Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Pháp luật về chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.4 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TÉ - LUẬT

TRẦN THỊ ÁNH TUYẾT

PHÁP LUẬT VÊ CHIA TÀI SÁN CHUNG
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI CHẤM DÚT
QUAN HỆ HƠN NHÂN
Ngành: Luật Dân sự và Tơ tụng dân sự
Mã số: 60.38.0ì.03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÂM TĨ TRANG

LUẬN VẢN THẠC sĩ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tác giá xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
cá nhân tác giả, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lâm Tố Trang. Nội dung luận văn
được tác giả nghiên cứu và soạn thảo một cách độc lập, không sao chép. Các sổ liệu và
thông tin trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, mọi sự tham khảo tài liệu của tác giả
nghiên cứu trước đó đều được tác giả ghi chú và trích dẫn đầy đủ.
Tác giả xin chịu trách nhiệm về các cam đoan nêu trên của mình.
TÁC GIẢ

Trần Thị Ánh Tuyết


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT


Từ viết tắt
Dẩn giải
TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao

TAND

Tịa án nhân dân

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

ủy ban nhân dân

UBTVQH

ủy ban Thường vụ Quốc hội

VKSNDTC

Viên kiểm sát nhân dân Tối cao



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC CHŨ VIẾT TÁT
MỤC LỤC

1.1.

Trang


1.2.1. Nguyên tăc áp dụng pháp luật giải quyêt việc chia tài sản chung giữa vợ và
chồng khi ly hơn.............................................................................................................27
\

1.2.2.

í

Chia tài sản chung giữa vợ chông khi ly hôn trong một sô trường hợp cụ thê

........................................................................................................................................36
1.2. Pháp luật về giải quyết tài sản chung giữa VỌ’ và chồng khi một trong hai

1.1.1.......................................................................................................................
1.1.2.

Việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi tài sản đã được đưa vào kinh

TÀI LIỆU THAM KHẢO


6


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong xu thế hội nhập và phát triển xã hội Việt Nam đã phát sinh nhiều vấn đề

mới cần có những hành lang pháp lý điều chỉnh kịp thời để đảm bảo lợi ích chung cũng
như quyền và lợi ích họp pháp của mồi cá nhân mà cao hon nữa là bảo vệ quyền con
người. Đứng trước yêu cầu đó, về mặt pháp lý trong thời gian qua, Việt Nam đã có
những bước tiến khá mới mẻ trong quy định lập pháp, một loạt các văn bản pháp luật
được ban hành thay thế các văn bản khơng cịn phù hợp trước đây, mà cụ thể là Hiến
pháp năm 2013, Bộ Luật dân sự 2015, Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015, Luật Đất đai 2013,
Luật Nhà ở 2014, Luật hơn nhân và gia đình 2014, Luật Hộ tịch 2014,... Nhằm điều
chỉnh kịp thời, hiệu quả những vấn đề phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội. Trong
phạm vi đề tài này, tác giả muốn đề cập đến vấn đề chia tài sản chung khi chấm dứt
quan hệ hôn nhân.
Hôn nhân là sự kết hợp của hai cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và tôn giáo một
cách hợp pháp, là kết quả cùa tình yêu, là một mối quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu
hết xã hội. về mặt xã hội, lễ cưới thường là sự kiện đánh dấu sự chính thức bắt đầu của
hơn nhân, về mặt luật pháp, đó là việc đăng ký kết hôn với cơ quan Nhà nước.
Gia đình là tế bào của xã hội, là tập hợp những người gắn bó với nhau bởi quan
hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ
và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các
thành viên trong gia đình và được các quy phạm pháp luật hơn nhân và gia đình điều
chính. Tuy nhiên thực tế ngày nay, đa số các cặp vợ chồng chung sống với nhau từ khi
còn rất trẻ nhưng chi sau một thời gian ngắn họ lại quyết định phá vỡ cuộc hơn nhân, từ
đó đã làm phá vỡ đi cấu trúc tế bào của xã hội, làm cho cuộc sống cùa các thành viên
khác cũng bị ảnh hưởng về mặt tinh thần và vật chất. Tuy khơng có sự gượng ép, đơn

phương từ một phía mà do cả hai cùng thông nhât đưa ra một quyêt định tuy nhiên ân
sâu trong đó là những lý do khó có thể giải bày ra trước một Tòa án, hay một cơ quan
nào; họ có thề chấp nhận việc gia đình đố vỡ nhưng khi ra trước Tịa án thì các cặp vợ


7

chồng thường đồng tình ký vào giấy ly hơn, khơng có một mâu thuẫn, có hoặc khơng có
tranh chấp gì thêm về tài sản hoặc con cái.
Dầu biết rằng, hôn nhân là kết quả của tình yêu nam nừ, nhưng không phải hôn
nhân lúc nào cũng ngọt ngào và cùng nhau đi hết cuộc đời, xung đột vợ chồng luôn xảy
ra trong tổ ấm của mồi cặp vợ chồng từ những vấn đề nhở nhất. Khi những mâu thuẫn
xảy ra và khơng được giải quyết thì dẫn đến việc kết thúc mối quan hệ hơn nhân và sau
đó sẽ có những tranh chấp kèm theo.
“Chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân” - đây là
một vấn đề phức tạp và luôn thu hút sự chú ý của các nhà làm luật, các nhà nghiên cứu.
Trên cơ sở kế thừa giá trị cua Luật Hôn nhân và Gia đinh năm 1986, 2000 Quốc hội đã
thơng qua Luật Hơn nhân và Gia đình hiện nay (được thông qua năm 2014) nhằm kịp
thời điều chỉnh, đáp ứng những nhu cầu cần thiết của xã hội ngày nay. Tuy nhiên, trong
thực tiễn áp dụng vẫn còn một số khó khăn, bất cập trong việc áp dụng và thi hành nên
tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi chấm
dứt quan hệ hôn nhân” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.

Tình hình nghiên cún
Đây là một đề tài nghiên cứu tuy là khơng mới nhưng có vị trí quan trọng trong

sự phát triển của xã hội, xuất pháp từ vai trị quan trọng của gia đình trong đời sống hiện
nay. Do đó trong thời gian qua đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu về đề tài này.
Nhóm các công trĩnh luận văn gồm:

- Nguyễn Thị Hạnh (2012), Chia tài sản chung giữa vợ chồng theo pháp luật
Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, luận văn Thạc sĩ, Khoa luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Đe tài tập trung nghiên cứu, khái quát cơ sở lý luận và thực tiên của
các quy định pháp luật vê chia tài sản chung giữa vợ chông; phân tích, nhận dạng những
bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định pháp luật thực định về chia tài sản chung giữa vợ
chồng vào thực tiễn Việt Nam; từ đó nêu lên những kiến nghị một số giải pháp nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật. Tuy nhiên, luận văn vào thời điểm này phân tích trên cơ
sở Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000.


8

- Tổng Thị Lý (2015), Chia tài sản chung giữa vợ chồng để tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh, luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn
đã phân tích được những khái niệm, nguyên tắc chung khi chia tài sản chung giữa vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân gắn với việc tạo điều kiện cho một bên vợ hoặc chồng
sản xuất, kinh doanh riêng; phân tích được những văn bản, quy định của pháp luật
liên quan đến vấn đề chia tài sản chung giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; nêu
lên những bất cập, kiến nghị trong quá trình áp dụng pháp luật. Do đó, luận văn chỉ
giúp tác giả nghiên cứu sâu hơn trong việc chia tài sản chung giữa vợ chồng để tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phạm Thị Anh (2015/ Xác định tài sản vợ chồng khi ly hơn theo Luật hơn nhãn và
gia đình 2014, luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Với đề tài
này tác giả đã nêu được những vấn đề lý luận, thực trạng áp dụng đối với việc xác
định tài sản vợ chồng khi ly hôn theo Luật hơn nhân và gia đình năm 2014, từ đó đề
xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
- Lê Vĩnh Kha (2017), Pháp luật về chia tài sản chung giữa vợ chồng khi ly hôn Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện, luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
TPHCM. Từ việc tác giả nghiên cứu những quy định của pháp luật, lý luận và thực
trạng áp dụng pháp luật, tác giả đã đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
về chia tài sản chung giữa vợ chồng khi ly hôn.

- Nguyền Thị Lan (2017), Chia tài sản chung giữa vợ chồng khỉ ly hôn từ thực tiễn xét
xử của Tòa án nhân dãn tại Hà Nội, luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam. Luận văn đã tìm hiểu, phân tích những vấn đề lý luận
cũng như những quy định của pháp luật hiện hành liên quan đên việc chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn và liên hệ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại Hà Nội. Từ
đó, đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật nói chung và
Luật hơn nhân và gia đình nói riêng.
Nhìn chung, các luận văn kể trên nghiên cứu về nhiều khía cạnh khác nhau của
chế định tài sản theo Luật Hơn nhân và gia đình qua các giai đoạn, tuy nhiên chi đánh
giá hậu quả pháp lý về chế độ tài sản giữa vợ và chồng ở góc độ khá chung hoặc chỉ liên


9

quan đến ly hôn mà chưa đánh giá được tổng thể việc phân chia tài sản chung giữa vợ và
chồng khi chấm dứt quan hệ hơn nhân.
Nhóm các sách giáo khoa, giáo trĩnh, sách chuyên khảo, tài liệu nghiên cứu
bao gồm:
- Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bĩnh luận khoa học Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Sách chuyên khảo trên chỉ mới đề cập được các
kiến thức pháp luật về chia tài sản chung giữa vợ chồng khi chấm dứt quan hệ hôn
nhân mà chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích kĩ các trường hợp chia tài sản chung
giữa vợ chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, tài liệu tại thời điểm này
phân tích trên cơ sở Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000.
- Nguyễn Ngọc Điện (2007), Giáo trình Luật hơn nhãn và gia đình, Tập 2,
Ebook.moet.gov.vn. Giáo trình đã phân tích sâu các quy định pháp luật về quan hệ
tài sản giữa vợ và chồng tuy nhiên chưa nêu lên được các nguyên tắc phân chia tài
sản giữa vợ và chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, tài liệu tại thời
điểm này phân tích trên cơ sở Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000.
Đại Việt

gia
học
Luật
Nam.
TPHCM
Giáo
(2019),
phân
Giáo
tích
trình
tồn
Luật
bộ các
Hơn
quy
nhân
định
vàtài
gia
của
đình
pháp
Việt
luật
Nam
liên
(Tái
quan
đến

cóLuật
sửa chấm
Hơn
đơi,nhân
bố sung),
và gia
Nxb
đình
Hồng
nămĐức
2014
- Hội
tuy Luật
nhiên
chưa
phân
tích
đượctrình
chun
sâu
các
nội
dung
phân
chia
sản
chung
giữa
vợ
vàbủn

chồng
khi
dứt
quan
hệ
hơn
nhân.


- Nguyễn Ngọc Điện - Đoàn Thị Phương Diệp (2018), sách chuyên khảo Phéip luật về
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Sách chuyên khảo tập trung vào việc phân tích, lý giải, góp phần hồn thiện các nội
dung liên quan đến pháp luật về quan hệ tài sàn giữa vợ chồng mà không đề cập cụ
thể các nguyên tắc, lý luận chuyên sâu đến việc phân chia tài sản chung giữa vợ và
chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Nhóm các sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu nghiên cứu được tác giả phân tích
chung chung, bao quát tất cả các vấn đề của chế định tài sản giữa vợ và chồng, các quy
định của pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, chưa đi sâu vào phân tích vấn đề cụ
thể về chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân. Do đó, trong
cơng trình nghiên cứu của mình tác giả sẽ đi sâu vào làm rõ, phân tích một cách chuyên
sâu các chế định về việc chia tài sản chung giữa vợ chồng khi chấm dứt quan hệ hôn
nhân (bao gồm ly hôn, khi một bên vợ hoặc chồng chết), đồng thời vận dụng những vấn
đề đã nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn.
Từ những nhóm tài liệu nghiên cứu trên tác giả nhận thấy so với các công trình
nghiên cứu đã phân tích thì đề tài luận văn này là hồn tồn khơng có sự lặp lại những
vấn đề, nội dung đã nghiên cứu trước đó.
3.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cún
•••“

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tìm hiểu các quy định pháp luật hiện

hành về thú tục ly hôn đồng thời đối chiếu với thực tiễn áp. Từ đó tác giả mong muốn
tìm ra những bất cập, thiếu sót và mạnh dạng đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định cùa pháp luật về “Phân chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi chấm dứt quan hệ
hôn nhân”.
- Để đạt được mục tiêu đề ra, tác giả tập trung làm rõ các vấn đề sau:
- Tập trung phân tích, nghiên cứu, đánh giá cơ sở lý luận và quy định pháp luật về
chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân.


- Tìm hiêu, nghiên cứu, đánh giá thực tiên áp dụng pháp luật vê chia tài sản chung
giữa vợ và chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân (thông qua bản án, các văn bản
thỏa thuận giữa vợ và chồng,..
Nêu ra những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật; từ đó đưa ra những
đề xuất, kiến nghị cho phù hợp, hoàn thiện các quy định cúa pháp luật về chia tài sản
chung giữa vợ và chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
về đối tượng nghiên cứu: trong luận văn tác già tập trung nghiên cứu chú yếu các

quy định pháp luật hiện về cơ sở lý luận, thực tiễn đề từ đó đề xuất những kiến nghị đối
với việc áp dụng pháp luật liên quan đến việc phân chia tài sản chung giữa vợ và chồng
khi chấm dứt quan hệ hôn nhân.
về phạm vi nghiên cứu: vấn đề chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi chấm dứt
quan hệ hôn nhân có phạm vi rất rộng, trong khn khồ cua luận văn tác giả tập trung
nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản chung giữa vợ chồng
(tập trung chủ yếu vào chia tài sản chung giữa vợ chồng được quy định trong Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014, Bộ Luật dân sự năm 2015 và một sổ văn bản pháp luật

khác có liên quan); thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về chia tài sản
chung giữa vợ chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân từ thực tiễn xét xử tại Tịa án nhân
dân các cấp. Luận văn khơng đề cập đến góc độ thủ tục tố tụng khi giải quyết vấn đề
chia tài sản chung vợ chồng; không xem xét, nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung vợ
chồng dưới góc độ tư pháp quốc tế.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp rất nhiều phương pháp bao

gồm:
- Phương pháp phân tích câu chữ: phân tích từng câu, từng chữ dựa theo ý nghĩa của
từ ngữ được ghi nhận trong từ điển hoặc trong tập quán, là hoạt động trí tuệ của nhà
chuyên môn “đi xuyên qua văn bản quy phạm pháp luật” để nắm bắt ý chí đích thực


của người làm luật. Mục đích tơi hậu của việc thực hành phương pháp phân tích câu
chữ là phát hiện ý chí của người làm luật, phát hiện các quy phạm pháp luật mà
người làm luật muốn xây dựng và được thế hiện trong văn bản. Với phương pháp
phân tích câu chữ, người nghiên cứu phát hiện luật chứ không tạo ra luật. Tác giả tập
trung phân tích Chương 1 theo phương pháp này nhằm tìm hiểu, nghiên cứu sâu nội
dung của đề tài.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác
nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối
tượng; sau đó tồng hợp là liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân
tích tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về đối tượng. Đây là
phương pháp phù hợp nhằm hồ trợ tác giả trong việc đánh giá, tổng hợp trên cơ sở lý
thuyết đế đi sâu nghiên cứu lý luận, các quy định của pháp luật hiện nay của Luật
Hơn nhân và Gia đình cùng với các điều luật khác có liên quan trong nội dung của
Chương 1.

- Phương pháp so sánh: sử dụng để so sánh các quy định của pháp luật hiện hành với
quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình trước đây, từ đó lựa chọn và áp dụng
luật phù hợp với vấn đề được đặt ra. Từ việc áp dụng phương pháp phân tích câu
chừ; phương pháp phân tích, tồng hợp lý thuyết ở trên kết hợp với phương pháp so
sánh tác giả từ cơ sở lý luận đã so sánh, đối chiếu với những quy định của pháp luật
hiện nay nhằm phân tích cụ thể trong việc áp dụng pháp luật của Tịa án tại Chương
2.
- Ngồi ra, sử dụng thêm các phương pháp tổng hợp, phân tích thống kê, phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp suy diễn và quy nạp nhằm nghiên cứu, tìm hiểu sâu
hơn vấn đề; tác giả đã phân tích từng phương pháp cụ thể nhằm lựa chọn hình thức
kết hợp để áp dụng trong việc phân tích nội dung Chương 1, Chương 2 của luận văn
này.


6.

Kêt câu đê tài
về cơ bản, trong luận văn thạc sĩ bao gồm mở đầu, kết thúc và 2 chương có bố

cục như sau:
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CHIA TÀI SẢN CHUNG GIŨA vọ VÀ CHỊNG KHI CHẤM DỨT QUAN HỆ
HƠN NHÂN
KÉT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2: THỤC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIÉN
NGHỊ VÈ CHIA TÀI SẢN CHUNG GIŨA vọ VÀ CHỎNG KHI CHẤM DỦT
QUAN HỆ HÔN NHÂN
KÉT LUẬN CHƯƠNG 2
KẾT LUÂN



CHƯƠNG 1
CO SỞ LÝ LUẬN VÃ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SÃN
CHUNG GIŨ A VỢ VÀ CHỒNG KHI CHẤM DỦT QUAN HỆ HÔN NHÂN
1.1.

Khái niệm về chia tài sản chung giữa VỌ' và chồng khi chấm dứt quan

hệ hôn nhân
1.1.1.

Khái niệm và phân loại các trường hợp chấm dứt quan hệ hôn nhăn

1.1.1.1.

Khái niệm về chấm dứt quan hệ hơn nhân

Hơn nhân, một cách chung nhất có thể được xác định là kết quả của tình yêu,
mổi quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội, ln ln thay đồi trong suốt q
trình phát triển cúa mối quan hệ giữa họ, nhờ đó xã hội xếp đặt và cho phép họ sống
chung với nhau, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Hiến pháp năm 2013 cũng
khẳng định hôn nhân là sự kết hợp đặc biệt dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tiến bộ, một
vợ một chồng; hay nói cách khác hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn
1621 1622

. Nhà nước bằng pháp luật đã ghi nhận và điều chỉnh việc kết hôn bàng các quy

phạm pháp luật cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình |2L
Vì nhiều lý do mà hơn nhân có thề chấm dứt sự tồn tại của mối quan hệ trước

pháp luật. Trong quy định của Điều 57 Luật Hơn nhân và Gia đình hiện nay có quy định
về thời điềm chấm dứt quan hệ hơn nhân nhưng khơng có một khái niệm cụ thể, rõ ràng
như thế nào là chấm dứt quan hệ hôn nhân; tuy nhiên, dưới góc độ lý luận trong lĩnh vực
các quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình, tác giả có thể hiểu “Chấm dứt hơn nhân
được hiểu là sự xuất hiện các sự kiện pháp lý cụ thể làm chấm dứt quan hệ pháp luật
giữa VỌ’ và chồng vốn được thiết lập theo quy định của pháp luật ”.
1.1.

ỉ.2. Các trường hợp châm dứt quan hệ hôn nhân
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014

1623 1624

có chế định “Chấm dứt hôn nhân”;

1621

Khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia dinh năm 2014 .

1622

Đại học Luật TPHCM (2019), Giáo trình Luật Hơn nhản và Gia đình Việt Nam (tái bàn có sửa

đơi, bơ sung), Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, trang 151.
1623
Chương IV (Mục 1, Mục 2) Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 từ Điều 51 đến Điều 67
1624 quy định tại Điều 71 Bộ Luật dân sự nãm 2015, Điều 64 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014


do đó các trường hợp được xem là chấm dứt quan hệ hôn nhân gồm hôn nhân chấm dứt

do ly hôn, hôn nhân chấm dứt do một bên vợ hoặc chồng chết.
Hơn nhân chấm dứt do ly hơn dưới góc độ pháp luật được quy định tại khoản
14 Điều 3 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 thì ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn
nhân khi hai bên chủ thế cùa quan hệ còn sống do một bên u cầu hoặc cả hai bên
thuận tình, được tịa án công nhận bằng bản án xử cho ly hôn hoặc bằng quyết định
thuận tình ly hơn. Pháp luật ly hôn thay đổi đáng kể qua nhiều giai đoạn và đã tạo ra
hành lang pháp lý hoàn thiện hơn bảo vệ cho các bên trong quan hệ hôn nhân. Thủ tục
pháp lý cho việc ly hơn cũng có thế liên quan đến các vấn đề hồ trợ vợ chồng, nuôi con,
hồ trợ trẻ em, phân phối tài sản và phân chia các khoản nợ.
Hôn nhân chấm dứt do một bên vự hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố
chết đây là một sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân hợp pháp của hai bên
vợ chồng. Pháp luật Hơn nhân và Gia đình hiện nay khơng nêu khái niệm cụ thể như thế
nào là Hôn nhân chấm dứt do một bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết;
tuy nhiên, đối với pháp luật Dân sự, Hơn nhân và Gia đình

l4J

thì có thể hiểu hôn nhân

của vợ chồng sẽ chấm dứt khi một trong hai bên chết (cái chết sinh học) và thời điểm
chấm dứt kể từ thời điểm ghi tên trên giấy khai tử; mặt khác, đối với các trường hợp một
bên vợ, chồng bị Tịa án tun bố chết thì sẽ căn cứ theo các quy định của Bộ Luật dân
sự năm 2015 và thời điểm sẽ được tính theo ngày chết ghi trong bản án, quyết định có
hiệu lực. Đây là một trường hợp chấm dứt quan hệ hôn nhân đặc biệt là pháp luật cũng
không yêu cầu các bên phải thực hiện các thủ tục đặc biệt nào mà chì cân thực hiện việc
khai tử cho bên vợ, chơng đã chêt theo quy định cúa pháp luật tại cơ quan, nhà nuớc có
thẩm quyền |51.
Vấn đề đặt ra trong trường hợp Tòa án tuyên bố chết đối với một bên vợ, chồng
thì chỉ là sự giả định của pháp luật nhằm ổn định đời sống cho bên vợ, chồng còn lại;
khi tuyên bố chết được Tòa án đặt ra thì được nêu lên trên cơ sở dự đốn cái chết của

người đó do đó thực sự người đó đã chết về mặt sinh học hay chưa thì Tịa án khơng
chắc chắn được. Sự suy đốn về cái chết của một cá nhân khơng phải lúc nào cũng đúng
hồn tồn và nó có thế được hủy bở trong trường hợp người được tuyên bố đó trở về và


Tòa án sẽ bác bở bản án, quyết định đã có hiệu lực trước đó nếu có căn cứ, tin tức xác
thực người đó cịn sống. Điều này dẫn đến việc quan hệ hôn nhân của người này sẽ được
phục hồi nếu người cịn lại chưa kết hơn; quan hệ tài sán cũng sẽ được phục hồi tùy vào
từng trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật Hôn nhân và Gia đình 1625 1626 1627.
1.1.2.

Khái niệm và phân loại về tài sản chung giữa vợ và chồng

1.1.2.1. Khái niệm về tài sản chung giữa vợ và chồng
Vợ chồng trong q trình chung sống với nhau ngồi mối quan hệ tình cảm với
nhau thì cả hai sẽ phát sinh một mối quan hệ đặc biệt góp phần duy trì đời sống vợ
chồng đó là quan hệ tài sản chung.
Tài sàn là yếu tố quan trọng trong quá trình lưu thông và vận hành các giao dịch
dân sự; cùng với quy định hiện nay của luật Dân sự

171

thì “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ

có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và
động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Việc xác định
một cách đúng đắn nội hàm của khái niệm này có ý nghĩa lớn đối với q trình áp dụng
pháp luật dân sự (hiểu theo nghĩa rộng); với pháp luật Hơn nhân và Gia đình, việc hiêu
rõ vê tài sản là nên tảng quan trọng đê tìm hiêu sâu hơn vê tài sản chung giữa vợ và
chồng. Có thể thấy khái niệm tài sản là một phạm trù vơ cùng rộng; tuy nhiên có thể tạm

hiếu theo những phần trên thì tài sản của vợ chồng là những của cải, vật chất có giá trị
được sử dụng vào giao dịch dân sự của vợ chồng.
Hiện nay, pháp luật Hôn nhân và Gia đinh không nêu khái niệm như thế nào là
“Tài sản chung giữa vợ chồng” nhưng có nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về “Tài
sản chung giữa vợ chồng”, chẳng hạn:
- Có quan điểm cho rằng “Tài sản chung giữa vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung
của cả vợ và chồng, vợ chồng cùng là chủ sở hữu đối với khối tài sản đó, là hình
thức sở hữu chung đặc biệt. Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, sự tồn tại cúa chế độ tài
sản chung giữa vợ chồng phụ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân và chấm dứt
1625
1626
1627

Đại học Luật TPHCM (2019), tlđd, trang 414.
Đại học Luật TPHCM (2019), tlđd. trang 417, 418.
Điều 105 Bộ Luật dân sự 2015.


khi một trong hai vợ chồng chết hoặc có bản án, quyết định của Tịa án cho vợ chồng
ly hơn. Như vậy, mọi tài sản trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung
giữa vợ chồng, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt mà không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra tài sản hay cơng sức đóng
góp cùa mỗi bên”

181

- tác giả khơng thực sự đồng tình đối với quan điểm này khi

khắng định “mọi tài sản trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung” vì
theo quy định của pháp luật Hơn nhân và Gia đình hiện nay khơng phải lúc nào tài

sản trong thời kỳ hôn nhân cũng là tài sản chung giữa vợ chồng, chăng hạn trường
hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thơng qua
giao dịch bằng tài sản riêng thì đây là tài sản riêng 191.
- Theo tác giả Lê Vĩnh Kha |lơ| “Tài sản chung giữa vợ chồng là tài sản chung hợp nhất
- phần quyền sở hữu của vợ, chồng không được xác định. Khi đem
8

Trần Thị Hoài (2019), Pháp luật về chia tài sàn chung giữa vợ chồng khi ly hơn qua thực tiễn xét xử tại Tinh
Bình Định, luận vãn Thạc sĩ, Khoa luật, Đại học Kinh tế - Luật TPHCM, trang 10.
Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

10

Lê Vĩnh Kha (2017), Pháp luật về chia tài sàn chung giữa vợ chồng khi lỵ hỏn - Thực trọng và kiến nghị hoàn
thiện, luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia TPHCM, trang 9, 10.

chia, khôi tài sản chung được phân, tách thành từng phân (tính theo hiện vật hoặc giá trị)
để vợ, chồng có quyền sở hữu riêng. Tức “phần quyền sở hữu của mồi chủ sở hữu chung
không được xác định đối với tài sản chung Theo đó, khi hơn nhân cịn tồn tại, không thể
xác định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Khối tài sản
chung giữa vợ chồng thường hình thành khi hai bên nam nữ bắt đầu bước vào cuộc sống
vợ chồng thông qua sự kiện kết hôn và sẽ liên tục được bổ sung trong suốt thời kỳ hôn
nhân bằng nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, theo quy định cùa pháp luật Hơn nhân và
Gia đình thì tài sản chung giữa vợ chồng là sản chung hợp nhất có thể phân chia. Khi ly
hơn thì khi chia tài sản thì vợ chồng có thế thỏa thuận hoặc u cầu Tịa án giải quyết
chia tài sản. Khi đem chia, khối tài sản chung được phân, tách thành từng phần đế vợ,
chồng có quyền sở hữu riêng. Sau khi chia, tài sản thuộc khối tài sản chung giữa vợ


chồng sẽ trở thành tài sản riêng cúa vợ hoặc chồng. Vợ, chồng có tồn quyền quyết định

việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản đó” - tác giả của quan điềm này đã
nêu lên được hai lập luận trái ngược nhau nhưng không đưa ra được sự thống nhất khái
niệm Tài sản chung là gì, đồng thời không thống nhất được tài sản chung giữa vợ chồng
trong thời kỳ hơn nhân có thể phân chia được hay không?
- Mặt khác, sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân
chia.Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung l'2k
Từ những quan điếm trên, tác giả rút ra khái niệm “Tồ/ sản chung giữa vợ chồng
là khối tài sản vợ chồng sở hữu chung họp nhất trong thời kỳ hơn nhân, có thể được
phân chia; được sử dụng vào việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất
kinh doanh của cả gia đình. Vợ chồng đều có quyển ngang nhau đổi với khối tài sản
chung đó; cùng nhau bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung 1628 1629
1.1.2.2. Phân loại chê độ tài sản chung hiện nay
Một trong những quan điếm mới của Luật Hơn nhân và Gia đình hiện nay đó là
ngồi chế độ tài sản chung theo luật định, pháp luật cịn cho phép hai bên vợ chồng có
thêm chế độ tài sản chung theo thỏa thuận. Như vậy, trước khi nam và nữ kết hơn với
nhau có thể thỏa thuận với nhau về việc sẽ áp dụng chế độ tài sản chung nào; nếu trong
trường hợp họ khơng có thỏa thuận, thỏa thuận bị Tịa án tun bố vơ hiệu, khi thực hiện
chế độ tài sản chung theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng
thỏa thuận hoặc thởa thuận khơng rõ ràng thì chế độ tài sản theo luật định sẽ được áp
dụng

1630 1631 1632

. Theo đó, có thể phân biệt chế độ tài sản chung giữa vợ và chồng theo

1628
1629
1630


Khoản 1 Điều 210 Bộ Luật dân sự năm 2015.
Điều 213 cua Bộ Luật dân sự năm 2015
Đại học Luật TPHCM (2019), tlđd, trang 200.

1631

Bộ Tư pháp (2013), “Bàn thuyết mình Dự thảo Luật sửa đôi, bổ sung một số điều của Luật hôn

nhân và gia đình năm 2000 ”,
1632

Chế độ tài sàn theo thỏa thuận được quy định tại các Điều 47, 48, 49, 50, 59 Luật Hơn nhân và gia

đình năm 2014.


quy định của pháp luật Hơn nhân và Gia đình hiện nay gồm:
- Chế độ tài sản chung giữa vợ chồng theo thỏa thuận , thực ra không phải là
điều quá mới trong lịch sử pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Việt Nam. Tuy nhiên,
pháp luật Hơn nhân và Gia đình do nhà nước Cộng hịa Xã hội Chú nghĩa Việt Nam ban
hành trong các giai đoạn trước đây lại chỉ ghi nhận duy nhất một chế độ tài sản của vợ
chồng, đó là chế độ tài sản chung theo luật định, điều này thể hiện qua quy định tại Luật
Hơn nhân và Gia đình năm 1959, 1986, 2000. Chế độ tài sản chung giữa vợ chồng theo
luật định phù hợp với quan niệm và tình trạng kinh tế trong phần lớn các gia đình ở Việt
Nam. Tuy nhiên, việc áp đặt một chế độ tài sản chung trong hôn nhân cho tất cả các cặp
vợ chồng muốn thực hiện chế độ hơn sản phù hợp với tình trạng kinh tế của họ và gia
đình; khơng đảm bảo quyền tự định đoạt của người có tài sản được quy định trong Hiến
pháp và Bộ Luật dân sự [14J.
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014


1151

quy định chế độ tài sán chung theo

thỏa thuận giúp cho các cặp vợ chồng có thêm sự lựa chọn phù hợp với điều kiện, hồn
cảnh của gia đình và bản thân, đơng thời đảm bảo sự hài hòa với sự đa dạng trong đời
sống hơn nhân và gia đình, giữ sự ốn định, phát triền của gia đình, đảm bảo quyền, lợi
ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, phù hợp với nguyên tắc cơ bản đã được
ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật Dân sự. Đó là cơ sở để bảo vệ tài sản của từng cá
nhân, điều đó sẽ cho phép vợ chồng có kế hoạch dự trù tài sàn riêng hay tài sản chung
trong hôn nhân, giúp giảm thiểu xung đột và tiết kiệm được án phí tranh tụng trong
trường hợp chấm dứt quan hệ hôn nhân... Bên cạnh đó, việc thỏa thuận tài sản trước khi
kết hơn cịn bảo đảm cho một cam kết hơn nhân thực sự chứ khơng vì hơn nhân vụ lợi,
làm giảm tranh chấp khi chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Tại quy định của Điều 47 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 có thể thấy nội
dung điều luật trên có sự trùng lặp và mâu thuẫn nhau khi đoạn đầu quy phạm xác định
khi lựa chọn chế độ tài sản chung theo thỏa thuận phải được lập trước khi kết hôn, tuy
nhiên đoạn sau lại xác định... được xác lập kể từ ngày đăng ký kểt hôn; chi một nội dung
về việc quy định thời điểm xác lập chế độ tài sản cúa vợ chồng theo thỏa thuận, tuy


nhiên lại quy định hai thời điểm khác nhau; nội hàm các nhà làm luật hướng tới điều
luật trên bao gồm ba nội dung là thời điểm xác lập, hình thức và thời điểm phát sinh
hiệu lực của việc lựa chọn chế độ tài sản chung theo thởa thuận. Tuy nhiên, do sự thiếu
sót trong việc sốt xét dẫn đến nội hàm điều luật bị trùng lặp trong quy định, dẫn đến
việc khó khăn trong áp dụng. Khi áp dụng trong thực tiễn sẽ thấy được điểm bất cập khi
quy định này chỉ được áp dụng đối với các cặp vợ chồng từ sau thời điểm ngày
01/01/2015 (ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực). Vậy những trường
họp mà vợ chồng đã đăng ký kết hôn từ trước thời điểm trên muốn lựa chọn chế độ tài

sản chung vợ chồng theo thỏa thuận thì đều khơng được thừa nhận bởi Luật chỉ thừa
nhận việc lựa chọn chế
• • • • • • • • độ tài sản chung theo thởa thuận phải được lập trước khi kết hôn
ll6) 1633

.

- Chế độ tài sản chung giữa vợ chồng theo luật định , được pháp luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2014 quy định cụ thể từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều
64; do đó có thể thấy pháp luật đã dự liệu được những nội dung cụ thể, những giao dịch
cụ thể trong quá trình chung sống với nhau tạo lập, duy trì được để xác định những loại
tài sản chung theo luật định cụ thể.
Có thể thấy Điều 33 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 đã xác định cụ thể
khối tài sản chung giữa vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập
hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Ngoài ra
luật cũng quy định đổi với tài sản có tính chất đặc thù đó là quyền sử dụng đất mà vợ,
chồng có được sau khi kết hơn là tài sản chung của vợ chồng; quyền sử dụng đất mà vợ,
chồng có được trước khi kết hơn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng
thỏa thuận nó là tài sản chung. Điều luật này là sự kế thừa của Luật Hơn nhân và Gia
đình năm 2000 cũng như thống nhất với quy định tại Điều 210, 213 của Bộ Luật dân sự
năm 2015 mà theo đó sẽ khơng có sự phân chia phần quyền sở hữu của mồi chủ sở hữu
chung theo tỷ lệ tài sản; khi đó quyền và nghĩa vụ của hai bên vợ chồng là ngang nhau
1633

Đại học Luật TPHCM (2019), tlđd, trang 202 đến trang 209.


đối với khối tài sản chung của họ; quan hệ này sẽ chấm dứt khi hai bên thởa thuận chia

khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thành tài sản riêng. Sở dĩ luật quy định cụ thể
tài sản chung giữa vợ và chồng nhằm giúp đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện
nghĩa vụ chung cùa vợ chồng 1634.
Mặt khác, không phải trong mọi trường hợp tài sản chung nào pháp luật cũng
mặc nhiên cơng nhận đó là tài sản chung giữa vợ chồng theo chế độ tài sản chung luật
định; cụ thể trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật
quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu,
giây chứng nhận quyên sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chông (khoản 1 Điêu 34 Luật
Hơn nhân và Gia đình năm 2014). Quy định này nhằm giúp giảm thiểu tối đa các tranh
chấp giữa hai bên vợ chồng khi có yêu cầu phân chia tài sản chung, cũng như thuận tiện
trong việc xác định các chứng cứ, chứng minh đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng
nhằm bảo vệ lợi ích của vợ chồng và bên thứ ba.
Khối tài sản chung giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không nhất thiết do hai
bên vợ, chồng trực tiếp tạo ra hoặc tạo ra ngang bằng nhau. Tài sản chung có thể do một
trong hai bên vợ chồng tạo ra, đây cũng có thể nói là điềm khác biệt nhất so với chế độ
tài sản sở hữu chung hợp nhất khác 1635.
Ngồi ra, nhà làm luật cịn dự liệu tình huống khi không thể xác định được đầy
đú căn cứ, chứng minh đâu là tài sản riêng của vợ chồng thì sẽ áp dụng ngun tắc
“Trong trường hợp khơng có căn cứ đế chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh
chấp là tài sán riêng của mỗi bên thì tài sán đó được coi là tài sản chung - khoản 3
Điều 33 Luật Hỏn nhản và Gia đình năm 2014”. Đây là điểm mới của luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2014 xuất phát từ tình hình thực tế tranh chấp quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng ngày càng nhiều, cuộc sống chung trong thời kỳ hôn nhân sau nhiều năm tháng
các bên không thế xác định được đâu là tài sản riêng cúa vợ chồng. Trước đây, nội dung
này luật đã bó ngỏ vì khơng dự liệu được hết những tình huống xảy ra và khơng có quy
1634

Hồng Văn cầu (2017), Chế độ tài sán luật đinh theo luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam, luận

văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật TPHCM, trang 35.

1635

Trần Thị Hoài (2019), tlđd, trang 11 đến trang 12.


định cụ thể, dẫn đến Tòa án khi giải quyết vụ việc rơi vào tình huống này thì lúng túng
trong việc giải quyết.
Căn cứ xác định tài sản chung theo luật định gồm:
- Thứ nhất, Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh:
Đây là nhóm tài sản chủ yếu của vợ chồng; được các bên cùng nhau duy trì, phát
triển; chăm lo đời sống chung trong gia đình. Bởi lẽ, tài sản này gắn liền với việc phát
sinh quan hệ nhân thân giữa vợ, chông và tôn tại cùng với sự tôn tại của quan hệ hôn
nhân, mà đặc trưng của quan hệ hôn nhân là tồn tại lâu dài, bền vững.
Tài sản để xác định là tài sản chung trong trường hợp này phải là tài sản mà vợ,
chồng có được trong thời kỳ hôn nhân llỌ|, tức sau khi họ đã trở thành vợ chồng. Nếu một
tài sản mà người vợ hoặc chồng có được trước khi họ trở thành vợ chồng là của riêng
người đó. Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 trước đây cũng xác định những tài sản
này là tài sản chung của vợ chồng, tuy nhiên khi áp dụng Luật Hơn nhân và Gia đình
năm 2000 đã phát sinh vấn đề gây tranh luận rằng trước khi trở thành vợ chồng của
nhau, người chồng hoặc người vợ thực hiện một giao dịch bằng chính tài sản của riêng
mình, nhưng giao dịch này lại hồn thành khi họ đã là vợ chồng, vậy tài sản đó được
hiểu như thế nào?
Khối tài sản chung trên của vợ chồng có thể được tạo thành từ ba nguồn: Do
người vợ tạo ra; do người chồng tạo ra hoặc do cả hai vợ chồng cùng tạo ra. Xuất phát
từ tính chất quan hệ hơn nhân là cùng chung ý chí, cùng chung công sức trong việc tạo
lập, chăm lo đời sống gia đình, pháp luật khơng căn cứ vào cơng sức đóng góp cùa mồi
người. Do sức khỏe, năng lực, trình độ,... vợ, chồng có thể tạo lập khối tài sản chung
khơng ngang bằng nhau, nhưng pháp luật vẫn thừa nhận quyền bình đắng giữa vợ và
chồng đối với khối tài sản chung đó. Điều 29 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 có

nêu vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt ngang nhau đổi với tài sản
chung, và khi vợ chồng ly hơn, về ngun tắc tịa án sẽ chia đôi tài sản chung, nếu vợ
chồng không tự thỏa thuận phân chia được.


Với những quy định này có thể dẫn đến một số trường hợp một bên có thể là vợ
hoặc chồng khơng cố gắng lao động để đóng góp cơng sức, tiền của để tạo lập, duy trì,
phát triển kinh tế chung của gia đình; pháp luật vẫn thừa nhận quyền bình

19

Thời kỳ hơn nhân là khống thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hỏn đến khi chấm
dứt hôn nhân. Khoản 13, Điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, các trường hợp hôn nhân
thực tế, thời kỳ hồn nhân lại tính từ khi sống chung đến khi chấm dứt hơn nhân. Do vậy, có trường hợp trước
khi kết hơn, giữa họ đà tồn tại quan hệ vợ chồng.

đẳng giữa vợ và chồng đối với tài sản riêng; tuy nhiên, bản chất của hơn nhân là cùng
chung ý chí, cơng sức trong việc tạo lập tài sản chung, vợ hoặc chồng sẽ có nhiều yếu tố
làm cho việc đóng góp cơng sức khơng đồng đều như sức khóe, trình độ,.... Nhưng trong
q trình phân chia tài sàn chung Tịa án sẽ xem xét đánh giá nếu vợ hoặc chồng yêu
cầu xem xét đến yếu tố “cơng sức đóng góp”. Tuy nhiên nguyên tắc này không được đặt
ra khi họ đang tồn tại quan hệ vợ chồng và đang duy trì khối tài sản chung, mà chỉ được
đặt ra khi tòa án xem xét để phân chia tài sản chung. Nghĩa là khi có sự phân chia về tài
sản chung của vợ chồng, tịa án phải đánh giá về cơng sức đóng góp của vợ, chồng trong
việc tạo lập, duy trì và phát triến khối tài sán chung. Theo đó, người nào đóng góp tiền
cúa, cơng sức, thời gian nhiều, tịa án sẽ chia cho người đó phần nhiều ,201.
- Thứ hai, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng: Hoa lợi phát
sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ, chồng có được từ tài sản
riêng của mình; lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vọ, chồng là khoản lợi mà vợ,
chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của mình. Trước khi có Luật Hơn nhân và

Gia đình năm 2014, khối tài sản này không được xác định rõ là tài sản chung hay tài sản
riêng của bên vợ, chồng có tài sản, vì vậy trong khoa học pháp lý đã tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng

1636

đây là tài sản chung cúa vợ chồng, vì khối

tài sản này là khoản thu nhập hợp pháp khác cua vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn
nhân. Theo quan điểm này, dưới góc độ Luật Hơn nhân và Gia đình, về ngun tắc
1636vấn đề này được trình bày kỹ ờ phần sau.
21

Nguyễn Vãn Tiến (2012), Chế độ tài sàn của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học,
trang 51.


những tài sản nào mà không phải là tài sản riêng của vợ chồng thì đó là tài sản chung
của họ hoặc một bên cho ràng tài sản hiện có là tài sản riêng của họ nhưng họ khơng có
chứng cứ đề chứng minh là tài sản riêng thì đó là tài sản chung của vợ chồng. Xuất phát
từ việc luật bỏ ngỏ quy định về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng
và tại Điều 32 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 quy định vê tài sản riêng theo
hướng liệt kê nên cách hiêu này là đúng quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Quan
điểm khác lại cho rằng: Hoa lợi, lọi tức phát sinh từ tài sản riêng cúa vợ, chồng là tài sản
riêng của vọ, chồng vì theo Điều 224 Bộ Luật dân sự năm 2015 chủ sở hữu, người sử
dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lọi tức theo thỏa thuận hoặc theo quy định
của pháp luật kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lọi tức đó. Với quy định này, hoa lọi, lợi
tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng được hiểu là tài sản riêng của chủ sở hữu.
Theo nguyên tắc chung, Luật Dân sự là nguồn của Luật Hơn nhân và Gia đình về chế độ
tài sản. Neu Luật Hơn nhân và gia đình khơng quy định về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ

tài sản riêng của vợ, chồng là tài sản chung hay riêng, thì sử dụng Luật Dân sự để giải
quyết. Đây là sự dẫn chiếu này theo nguồn luật, tức, Luật Dân sự là nguồn của Luật Hơn
nhân và Gia đình về một số quy định liên quan đến luật này; cũng có quan điểm cho
rằng, chỉ những hoa lợi, lợi tức có được do vợ, chồng có đầu tư thời gian, cơng sức mới
xác định là tài sản chung của vợ chồng hiểu theo nghĩa thu nhập do lao động, hoặc sản
xuất, kinh doanh mà vợ, chồng có được.
Với quy định hiện nay, tất cả đều là tài sản chung của vợ chồng; tuy nhiên, nếu
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng có được trong thời gian vợ,
chồng chưa hoặc không phân chia tài sản chung, là tài sản chung của vợ chồng; nếu hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng cùa vợ, chồng có được sau khi họ đã chia tài sản
chung, thì đây lại là tài sản riêng của vợ, chồng có tài sản, trừ khi họ có thỏa thuận khác
(Khoản 1, Điều 40 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014).
- Thứ ba, các khoản thu nhập họp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân: Thu nhập hợp pháp khác ở đây được hiểu là những khoản thu nhập khơng thuộc
nhóm tài sản thứ nhất vừa nêu. Có thể đó là số tiền mà vợ, chồng trúng xổ số,


số tiền thưởng mà vợ, chồng nhận được, hay khoản tiền trợ cấp 1637, tài sản mà vợ, chồng
xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ Luật Dân sự.
Như vậy, các khoản thu nhập hợp pháp này có thể do một mình người chồng
hoặc người vợ có được, và thời điểm có được này là trong thời gian họ đang là vợ chồng
cúa nhau. Nếu một tài sản hình thành trước khi kết hơn nhưng sau khi kết hơn họ mới
nhận nó, tài sản này khơng phải tài sản chung. Chẳng hạn trước khi kết hôn, người vợ
mua 10 tờ vé số và trúng số, sau khi kết hôn, chị ta mới nhận số tiền trúng số; số tiền
này là của riêng người vợ.
Theo quy định của điều luật trên, tài sản để coi là tài sản chung phải có nguồn
gốc là “hợp pháp”, nghĩa là được hình thành phù hợp với pháp luật. Nếu như vậy, tài sản
do chồng hoặc vợ trộm cắp, buôn lậu, tham nhũng,... nói chung là có nguồn gốc bất hợp
pháp thì khơng thể xem là tài sản chung của vợ chồng được, bởi nếu bị phát hiện, nhà
nước sẽ thu hồi, tịch thu, tiêu hủy, nếu tài sản có do trộm cắp sẽ trả lại cho chủ sở hữu.

Người vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật trong trường hợp có sự thơng
đồng 1638 giữa vợ chồng với nhau, nếu gây nên thiệt hại, họ phải bồi thường bằng tài sản
chung cùa vợ chồng; tuy nhiên, nếu không bị phát hiện, xử lý thì sự hiện diện cúa khối
tài sản này trong gia đình cũng được xem là tài sản chung của vợ chồng, có chế độ pháp
lý giống những tài sản chung khác.
- Thứ tư, tài sán mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung: Đây là
những tài sản mà vợ chồng được chủ sở hữu thề hiện ý chí chuyển giao quyền sở hữu lại
cho cả hai vợ chồng. Tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản, pháp luật xác
định những tài sản này là cùa chung cùa hai vợ chồng.
Tặng cho tài sản là một loại hợp đông dân sự, đó là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển giao quyền sở hữu cho bên được
1637

Tuy nhiên khoán trợ cấp, ưu đài mà vợ, chồng nhận dược theo quy định của pháp luật về ưu đãi

người có cơng với cách mạnh; Quyền tài sàn gắn liền với nhân thân của vợ, chồng lại xác định là tài sản riêng của
vợ, chồng (Khoản 3, Điều 11 Nghị định 126).
1638

Thông đồng ờ đây được hiếu là có sự hàn bạc cùa vợ chồng đê có những tài sàn đó hay khi một

bên vợ/chồng đà có tài sản đó, bên chồng/vợ cịn lại mặc nhiên đê nó hiện diện trong khối tài san chung cùa vợ
chồng.


×