vay NHNN dưới hình thức tái cấp vốn. Điểm khác biệt rõ rệt nhất với ngân hàng trong
hoạt động huy động vốn là CTTC không được huy động vốn từ cá nhân.



Thứ hai, về hoạt động cho vay, CTTC được phép cho vay dưới các hình thức
tương tự như ngân hàng như cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn tuân thủ theo quy
định của NHNN, cho vay theo sự úy thác của Chính phủ, hay của các cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nước, cho vay để thực hiện các hoạt động kinh doanh, các hoạt động
khác6 và cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp. Điểm khác biệt rõ rệt nhất với ngân hàng
trong hoạt động cho vay là hoạt động cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp của CTTC phải
tuân thú quy định pháp luật riêng trong đó quy định cụ thể số tiền vay tổi đa, mục đích
vay nào được xem là vay tiêu dùng và các nguyên tắc giải ngân7.
Thứ ba, CTTC không được phép thực hiện dịch vụ thanh tốn. Có thể nói rằng
dịch vụ thanh toán là một hoạt động đặc thù của ngân hàng thương mại. Việc NHNN chỉ
cho phép ngân hàng thương mại thực hiện dịch vụ thanh tốn có thể xuất phát từ việc
ngân hàng thương mại được phép mở tài khoản thanh toán. Do khách hàng sử dụng tài
khoản thanh toán để thực hiện các giao dịch thanh toán cho nên dịch vụ thanh toán ra
đời và được NHNN thừa nhận là một phần hoạt động không thể thiếu tại các ngân hàng
thương mại.
1.1.2.2.

Loại hình tơ chức và hoạt động

Xét về mơ hình tổ chức, CTTC có thể được phân thành CTTC trách nhiệm hữu
hạn và Công ty cổ phần.
Xét về nguồn vốn đầu tư, CTTC có thể tổ chức dưới các hình thức:
- CTTC Việt Nam được góp vốn thành lập bởi NHTM Việt Nam và doanh nghiệp Việt
Nam hoặc bởi các NHTM Việt Nam.
- CTTC liên doanh được thành lập bằng cách góp vốn giữa doanh nghiệp Việt Nam,
NHTM Việt Nam và tồ chức tín dụng nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
- CTTC 100% vốn nước ngoài được thành lập bằng vốn của một hoặc của nhiều tổ
chức tín dụng nước ngồi theo qui định cùa pháp luật Việt Nam8.
6 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay

của tỏ chức tín dụng, chi nhánh ngán hàng nước ngoài đoi với khách hàng, ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.
7Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư số 43/20Ỉ6/TT-NHNN quy định cho vay tiêu dùng của
cơng ty tài chính, ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.
8 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2015), Thơng tư sồ 30/20ì5/TT-NỈỈNN quy định việc cấp Giấy phép, tô


Xét về hình thức cấu trúc hoạt động, CTTC là một doanh nghiệp cho nên CTTC
cũng có những hình thức tồ chức như các doanh nghiệp thông thường. Tuy nhiên, do
CTTC cịn là một tổ chức có hoạt động tài chính đặc thù nên quy định về chủ sở hữu,
thành viên góp vốn cũng có yêu cầu đặc biệt. Cụ thể, quy định pháp luật yêu cầu chủ sở
hữu hoặc ít nhất một bên tham gia góp vốn phải là tổ chức tín dụng, trừ trường hợp
CTTC đó được tổ chức theo hình thức CTTC cổ phần. Quy định này cho thấy yêu cầu
khắt khe của pháp luật về hoạt động của CTTC là phải được điều hành, kiểm soát bởi
doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, có nguồn lực, có
kiến thức và am hiều hoạt động tài chính ngân hàng để hạn chế rủi ro và đảm bảo an
tồn hoạt động, khơng bị phá sản. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp bởi lẽ một trong các
hoạt động thường xuyên cùa CTTC là hoạt động ngân hàng, đòi hỏi chủ sở hữu phải có
kiến thức và kinh nghiệm về quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng để đàm bảo an
toàn hoạt động cho hệ thống tiền tệ.
1.1.2.3.

Vôn pháp định

Cũng như ngân hàng, CTTC phải đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định khi thành
lập theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vốn pháp định của CTTC thấp hon ngân
hàng nhiều lần. Xét về phạm vi hoạt động của CTTC so với với NHTM thì yêu cầu của
pháp luật về mức vốn pháp định thấp hơn nhiều lần đối với CTTC là hợp lý vì hoạt động
của CTTC được giới hạn hơn nhiều so với NHTM, do đó mức độ rủi ro trong hoạt động
kinh doanh cũng thấp hơn NHTM.
Mức vốn pháp định của CTTC được quy định theo từng loại hình tổ chức của

CTTC và theo tiền Việt Nam và tiền đơ la Mỹ. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng Việt
Nam phải có mức vốn pháp định là 50 tỷ đồng, Tổ chức tín dụng phi ngân hàng liên
doanh với nước ngồi và tố chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngồi phải có
mức vốn pháp định là 5 triệu đô la Mỹ9.
Các CTTC đã được cấp giấy phép thành lập, hoạt động trước ngày quy định trên
chức và hoạt động của tơ chức tín dụng phi ngân hàng, ban hành ngày 25 tháng 12 năm 2015, Điêu
4.
9Chính phù (1998), Nghị định số 82/1998/NĐ-CP về ban hành danh mục mức Vốn pháp định của tồ chức
tín dụng, ban hành ngày 03 tháng 10 nãm 1998.


có hiệu lực mà có vốn điều lệ thấp hơn mức vốn pháp định được quy định thì phải tăng
vốn điều lệ cho đú bằng mức vốn pháp định trong thời hạn 3 năm. Mức tăng vốn điều lệ
hàng năm tối thiểu bằng một phần ba (1/3) số vốn điều lệ còn thiếu so với vốn pháp
định. Sau thời hạn 3 năm, vốn điều lệ cùa CTTC không bảo đảm đủ bằng mức vốn pháp
định, NHNN Việt Nam sẽ thu hồi giấy phép hoạt động.
Đến năm 2016, với sự phát triển mạnh mẽ của ngành tài chính ngân hàng, mức
vốn pháp định của ngân hàng và CTTC đã được yêu cầu tăng thêm để đáp ứng các chỉ
số rủi ro hoạt động. Mức vốn pháp định của CTTC được thay đổi thành một mức duy
nhất là 300 tỷ đồng áp dụng cho đến năm 2008 và 500 tỷ cho đến năm 201010.

10 Chính phủ (2006), Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về ban hành danh mục mức vốn pháp định của tô
chức tín dụng, ban hành ngày 22 tháng 11 năm 2006.


Nêu không đảm bảo mức vôn pháp định quy định, CTTC có thê bị xử lý tới mức bị thu
hồi Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc nhẹ hơn là không phê duyệt yêu cầu mở
thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp mới hoặc bổ sung nội dung hoạt
động vào Giấy phép”.
ỉ. 1.2.4. Thời hạn hoạt động

Thời hạn hoạt động của CTTC là 50 năm kể từ ngày được cấp phép và có thể
được thay đổi theo quyết định của NHNN

11 12

. So với thời hạn hoạt động của NHTM là

99 năm thì CTTC chỉ có thời hạn hoạt động ngắn hơn rất nhiều. Cho đến nay vẫn chưa
rõ NHNN có quy định thời hạn hoạt động của CTTC ngắn hơn NHTM vì mục đích gì
trong khi CTTC cũng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng tương tự như
NHTM là cho vay và huy động vốn. Thiết nghĩ khơng nên có sự phân biệt về thời hạn
hoạt động giừa NHTM và CTTC vì việc kiểm sốt thời hạn hoạt động khơng đàm báo
việc tuân thủ pháp luật của hai đối tượng này.
1.1.2.5.

Mạng lưới hoạt động

Tương tự như NHTM, CTTC được cho phép thành lập chi nhánh, văn phòng đại
diện, đơn vị sự nghiệp. Khác với NHTM còn được thành lập phòng giao dịch chịu sự
quản lý của chi nhánh, CTTC không được thành lập phòng giao dịch mà được mở điểm
giới thiệu dịch vụ tại các công ty, cửa hàng bán hàng tiêu dùng hoặc dịch vụ tiêu dùng
để giới thiệu các sản phẩm cho vay tiêu dùng.
Các yêu cầu về hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện và đon vị sự nghiệp
của CTTC hoàn toàn tương tự như chi nhánh, văn phịng đại diện và đơn vị

11 Chính phù (2011X Nghị định 10/201 l/NĐ-CP về việc sưa đôi, bô sung một số điều cùa Nghị định sô
Ỉ4Ỉ/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng ì 1 năm 2006 về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tô chức tin dụng,
ban hành ngày 26 tháng 01 năm 2011
12 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2015), Thông tư số 30/20Ị5/TT-NHNN quy định việc cấp Giấy phép,
tô chức và hoạt động của tô chức tín dụng phi ngân being, ban hành ngày 25 tháng 12 nãm 2015. Điều

5.


sự nghiệp của NHTM như đêu là đơn vị phụ thuộc, có con dâu, thực hiện một hoặc một
số chức năng của CTTC. Riêng văn phịng đại diện thì chỉ được thực hiện chức năng đại
diện theo ủy quyền cúa CTTC và không được thực hiện hoạt động kinh doanh.
Do điếm giới thiệu dịch vụ được đặt tại nơi bán hàng hóa, dịch vụ, khơng phải là
nơi tập trung xử lý hoạt động nghiệp vụ như chi nhánh, đơn vị sự nghiệp cho nên CTTC
tiêu dùng không được phép thực hiện hoạt động khác 13. Quy định này có vẻ khá
“thoáng” cho CTTC trong việc chú động lập điểm giới thiệu dịch vụ, tuy nhiên, xét về
tính hiệu quả thì phạm vi hoạt động của điểm giới thiệu dịch vụ q ít và khơng đáp ứng
được u cầu của khách hàng. Bởi lẽ khi khách hàng được tư vấn về nhu cầu vay vốn,
khách hàng sẽ mong muốn được hoàn tất hồ sơ vay nhanh chóng tại điểm giới thiệu dịch
vụ. Do quy định này, CTTC không thế ký hợp đồng tín dụng với khách hàng ngay mà
phải chuyển về các chi nhánh và khách hàng phải đến các đơn vị để thực hiện việc ký
hợp đồng. Điều này khá bất tiện cho khách hàng, đặc biệt là những khách hàng ở vùng
sâu, vùng xa khi CTTC chưa có điều kiện thành lập nhiều chi nhánh. Thiết nghĩ NHNN
nên mở rộng phạm vi hoạt động của điếm giới thiệu dịch vụ, cho phép thực hiện việc ký
hợp đồng tín dụng để tạo điều kiện cho khách hàng hoàn tất thú tục vay vốn nhanh
chóng và thuận lợi.
Phạm vi hoạt động của các mạng lưới hoạt động phải được quy định trong Quy
chế về quản lý mạng lưới đề đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, phù hợp với quy định
của pháp luật. Quy chế phải có tối thiếu những quy định về cơ cấu tổ chức, nhân sự, nội
dung, phạm vi hoạt động, cơ chế hạch toán kế toán, hạn mức rủi ro theo từng hoạt động
kinh doanh, hoạt động nghiệp vụ đối với một khách hàng, nhóm khách hàng và tất cả
khách hàng của chi nhánh, cơ chế quán lý, giám sát của trụ sở chính để đảm bảo an toàn,
hiệu quả hoạt động.
Ngoài ra, Quy chê cân nêu ra tiêu chuân, điêu kiện của các câp quản lý đê điêu
hành công việc. Các điều kiện, tiêu chuẩn này không được thấp hơn các chức danh
tương đương tại trụ sở chính và đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật. Hằng

13 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư số 43/2016/TT'-NHNN quy đinh cho vay tiêu dùng
của cơng ty tài chính, ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, Điều 6.


năm, Quy chế phải được kiểm tra, sửa đổi, bổ sung để đảm bảo đáp ứng với những thay
đổi trong vận hành.
Với điểm giới thiệu dịch vụ, CTTC phải ký kết hợp đồng với các cửa hàng, công
ty cho phép CTTC mở điểm giới thiệu dịch vụ tại trụ sở của họ. Nội dung hợp đồng phải
có thời hạn và trách nhiệm, quyền hạn của hai bên.
1.1.3.

Vai trị của cơng ty tài chính
Các CTTC tồn tại để đáp ứng các nhu cầu tài chính của cá nhân và doanh nghiệp

khơng đủ điều kiện tiếp cận các dịch vụ tài chính của các ngân hàng. Các CTTC thường
chấp nhận các khoăn vay với rúi ro cao hơn nhiều hơn các ngân hàng. Sự tồn tại của
CTTC trong hệ thống tài chính ngân hàng tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các chủ
thể, mang lại động lực phát triển cho thị trường tài chính ngân hàng nói riêng và thị
trường nói chung.
Ban đầu, sự ra đời của các CTTC chủ yếu giúp huy động và điều phối nguồn vốn
trong tổng công ty, giúp tổng công ty phát triển trong một ngành, lĩnh vực nhất định.
CTTC đã từng bước xác định được vị trí quan trọng trong việc xây dựng nên một kênh
kinh doanh mới, hữu ích cho các cơng ty thành viên trong tổng công ty và tiếp đến đã
mở rộng hoạt động cho các đối tượng bên ngoài.
Cùng với các NHTM, CTTC cũng góp phần tạo thêm một kênh dẫn vốn cho nền
kinh tế, đáp ứng được nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt
là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cúa cá nhân. Một
số CTTC đạt được kết quả kinh doanh tốt, tạo được danh tiếng trên thị trường, được các
nhà đầu tư nước ngoài quan tâm và tin tưởng đầu tư.



1.2.

Hoạt động cho vay của cơng ty tài chính tại Việt Nam

1.2.1.

Khái niệm về hoạt động cho vay
Theo Từ điển Tiếng Việt, vay là hành động nhận tiền hay vật cua người khác sử

dụng với điều kiện sẽ trả lại bằng cái cùng loại hoặc có giá trị tương đương. Vay lãi là
vay có điều kiện khi trả phải thêm một khoản theo tỉ lệ phần trăm, gọi là lãi14.
Bộ Luật Dân Sự năm 2015 không đưa ra định nghĩa đối với hoạt động cho vay
nhưng hoạt động cho vay được thể hiện gián tiếp thông qua quy định về hợp đồng vay
tài sản. Theo Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng vay tài sàn là sự thỏa thuận giữa
các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay, khi đến hạn trả, bên vay phải
hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chi phải trả
lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định15.
Có thể thấy điểm bắt đầu của hoạt động cho vay là quan hệ dân sự giữa cá nhân,
một bên đang có một khoản tiền nhàn rồi và một bên đang có nhu cầu ứng vốn, các bên
thóa thuận về giao nhận, hoàn trả về tài sản này. Theo sự phát triển kinh tế xã hội, hoạt
động cho vay phát triển, gắn liền nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và phục vụ các nhu cầu của đời sống người dân. Khi hoạt động cho vay đã
trở thành một nghề nghiệp thì dẫn tới sự ra đời của các tổ chức tín dụng như ngân hàng,
CTTC.
Dưới góc độ tín dụng thì hoạt động cho vay thường xuyên đã trở thành một hoạt
động kinh doanh. Theo quy định tại khoản 16 điều 4 Luật Các TCTD 2010 định nghĩa
về cho vay: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết
giao cho khách hàng một khoán tiền đế sử dụng vào mục đích xác định trong một thời
gian nhất định theo thỏa thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi. ”

Bản chât của các Ngân hàng, CTTC cũng là bên đi vay đê cho vay lại. Các tô
chức này huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong xã hội sau đó đưa trở lại vào thị
trường thông qua hoạt động cho vay. Thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng, CTTC
14 Hoàng Phê (biên soạn 2003), Từ điên Tiếng Việt, Viện ngôn ngừ học, NXB Đà Nằng, trang 1099.
15 Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13, ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015, Điều
463


đã trở thành cơng cụ hồ trợ cho q trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
được liên tục và ốn định, đáp ứng kịp thời các nhu cầu cầu tài chính, gián tiếp góp phần
vào sự ổn định cúa nền kinh tế, xã hội.
Lợi ích mà hoạt động cho vay mang lại là rất lớn, nhưng ngược lại hoạt động này
chứa đựng những rủi ro khơng lường, địi hỏi người quản lý của tố chức này phải nhận
biết và kiểm sốt được những rủi ro đó.
1.2.2.

Đặc điếm của hoạt động cho vay của cơng ty tài chính
Qua thời gian dài hoạt động, các CTTC dần dần đã thể hiện những đặc trưng

riêng biệt trong hoạt động cho vay của mình như:
- Giá trị khoản vay nhó và tập trung vào hoạt động cho vay tiêu dùng.
Theo số liệu thống kê từ NHNN, tại thị trường Việt Nam có 26 CTTC, trong đó
có 10 cơng ty cho th tài chính16, 4 CTTC tổng hợp và 12 CTTC tiêu dùng17. Từ đó, có
thế thấy hoạt động tín dụng tiêu dùng chiếm một tỷ trọng khá lớn trong hoạt động của
các CTTC tại Việt Nam.
Theo báo cáo FiinGroup về tỷ trọng các sản phẩm cho vay trung bình ngành
2018 của các CTTC có thế thấy tỷ trọng cho vay trong mảng tiêu dùng phần lớn trong
cơ cấu sản phẩm cua các CTTC.

16 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Danh sách các cơng ty cho th tài chính

đếnmặt
30/09/2021,
Tiền
49% từ cơ sờ
dữ liệu cùa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam />tctdpnh/ctcttc?_afrLoop=12984360676327506#%40%3F_afrLoop%3D12984360676327506%26ccntcrWidth
%3D80%2525%261eftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26show
Headcr%3Dfalsc%26_adf.ctrl-statc%3Dh22orzv96_41, truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2021.
17 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Danh sách các cơng ty tài chính đến 30/09/2021, từ cơ sờ dừ liệu của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tctdpnh/cttc?
_afrLoop= 12984636965943506#%40%3F_afrLoop%3D 12984636965943506%26centerWidth
%3D80%2525%261eftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26show
Header%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dh22orzv96_78, truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2021..


×