Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Pháp luật về bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.47 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TÉ - LUẬT
NGUYỀN THỊ PHONG LAN

PHÁP LUẬT VÊ BÔI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO NGU ỜI MẤT NĂNG LỤC HÀNH VI DÂN sụ GÂY RA
Ngành: Luật Dân sự và Tô Tụng dân sự
Mã số: 8380103
LUÂN VẪN THAC sĩ LUÀT HOC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TRÁNG
TP. HỊ CHÍ MINH - NẢM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Văn Tráng. Nội dung Luận văn được
tác già nghiên cứu và soạn thảo một cách độc lập, không sao chép. Các số liệu và thông
tin trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, mọi sự tham khảo tài liệu của các tác giả
nghiên cứu trước đó đều được tác giả ghi chú và trích dần đầy đủ.
Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về các cam đoan nếu trên của mình.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Phong Lan


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết cúa đề tài...............................................................................................1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài.........................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài...................................................................................3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phuơng pháp nghiên cứu.........................3
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết:..............................................................................4
CHƯƠNG 1. CO SỎ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VÈ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI MÁT NẪNG Lực HÀNH VI DÂN sụ
GÂY RA............................................................................................................................5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng...................................................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng................................5
1.1.2. Đặc điềm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng...........................6
1.1.2.1. về cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại...........................................7
1.1.2.2.............................................................................................................................. v
ề căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng..............................8
1.1.2.3............................................................................................................................ về
chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.....................................11
1.1.2.4............................................................................................................................ về
mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng......................................................................12
1.2. Tống quan về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ngưòi mất năng lực hành vi
dân sự gây ra..................................................................................................................12
1.2.1. Khái quát chung về người mất năng lực hành vi dân sự......................................12
1.2.1.1............................................................................................................................
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân............................................................................12
1.2.1.2............................................................................................................................
Khái niệm người mất năng lực hành vi dân sự..............................................................15
1.2.2. Khái niệm, đặc điêm trách nhiệm bôi thường thiệt hại do người mât năng lực
hành vi dân sự gây ra......................................................................................................16


1.2.2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi

dân sự gây ra..................................................................................................................16
1.2.2.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi
dân sự gây ra..................................................................................................................16
1.3. Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra..............................................................................................21
1.3.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra......................................................................................................21
1.3.1.1. Có thiệt hại xảy ra.............................................................................................21
1.3.1.2. Có hành vi trái pháp luật...................................................................................31
1.3.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật....................33
1.3.2. Xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra......................................................................................................35
1.4. Xác định thiệt hại và thòi hạn bồi thường thiệt hại do ngưòi mất năng lực hành
vi dân sự gây ra..............................................................................................................36
1.4.1. Xác định thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.........................36
1.4.2. Thời hạn bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra .49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..............................................................................................50
CHƯƠNG 2. THỤC TIỄN ÁP DỤNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO NGƯỜI MÁT NÀNG LỤC HÀNH VI DÂN sụ GÂY VÀ VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN.........................................................................................51
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thưòng thiệt hại của ngưòi
mất năng lực hành vi dân sự gây ra từ hoạt động xét xử của tòa án.......................51
2.1.1. Thủ tục tuyên bổ một người bị mất năng lực hành vi dân sự..............................51
2.1.2. Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm.................................................52
2.1.3. Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm...................................................56
2.2. Bất cập pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra..............................................................................................59
2.2.1. Thời điểm xác định tình trạng mất năng lực nhận thức, làm chủ hành vi...........59
2.2.2. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.................................63
2.2.3. Thủ tục bồi thường thiệt hại.................................................................................64

2.2.4. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại..........................................66


2.3. Định hướng hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do ngưòi mất năng lực hành vi dân sự gây ra......................................................66
2.3.1. Bổ sung thời điềm xác định tình trạng mất năng lực nhận thức, làm chủ hành
vi.....................................................................................................................................66
2.3.2. Bổ sung quy định về nghĩa vụ của người giám hộ đối với việc bồi thường
thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra...................................................68
2.3.3. Hoàn thiện thủ tục bồi thường thiệt hại trong thời gian trường học, bệnh viện,
pháp nhân khác quản lý..................................................................................................68
2.3.4. Xây dựng cơ điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.....................69
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..............................................................................................70
KẾT LUẬN.....................................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................73
PHỤ LỤC 1. VỤ ÁN VÈ THỦ TỤC TUYÊN BÓ MỘT NGƯỜI BỊ MẤT
NĂNG Lực HÀNH VI DÂN sự
PHỤ LỤC 2. VỤ ÁN VÈ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÍNH MẠNG BỊ
XÂM PHẠM
PHỤ LỤC 3. VỤ ÁN VÈ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO súc KHỎE BỊ
XÂM PHẠM


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra là
một trường hợp cụ thề của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong khi đó,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại đóng vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự.
Hiện nay, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra không phải là một vấn đề mới mà được quy định tại Bộ luật Dân
sự 2015 (sau đây gọi tắt là “BLDS”). Nội dung này được quy định tại Phần Quy định
chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về chủ thể chịu trách nhiệm
bồi thường. Ngoài ra, các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra cũng được hướng dẫn và quy định tại nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau.
Mặc dù đã tồn tại các quy định đối với vấn đề này, tuy nhiên một số các quy định
về (1) Thời điểm xác định người mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi và thời điểm
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại; (2) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của người
giám hộ, (3) Thủ tục bồi thường thiệt hại (4) Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại vẫn còn chưa rõ ràng và bất cập từ đó gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng.
Với các vấn đề pháp lý nêu trên, việc nghiên cứu quy định pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra là rất cần thiết nhằm tháo
gỡ những vướng mắc, bất cập và hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về vấn
đề này. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra” với mong muốn sẽ làm rõ các vấn đề pháp lý còn bất
cập, nghiên cứu các bản án từ thực tiễn xét xử, phân tích những bất cập và hạn chế để
góp phần kiến nghị hướng hoàn thiện quy định này.


2. Tình hình nghiên cứu đê tài
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và tồng hợp tài liệu, đã có rất nhiều cơng
trình nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng theo quy định của
BLDS nói chung, có thể kể đến những cơng trình sau đây:
- Lưu Ngọc Lan (2016), “Cữ« cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng - một số vấn để lý luận và thực tiễn”, luận văn thạc sĩ luật học Trường
Đại học Luật Hà Nội: Cơng trình nghiên cứu này nghiên cứu và khái qt hóa một cách
tồn diện về trách nhiệm dân sự và các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng. Đồng thời cơng trình này cũng chỉ ra điểm mới tiến bộ của
BLDS 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này. Tuy
nhiên, cơng trình này chưa đề cập, phân tích trách nhiệm bồi thường thiệt hại do chủ thế
đặc biệt là người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.
- Đồ Thị Hậu (2014), “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy định pháp
luật Việt Nam ”, luận văn thạc sĩ luật học Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội: Cơng
trình nghiên cứu và phân tích đế làm rõ các khía cạnh về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân theo quy định pháp luật, đặt góc nhìn từ thực tiễn pháp luật và so sánh với các quy
định thời kỳ trước tại Việt Nam và quy định của một số quốc gia trên thế giới. Tuy
nhiên, cơng trình chỉ phân tích sơ lược về người mất năng lực hành vi dân sự mà không
đi sâu phân tích về khái niệm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như các đặc điểm
và căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân
sự gây ra.
Lê Thị Hải Yen (2016), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của pháp luật Việt Nam”, luận
văn thạc sĩ luật học Trường Đại học Luật Hà Nội: Cơng trình nghiên cứu này nghiên cứu
và phân tích về khái niệm, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra từ đó làm nối bật sự khác nhau giữa trách nhiệm bôi
thường thiệt hại do người mât năng lực hành vi dân sự gây ra so với trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung. Cơng trình cũng đã đưa ra những bất cập của quy định pháp


luật trong lĩnh vực này từ đó đề xuất giải pháp hồn thiện pháp luật. Tuy nhiên, cơng
trình này chưa phân tích rõ khái niệm cũng như các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo BLDS 2015.
Cơng trình chưa giải quyết được bất cập về thời điểm xác định một người khơng có khả
năng nhận thức và làm chủ hành vi, quy định về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, thủ tục bồi thường thiệt hại và các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.

Nhìn chung, phần lớn các cơng trình hiện nay chủ yếu là các bài viết liên quan
đến đề tài này chưa có điều kiện để nghiên cứu sâu hơn, tiếp cận dưới nhiều góc độ từ
văn bản pháp luật, thực tiễn xét xử từ đó đánh giá, phát hiện vấn đề để đề xuất hướng
hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đe tài tiếp cận quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra dưới các góc độ sau: Văn bản pháp luật, thực tiễn xét xử để
nhìn nhận, đánh giá trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân
sự gây ra theo quy định của BLDS năm 2015, thông qua đó nhằm đề xuất các kiến nghị
hồn thiện quy định này.
4. Giói hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
Đề tài về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội và có phạm vi nghiên cứu rộng.
Tuy nhiên, thông qua giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả nghiên cứu cơ
sở tiếp cận từ góc độ những nội dung cơ bản và thực tiễn để từ đó đề xuất hướng hồn
thiện quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra ở Việt Nam hiện nay.
Đồ tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, bao gồm:
Phương pháp phân tích và tơng hợp,- phương pháp này được vận dụng trong
xuyên suổt đề tài, mục đích phân tích các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra khi nghiên cứu dưới góc
độ là một loại trách nhiệm pháp lý, qua đó tổng hợp vấn đề;
Phương pháp so sánh: phương pháp này chủ yêu được sử dụng tại chương 1 để


so sánh quy định pháp luật giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 và các quy định
pháp luật khác có liên quan;
Phương pháp quy nạp và diễn dịch: phương pháp này được vận dụng trong cả hai
chương của đề tài nhằm mục đích phân tích những quy định pháp luật để tìm ra bán chất
cua vấn đề và những bất cập trong từng quy định của pháp luật.

Các phương pháp được sử dụng một cách linh hoạt để đảm bảo hiệu quả và tính
thuyết phục của việc nghiên cứu.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết:
Bố cục của đề cương chi tiết:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra
Chương 2. Thực tiễn áp dụng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây và và kiến nghị hoàn thiện


CHUÔNG 1.
CO SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TRÁCH NHIỆM BÒI THƯỜNG THIỆT
HẠI DO NGƯỜI MẤT NĂNG Lực HÀNH VI DÂN sụ’ GÂY RA
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh từ
hành vi được thực hiện bởi các chủ thế mà không phụ thuộc vào hợp đồng hay một thỏa
thuận đã tồn tại trước đó. Trong đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng. Do đó, các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra có một số đặc điểm tương tự với các điều kiện
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra có những đặc điếm riêng
cần được lưu ý vì đây là một trường hợp cụ thể so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng nói chung.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi







ơ





ơ

họp đồng
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm dân sự còn được hiếu là “trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản
được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp tôn thất vật chất,
tinh thần cho người bị thiệt hại”1. Hiểu một cách khái quát thì trách nhiệm dân sự là hậu
quá pháp lý mang tính bất lợi mà một chú thể vi phạm nghĩa vụ dân sự phải chịu trách
nhiệm đối với vi phạm đó. Hậu quả pháp lý bất lợi này được hiếu là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bởi vì người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho thiệt hại mà mình đã
gây ra nhằm để bù đắp tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự là quy định pháp luật và sự thỏa thuận giữa các
bên. Do đó căn cứ vào nguồn gốc phát sinh trách nhiệm dân sự, trách nhiệm bơi thường
thiệt hại có thê chia thành trách nhiệm bôi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1'Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý (2006), Từ điên luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 800.


Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo họp đồng thì cơ sở phát sinh trách
nhiệm phải căn cứ trên một hợp đồng hoặc một thỏa thuận đã được xác lập từ trước và
hành vi vi phạm là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được ghi nhận
trong hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa các bên.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng phát sinh trên cơ sở quy định
của pháp luật, không phụ thuộc vào việc có tồn tại họp đồng hoặc thỏa thuận giữa các

bên hay khơng. Cụ thể, giữa các bên có quan hệ hợp đồng hoặc thỏa thuận nhưng việc
bồi thường thiệt hại phát sinh không căn cứ dựa trên nội dung thỏa thuận giữa các bên
được ghi nhận trong họp đồng hoặc trong trường họp này các bên khơng có bất kỳ hợp
đồng nào liên quan đến nội dung giao kết, thỏa thuận.
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng là loại
trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp
luật quy định ngoài hợp đồng, xâm phạm đến những giá trị được pháp luật ghi nhận và
bảo vệ, yêu cầu chủ thề đó hoặc chú thế khác theo quy định pháp luật phải thực hiện
việc bù đắp đối với những thiệt hại đã gây ra trên thực tế.
ĩ.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được đặt ra với chức năng báo vệ
những quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật quy định nhưng trên thực tế những
quyền và lợi ích này bị xâm phạm bằng những hành vi trái pháp luật của những chú thể
khác. Bên cạnh đó, chế định bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng cịn nhằm phịng ngừa
đối với những người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho những chủ thể khác
thông qua việc cảnh báo rằng người gây ra thiệt hại phải gánh


chịu những hậu quả bât lợi và phải khăc phục đôi với thiệt hại do hành vi trái pháp luật
của mình gây ra2.
Từ khái niệm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, có thể thấy
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mang những đặc điểm của trách nhiệm
dân sự nói chung. Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng cịn có
những đặc điểm riêng biệt như sau:
1.1.2.1. về cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự phát
sinh trên cơ sở pháp luật quy định mà không căn cứ vào thỏa thuận giữa các bên trong
hợp đồng3. Đây cũng được xem là một điểm khác biệt so với các loại trách nhiệm dân sự
có thể phát sinh dựa trên cơ sở tự thỏa thuận giữa các bên. Khi một người thực hiện
hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền,

lợi ích hợp pháp khác được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và không
được thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng thì người gây ra thiệt hại phải bồi thường 4 thiệt
hại đã xảy ra. Trong trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là nghĩa
vụ của bên gây thiệt hại phải bù đắp những tổn thất do hành vi trái pháp luật cho bên bị
thiệt hại5.
1.1.2.2. Vê căn cứ phát sinh trách nhiệm bơi thường thiệt hại ngồi hợp đơng
Theo quy định của BLDS 2015 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi họp
đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là:
Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái

2Phạm Thị Hương (2014), 'Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe theo pháp luật Việt
Nam’, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật, tr. 16.
3Trần Việt Anh, So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài họp đồng, truy
cập lần cuối ngày 04 tháng 6 năm 2021, từ < tiet/81 /404>.
4Phạm Thị Hương (2014), 'Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe theo pháp luật Việt
Nam', luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật, tr. 15.
5Lê Văn Sua (2018), Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015,
truy cập lần cuối ngày 04 tháng 6 năm 2021, từ
< l/19/nguven-tac-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hopdong-theo-bo-luat-dan-su-nam-2015/>.


pháp luật và thiệt hại xảy ra6.
Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra là một trong những yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Đây được xem là điều kiện tiền đề quan trọng nhất 7, quyết định việc có
hay khơng phát sinh trách nhiệm bồi thường. Thiệt hại được hiểu là sự giảm bớt những
lợi ích vật chất của cá nhân, tổ chức, và nhà nước về tài sản, sức khỏe, tính mạng, uy tín,
danh dự, nhân phẩm, mồ mả, thi thể,... xác định được bằng một khoản tiền cụ thể và
những chi phí họp lý, phù hợp đế nhằm khắc phục những tổn thất về vật chất và tinh
thần của chủ thể bị gây thiệt hại8. Trong đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chí phát
sinh khi có sự thiệt hại về tài sản hoặc tinh thần bao gồm thiệt hại về tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phấm, uy tín, quyền, lợi ích họp pháp khác được pháp luật ghi nhận
và bảo vệ. Với những thiệt hại khơng được định lượng bằng tiền thì việc xác định một
mức bồi thường tương ứng với mức độ thiệt hại cũng là điều cần thiết nhằm mục đích bù
đẳp những tổn thất đã xảy ra trên thực tế.
về mặt nguyên tắc, hành vi vi phạm hoặc xâm phạm đến quyền và lợi ích họp
pháp của một chủ thể khác có thể gây ra thiệt hại hoặc khơng có thiệt hại xảy ra. Thiệt
hại là điều kiện đóng vai trị quan trọng đối với việc xác định có hay khơng có phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Bởi lẽ, trường hợp có thiệt hại xảy ra
thì mới phát sinh trách nhiệm bơi thường thiệt hại ngồi hợp đơng nhằm mục đích bù
đắp những tồn thất mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu 9. Trường họp khơng có thiệt hại
xảy ra thì chủ thế thực hiện hành vi trái pháp luật khơng phải có nghĩa vụ bồi thường
ngay cả khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện khác10.
6Nguyễn Minh Oanh (2010), Khái niệm chung về bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, truy cập lần cuối ngày 04 tháng 6 năm 2021,
từ < />7Lư Ngọc Lan (2006), ‘Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn’, luận vãn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 37.
8s Phùng Trung Tập (2009), Bồi thường (hiệt hại ngồi hợp đồng về lài sàn, sức khỏe và lính mạng, Nxb
Hà Nội, Hà Nội, tr. 266.
9Nguyền Mạnh Bách (1998), Nghía vụ dãn sự trong luật dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 237.
10Lư Ngọc Lan (2006), ‘CổH cứ phát sinh trách nhiệm hồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - một sổ vấn
đề lý luận và thực tiễn ’, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 56.


Thứ hai, bên cạnh việc có thiệt hại xảy ra thì cần phải xem xét hành vi gây ra
thiệt hại có phải là hành vi trái với quy định pháp luật hay không. Hành vi trái pháp luật
gây ra thiệt hại theo tiểu mục 1.2, Mục 1, phần I Nghị quyết số 03/2006 thì đây là những
xử sự cụ thể cúa chủ thể thực hiện hành vi được thể hiện dưới dạng hành động hoặc
không hành động gây xâm phạm đến quyền và lợi ích họp pháp của người khác được
pháp luật bảo vệ11. Trong đó, hành động gây thiệt hại được hiểu là tác động trực tiếp của

chủ thể vào đổi tượng bị thiệt hại hoặc có thể là tác động của chủ thể vào đối tượng
thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt hại được hiểu
là một hình thức của hành vi gây thiệt hại làm biến đổi tính trạng bình thường của đối
tượng tác động bằng cách chủ thể đó khơng thực hiện một việc hoặc hành vi mà pháp
luật quy nh bt buc phi thc hin mc dự ãããã JL

JL

ô

1 •



JL

•••
chủ thể có đầy đủ các điều kiện để thực hiện 12. Tóm lại, hành vi trái pháp luật dù thể
hiện bằng hình thức hành động hay khơng hành động thì đều có đặc điểm chung là do
con người thực hiện và gây ra tổn thất cho người bị thiệt hại. Vì vậy, người có hành vi
trái pháp luật phải bơi thường những thiệt hại do mình gây ra theo nguyên tắc bồi
thường toàn bộ và kịp thời13.
Thứ ba, căn cứ quan trọng trong việc phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy
ra. Cụ thế, hành vi trái pháp luật là sự kiện diễn ra trước, tác động lên chủ thể khác và
đóng vai trị là ngun nhân gây ra thiệt hại. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của
hành vi trái pháp luật. Ngược lại, hành vi trái pháp luật là nguyên nhân dần đến thiệt hại
đã xáy ra. Thiệt hại là kết quả tất yểu của hành vi trái pháp luật chứ không xảy ra một
cách ngẫu nhiên và khơng có mối liên hệ với hành vi trái pháp luật này 14. Điều này có
11Hồng Khánh Nam (2014), ‘Một sổ vẩn đề lý luận và thực tiễn về mặt khách quan của tội phạm trong

Luật Hình sự Việt Nam ’, luận văn thạc sì luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 10.
12Lê Thị Hài Yen (2016), ‘Trách nhiệm hồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng ỉực
hành vi dân sự gáy ra theo quy định cùa pháp luật Việt Nam', luận văn thạc sì luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, tr.45.
13Lư Ngọc Lan (2006), ‘Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn \ luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 46.
14Lê Văn Sua (2018), Nguyên tác bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015,
truy cập lần cuối ngày 04 tháng 6 năm 2021,


nghĩa là nếu hành vi trái pháp luật và thiệt hại khơng có mối quan hệ với nhau, nghĩa là
hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại mà thiệt hại này không phải là kết quả cùa hành vi
trái pháp luật thì sẽ khơng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài họp
đồng. Trên thực tế, một nguyên nhân có thể dần đến nhiều thiệt hại, ngược lại, một thiệt
hại cũng có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân 15. Có nhiều trường hợp chi có một hành vi
trái pháp luật và một thiệt hại tương ứng, tuy nhiên đối với những tình huống phức tạp
thì có thể có nhiều hành vi trái pháp luật dần đến nhiều hậu quả liên tiếp nhau. Do đó, để
xác định được sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng một cách chính xác,
cần phải xác định hành vi trái pháp luật nào là nguyên nhân trực tiếp hoặc nguyên nhân
gián tiếp gây ra thiệt hại và thiệt hại nào là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật đã
được thực hiện. Từ đó, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được diễn ra
một cách khách quan và chính xác, góp phần xác định đúng trách nhiệm cúa chủ thế vi
phạm phải chịu trách nhiệm bơi thường, mức độ bơi thường từ đó tạo sự công băng cho
người bị thiệt hại.
Hiện nay, yếu tố lỗi đã được thay đổi hướng tiếp cận mới mà cụ thể là trong
BLDS 2015 không xác định lồi của người gây thiệt hại là căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại mà thay vào đó là sự chú trọng vào hành vi gây thiệt hại. Ngoài ra,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng bị loại trừ hoàn toàn nếu thiệt hại xảy ra là do sự
kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lồi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác16.

ỉ.ỉ.2.3. về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng khơng chỉ được áp dụng đối
với người có hành vi trái pháp luật mà cịn được áp dụng đối với những người khác như
từ < l/19/nguyen-tac-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop- dongtheo-bo-luat-dan-su-nam-2015/>.
15Lư Ngọc Lan (2006), ‘Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn’, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 47.
16Nguyền Vãn Dũng (2018), Bàn về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định
tại Bộ luật dân sự năm 2015, truy cập lần cuối ngày 04 tháng 6 nãm 2021,
từ < quydinh-tai-bo-luat-dan-su-nam-2015.html>.


cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp
nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề 17. Các đối
tượng này mặc dù không tham gia trực tiếp vào quá trình thực hiện hành vi trái pháp
luật, tuy nhiên những đối tượng này đã được pháp luật quy định những nghĩa vụ tương
ứng. Trong trường hợp những quy định này bị vi phạm thì những chủ thể này phải có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho những tốn thất đã xảy ra. Trong khi đó, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ có thể được áp dụng đối với các bên trong hợp
đồng đó mà không được áp dụng đối với các chủ thể khác không tham gia trong quan hệ
hợp đồng này18.
ỉ.1.2.4. Vê mức bơi thường thiệt hại ngồi hợp đơng
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi
thường toàn bộ và kịp thời cho thiệt hại đã xảy ra, bao gồm thiệt hại về vật chất, tinh
thần dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp19. Trong đó, các bên có thể thỏa thuận về
mức bồi thường, hình thức bồi thường như bồi thường thiệt hại bằng tiền, bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc và phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần. Nếu
khơng có lồi hoặc có lỗi vơ ý và thiệt hại xảy ra là quá lớn so với khả năng kinh tế thì
người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường 20. Bên
cạnh đó, mức bồi thường thiệt hại cũng có thể thay đổi 21 nếu khơng cịn phù họp với
thực tế và người gây thiệt hại hoặc bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ

quan nhà nước thay đồi mức bồi thường này.
1.2. Tổng quan về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
17Phạm Thị Hương (2014), ‘Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khóe theo pháp luật Việt
Nam', luận vãn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật, tr. 16.
18Nguyền Minh Oanh (2010), Khái niệm chung về bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, truy cặp lần cuối ngày 04 tháng 6 năm 2021,
tử < />19Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng), Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng, Nxb Cơng An Nhân Dân, Hà Nội, tr. 85.
20Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng), Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng, Nxb Cơng An Nhân Dân, Hà Nội, tr. 87.
21Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng), Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng, Nxb Cơng An Nhân Dân, Hà Nội, tr. 88.


hành vi dân sự gây ra
1.2.1. Khái quát chung về người mất năng lực hành vi dân sự
Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự thì chủ thể tham gia cần phải đáp
ứng điều kiện về mặt năng lực chủ thể tương ứng với quan hệ pháp luật mà chủ thế đó
tham gia, bao gồm năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự:
1.2.1.1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng chủ quan của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể. Năng lực hành vi
dân sự được đánh giá thông qua hai yếu tố là độ tuối và khả năng nhận thức, làm chủ
hành vi của cá nhân đó. Do đó, năng lực hành vi dân sự của mồi cá nhân khác nhau là
không giông nhau. Sự khác nhau vê năng lực hành vi dân sự xuât phát từ mỗi cá nhân có
mơi truờng sinh ra, trưởng thành và sinh hoạt khác nhau từ đó dẫn đến ý chí và nhận
thức khác nhau. Ngoài ra, sự khác nhau của năng lực hành vi dân sự còn phụ thuộc vào
từng độ tuồi, bởi lẽ ở từng độ tuồi khác nhau thì mức độ nhận thức và làm chủ hành vi
của mồi cá nhân là khác nhau.
Theo phân tích như trên, một cá nhân sau khi được sinh ra đương nhiên có năng

lực pháp luật nhưng khơng đương nhiên là cá nhân đó đã có năng lực hành vi dân sự.
Năng lực hành vi dân sự của mồi cá nhân sẽ được hình thành, phát triển và hồn thiện
theo thời gian, khi cá nhân có đủ nhận thức để làm chủ, điều khiển hành vi của mình thì
cá nhân đó được xem là đã có năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, có trường hợp cá
nhân đã đạt đến độ tuổi nhất định nhưng bị mất hoặc bị hạn chế năng lực nhận thức, làm
chú và kiểm soát hành vi của mình.
Theo quy định của BLDS thì người mất năng lực hành vi dân sự là người bị Tòa
án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự dựa trên các nguyên nhân nhất
định về mặt thể chất như bị tâm thần hoặc bệnh khác dẫn đến tình trạng cá nhân đó
khơng thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình nên khơng thể tự mình xác lập các
quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự.
Theo định nghĩa nêu trên thì bệnh tâm thần là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng mất năng lực hành vi dân sự. Bệnh tâm thần là những bệnh do hoạt động


của não bộ bị rối loạn do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra như nhiễm khuẩn, nhiễm
độc, sang chấn tâm thần, bệnh cơ thể, ... làm rổi loạn chức năng phàn ánh thực tại. Bệnh
tâm thần làm ảnh hưởng và sai lệch các quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, ý thức vì vậy
cá nhân bị bệnh tâm thần thường có những ý nghĩ, cảm xúc, hành vi và tác phong không
phù hợp với thực tại và môi trường xung quanh22. Do đó, khi cá nhân bị bệnh tâm thần ở
các mức độ khác nhau thì cá nhân đó bị ảnh hưởng đên nhận thức và làm chủ hành vi là
khác nhau. Tuy nhiên, khơng có nghĩa là mọi cá nhân bị bệnh tâm thần là cá nhân đó
mất năng lực hành vi dân sự.
Ngồi bệnh tâm thần, nếu cá nhân mắc bệnh khác như các bệnh hiểm nghèo dẫn
đến tình trạng cá nhân đó khơng thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình được nữa thì
cũng được xem là một trong những nguyên nhân mà pháp luật quy định là căn cứ để
tuyên bố cá nhân đó mất năng lực hành vi dân sự dựa trên kết quả giám định pháp y tâm
thần.
Nguyên nhân về mặt thể chất chỉ là một trong những tiêu chí ban đầu để một cá
nhân được xác định là mẩt năng lực hành vi dân sự. Sau khi cá nhân có vấn đề về mặt

thể chất thì người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan tổ chức hữu quan yêu cầu
Tòa án ra quyết định tuyên bố cá nhân đó mất năng lực hành vi dân sự. Việc xác định
một cá nhân bị bệnh tâm thần dẫn đến tình trạng khơng thể nhận thức, làm chú hành vi
của mình được nữa phải được một tổ chức giám định có chứng năng giám định pháp y
tâm thần thực hiện25. Bởi lẽ, một người có bệnh về tâm thần hoặc bệnh khác có thể bị
ảnh hưởng đến năng lực hành vi nhưng chưa đến mức độ mất đi năng lực hành vi này.
Để xác định việc mất hay không mất năng lực nhận thức, làm chủ hành vi thì cần có ý
kiến của CO' quan, tổ chức y tế chuyên trách nhằm xác định chính xác tình trạng cùa
chủ thề, tránh trường hợp nhận thức chủ quan, khơng chính xác gây ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của cá nhân bị yêu cầu hoặc tiếp tay cho mục đích trục lợi khác. Từ
nguyên nhân này, cơ quan giám định ban hành bản kết quả giám định ghi nhận tình trạng
bệnh của cá nhân đó dẫn đến tình trạng khơng thể nhận thức, làm chủ hành vi thì đây
mới là căn cứ để Tịa án ra quyết định tun bố người đó mất năng lực hành vi dân sự.
22Nguyễn Thị Xuyên, Trằn Quý Tường (2008), Phục hồi chức năng người có bệnh tâm thần, Nxb Y học,
Hà Nội, tr. 3-5.


Tịa án khơng chi dựa trên u cầu của chủ thể yêu cầu mà cần phải dựa trên cơ sở kết
luận giám định 23 pháp y tâm thân bởi lẽ yêu câu xuât phát từ ý chí chủ quan, và kêt luận
giám định pháp y tâm thần là cơ sở của yêu cầu này
1.2. ỉ.2. Khái niệm người mất năng lực hành vi dân sự
Trường hợp một khơng có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình xuất
phát từ nguyên nhân người này bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác thì người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc cua cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu tố chức
giám định pháp y tâm thần tiến hành giám định để xác định tình trạng nhận thức, làm
chú hành vi của cá nhân này. Trường hợp kết luận giám định pháp y tâm thần xác định
cá nhân khơng có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi thì người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tố chức hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên
bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y
tâm thần.

Căn cứ vào khái niệm nêu trên thì để xác định một người bị mất năng lực hành vi
dân sự cần dựa vào các yếu tố như cá nhân này phải mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác
dẫn đến việc cá nhân không thề nhận thức, làm chủ hành vi; có kết luận giám định của
cơ quan giám định pháp y tâm thần và quyết định của tòa án về việc tuyên bố cá nhân bị
mất năng lực hành vi dân sự.
Pháp luật cũng quy định khi khơng cịn căn cứ tun bố một người mất năng lực
hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tố chức hữu quan, Tòa án ra quyết định húy bò quyết định tuyên
bố mất năng lực hành vi dân sự24.
1.2.2. Khái niệm, đặc điêm trách nhiệm hôi thường thiệt hại do người mãt
năng lực hành vi dãn sự gãy ra
23Nguyễn Tấn Tùng (2020), Một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử có liên quan giâm định tư pháp,
Tạp chỉ Tịa án điện từ, truy cập lần cuối ngày 02 tháng 1 năm 2021, từ < viet/nghiencuu/mot-so-vuong-mac-trong-thuc-tien-xet-xu-co-lien-quan-giam-dinh-tu-phap>.
24Trần Thị Diệu Hương (2019), Bảo vệ người yếu thế trong pháp luật dân sự Việt Nam, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, truy cặp lần cuối ngày 02 tháng 1 năm 2021,
từ < />

1.2.2.1. Khái niệm trách nhiệm hồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành
vi dân sự gây ra
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra. Tuy nhiên, xét thấy người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra cũng là một chủ thế của quan hệ pháp luật dân sự, vì
vậy tác giả đã dựa trên khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và
điều chinh cho phù hợp với các đặc điểm của người mất năng lực hành vi dân sự để đưa
ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra như sau: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra là một loại trách nhiệm dân sự. Trong đó, chủ thể phải bồi thường về mặt vật
chất và tinh thần cho người bị thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của người
mất năng lực hành vi dân sự bao gồm người giám hộ, bệnh viện hoặc tổ chức khác trực
tiếp quản lý người bị mất năng lực hành vi dân sự này, trừ trường hợp pháp luật có quy

định khác25.”
1.2.2.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành
vi dân sự gây ra
Như đã phân tích và đưa ra khái niệm nêu trên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Do đó, ngồi các đặc điếm chung trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người mất năng
lực hành vi dân sự sẽ có một số đặc điểm khác biệt.
Thứ nhât, trách nhiệm bôi thường thiệt hại do người mât năng lực hành vi dân sự
gây ra luôn mang đến hậu quá bất lợi. 26 Cụ thế, khi có thiệt hại xảy ra và đáp ứng các
25Lê Thị Hài Yen (2016), 'Trách nhiêm hồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng ỉực hành
vi dân sự gây ra theo quy định của pháp luật Việt /Nam', luận văn thạc sì luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.
20.
26Phạm Tuấn Anh (2020), Bàn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người đại diện phần vốn nhà
nước tại doanh nghiệp, truy cập lần cuối ngày 03 tháng 12 năm 2020, từ < chinh-kinhdoanh/ban-ve-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-cua-nguoi-dai-dien-phan-von-nha-nuoc-tai- doanh-nghiep329778.html>.


điều kiện mà pháp luật quy định, chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng vật chất
cho những thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.
Thứ hai, trách nhiệm này là một loại trách nhiệm được đảm bảo thực hiện ' • • ••
•• bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước và do cơ quan có thẩm quyền áp dụng. Bởi lẽ, cơ
quan có thẩm quyền sẽ xem xét yêu cầu bồi thường cúa chủ thể có yêu cầu và đưa ra
quyết định về việc có hay khơng việc phát sinh trách nhiệm bồi thường ngồi hợp đồng
cho người bị thiệt hại. Việc thực hiện quyết định này sẽ được giám sát và đảm bảo thực
hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật như cơ quan thi hành
án.
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra cịn mang tính chất tài sán. Thiệt hại xảy ra có thể là thiệt hại về vật chất hoặc
tinh thần. Trong trường hợp thiệt hại về tinh thần thì cũng sẽ được định lượng cụ thể để
xác định nghĩa vụ bồi thường nhằm bù đắp tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu,

việc định lượng này có thể được thực hiện một cách tương đối mà khơng thể tính tốn
một cách chính xác27. Việc bồi thường sẽ được xác định cụ thể bằng tiền hoặc một đại
lượng vật chất xác định theo quy định của pháp luật đế người gây ra thiệt hại có thể bồi
thường nhằm khắc phục những những thiệt hại do chính họ gây ra.
Ngồi các đặc điêm chung như đã phân tích, trách nhiệm bơi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra có một số đặc điểm riêng so với trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Thứ nhất, chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra là người mất năng lực hành vi dân sự. Khi tham gia vào quan hệ
pháp luật dân sự thông qua việc thực hiện một hành vi cụ thể, người mất năng lực hành
vi dân sự không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi cúa mình, dẫn đến việc hồn
tồn khơng có sự kiểm soát cúa chủ thể thực hiện. Đặc điểm này là sự khác biệt so với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng, bởi lẽ đối tượng thực hiện hành vi trái
pháp luật trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thơng thường là những
người có năng lực hành vi dân sự. Những chủ thể này thực hiện hành vi trái pháp luật
27Ngô Thu Trang (2019), Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
truy cập lần cuối ngày 03 tháng 12 năm 2020, từ < trong-apdung-phap-luat-ve-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong>.


gây xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác trong tình trạng có khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Từ chủ thể thực hiện hành vi trái pháp
luật khác nhau sẽ dần đến sự khác nhau trong việc giải quyết hậu quả của hành vi trái
pháp luật đó, cụ thể là năng lực tham gia tố tụng dân sự. Bởi lẽ, khi khơng có bất kỳ thỏa
thuận nào ghi nhận các quyền và lợi ích bị xâm phạm, bên bị thiệt hại thường yêu cầu
các cơ quan tổ chức có thẩm quyền mà tiêu biểu là trong trường hợp này tòa án có thẩm
quyền để giải quyết các tranh chấp có phát sinh liên quan đến yêu cầu bồi thường thiệt
hại. Bởi lẽ trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng mang tính cưỡng chế chế nhà nước và
được áp dụng bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, người mất năng lực hành
vi dân sự khơng có năng lực tố tụng dân sự nên khơng có tư cách tham gia tố tụng dân
sự trong trường họp các tranh chấp về yêu cầu bồi thường thiệt hại được xem xét, xử lý

bởi tịa án nhân dân có thẩm quyền. Trong khi đó, người có năng lực hành vi dân sự sẽ
phải tham gia với tư cách là một bên trong quan hệ tố tụng tại tịa án có thẩm quyền khi
tranh chấp về yêu cầu bồi thường thiệt hại được xem xét, xử lý bởi cơ quan này.
Thứ hai, chủ thế thực hiện bồi thường trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra có thề là người có trách nhiệm quàn lý như
người giám hộ hoặc bệnh viện, tơ chức có trách nhiệm quản lý nêu những chủ thể này có
lồi. Trong đó, người có nghĩa vụ giám hộ hoặc bệnh viện, tổ chức có trách nhiệm quản
lý người mất năng lực hành vi dân sự và nếu các chù thế này có lồi trong việc quản lý thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ thuộc về họ. Trong khi đó, đối với trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài họp đồng thơng thường thì người thực hiện hành vi trái pháp luật
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật
cũng như những thiệt hại, mất mát mà mình gây ra đối với bên bị thiệt hại. Đặc điểm
này xuất phát từ việc một người bị mất năng lực hành vi dân sự thì trách nhiệm của
người giám hộ hoặc bệnh viện, tổ chức là quán lý nhằm tránh trường hợp người mất
năng lực hành vi dân sự thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho chủ thế khác.
Từ đó có thế hiểu rằng, trong trường họp người giám hộ hoặc bệnh viện, tổ chức có
trách nhiệm quản lý người mất năng lực hành vi dân sự nhưng khơng thực hiện đúng
trách nhiệm của mình thì được xem là có lồi. Hệ quả là người giám hộ hoặc bệnh viện,


tổ chức có trách nhiệm quản lý phải bồi thường cho các thiệt hại đã phát sinh bởi hành
vi trái pháp luật của người mất năng lực hành vi dân sự. Ngược lại, trong trường họp
người giám hộ hoặc bệnh viện, tố chức quản lý đã thực hiện đúng trách nhiệm của mình
và khơng có lồi thì khơng phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi vi phạm pháp
luật của người mất năng lực hành vi dân sự thuộc trách nhiệm quản lý của họ28.
Thứ ba, vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp bồi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra cũng có sự khác biệt so với trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng thơng thường. Theo đó, nếu người mất năng lực hành vi
dân sự khơng có tài sản hoặc đă sử dụng hết tài sản cùa người mất năng năng lực hành vi
dân sự để bồi thường với điều kiện là người có trách nhiệm quản lý như người giám hộ,

bệnh viện, tổ chức có chức năng quản lý khác khơng có lỗi thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại được xem là chẩm dứt. Điều này là hợp lý bới lẽ người mât năng lực hành vi
dân sự khơng có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi do đó sẽ khơng thể thực hiện
các công việc để tạo ra nguồn thu nhập để thực hiện bồi thường cho người bị thiệt hại.
Trong khi đó, đối với trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thơng thường thì
căn cứ theo khoản 1 Điều 586 BLDS 2015 thì người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây
thiệt hại thì phải tự bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được xem xét và
quyết định bới tịa án có thẩm quyền và được ghi nhận trong bản án. 29 Trường hợp người
gây ra thiệt hại khơng có khả năng thực hiện bồi thường thì cơ quan thi hành án phải tiến
hành xác minh điều kiện thi hành án theo quy định tại khoản 17 Điều 1 Luật Thi hành án
dân sự sửa đổi, bố sung năm 2014 sửa đổi Điều 44 Luật Thi hành án dân sự 2008. Nghĩa
là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị xâm phạm phải bị xác minh
điều kiện thi hành án ít nhất sáu tháng một lần trong điều kiện bình thường, người đang
chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù cịn lại từ hai năm trở lên
hoặc khơng xác định được địa chí, nơi cư trú của người phải thi hành án thì thời hạn xác
28Vũ Ngọc Chuẩn (2010), 'Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo pháp
luật Việt Nam ’, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luặt - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 56.
29Hoàng Thị Thanh Hoa (2020), Hoàn thiện quy định về việc chưa có điều kiện thi hành án, truy cập lần
cuối ngày 25 tháng 05 nãm 2021,
từ < .gov.vn/soctrang/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_detail.aspx?itemid=29>.


minh ít nhất là một năm một lần30. Thơng qua hai lần xác minh mà người có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại vẫn chưa có điều kiện thi hành án đề bồi thường thiệt hại thì lúc này
cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phải thơng báo bàng văn bản cho người bị
thiệt hại về kết quả xác minh. Điều này có nghĩa là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại không
đương nhiên được xem là chấm dứt nếu người gây ra thiệt hại là người có đây đủ năng
lực hành vi dân sự nhưng khơng có tài sản đê thực hiện bồi thường31.
1.3. Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ngưòi mất
năng lực hành vi dân sự gây ra

1.3.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng
lực hành vi dãn sự gãy ra
1.3.1.1. Có thiệt hại xảy ra
Tương tự trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có thiệt hại xảy ra là
một trong những điều kiện đầu tiên phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra nhằm để bù đắp những tổn thất mà
người bị thiệt hại phải gánh chịu như thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần theo quy
định của pháp luật dân sự. Do đó, điều kiện để trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra là có thiệt hại xảy ra. Trong đó, thiệt hại về vật chất
là tổn thất vật chất thực tế thể hiện một các trực quan và rõ ràng, bao gồm tổn thất về tài
sản, chi phí họp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 361 BLDS năm 2015. Theo quy định
từ Điều 589 đến Điều 592 BLDS năm 2015, thiệt hại vật chất bao gồm thiệt hại do tài
sản bị xâm phạm; thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; thiệt hại do tính mạng bị xâm
303()Nguyền Phúc Bình, Những vấn đề lưu ý khi kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án dân sự, truy
cập lần cuối ngày 25 tháng 05 năm 2021,
từ22D48E3E00E317DB107E3706F225B lCE22F006B7C704FC8B6894F6ABCA85660A&ItemID=8492&we
bP=portal>.
31Công ty Luật Minh Khuê, Người phái thi hành án khơng có tài san đê thì hành ủn, truy cặp lần cuối
ngày 25 tháng 05 năm 2021, từ < thi-hanhan.aspx>.


phạm; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Pháp luật ghi nhận rằng mỗi cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
Như vậy, hành vi xâm phạm sức khỏe của một cá nhân thì đây được xem là hành vi trái
pháp luật vì đã xâm phạm đên khách thê mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Mặc dù sức
khỏe là vơ giá và khó có thể xác định được chính xác được mức bồi thường cụ thế tương

ứng với những thiệt hại trên thực tế. Tuy nhiên, căn cứ theo tinh thần của pháp luật Việt
Nam về việc bồi thường là nhằm mục đích bù đắp những thiệt hại mà người bị thiệt hại
gánh chịu, những thiệt hại về sức khỏe sẽ được tính toán một cách hợp lý để xác định
được một khoản tiền bồi thường tương ứng. Cơ sở đế xác định mức bồi thường bao gồm
những chi phí sau:
Thứ nhất, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại
Thực tế có hai giai đoạn được áp dụng cho trường hợp sức khóe bị xâm phạm
bao gồm giai đoạn cứu chữa và giai đoạn phục hồi. Trong đó, giai đoạn cứu chữa được
áp dụng ngay sau khi hành vi trái pháp luật tác động gây xâm phạm tới sức khỏe của
người bị thiệt hại. Trong giai đoạn này, các chi phí được chi trá nhằm áp dụng những
phương tiện, thiết bị, thuốc đề phát hiện những vết thương, tồn hại sức khỏe hoặc để
điều trị nhằm mục đích phục hồi phần sức khỏe đã bị tổn hại. Các






X•

X

••

chi phí phát sinh trong giai đoạn này có thể bao gồm chi phí vận chuyển bệnh nhân đến
các cơ sở khám chữa bệnh; chi phí xét nghiệm; chi phí chấn đốn hình ảnh; chi phí phẫu
thuật; chi phí điều trị; chi phí áp dụng và sử dụng các máy móc, thiết bị trong q trình
điều trị; chi phí thuốc theo đơn của bác sĩ; chi phí lưu trú điều trị.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phục hồi, trong đó có thể phát sinh các chi phí

nhằm giúp người bị thiệt hại bồi dưỡng, phục hồi lại sức khỏe như chi phí thăm khám
định kỳ; thực phẩm; thuốc bố; vật lý trị liệu; chi phí đi lại thăm khám; chi phí lắp tay
giả, chân giả; xe lăn,...
Thơng thường, các chi phí này sẽ được xác định bới cơ sở điều trị. Khi có yêu
cầu bồi thường thiệt hại cho những chi phí này, người bị thiệt hại sẽ cung cấp các giấy
tờ, tài liệu, chứng cứ chứng minh tương ứng với số tiền mà người bị thiệt hại đưa ra yêu
cầu. Tuy nhiên, khi xem xét, cơ quan có thẩm quyền sẽ phân tích và đánh giá tính hợp lý


của các chi phí đó như sự cần thiết của việc chi trả chi phí, tính họp lý của chi phí tương
ứng với nơi điêu trị, cư trú và tình hình kinh tê địa phương nơi cư trú và điều trị.
Thứ hai, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại
Thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại được hiểu là những khoản thu
nhập hoặc những khoản lợi ích mà người bị thiệt hại bởi hành vi trái pháp luật do người
bị mất năng lực hành vi dân sự gây ra có thế được hưởng. Tuy nhiên do ảnh hưởng của
hành vi trái pháp luật này mà người bị thiệt hại khơng thế nhận được khoản thu nhập
hoặc khoảng lợi ích đó trong khoảng thời gian điều trị và chừa bệnh. Ngoài ra thu nhập
thực tế bị giảm sút của người bị thiệt hại được hiểu là khoản thu nhập hoặc lợi ích bị
giảm so với khoản thu nhập hoặc lợi ích ban đầu mà người bị thiệt hại có thể nhận được.
Tuy nhiên vì tác động của hành vi trái pháp luật của người gây ra thiệt hại mà người bị
thiệt hại khơng nhận được tồn bộ khoản thu nhập hoặc lợi ích này. Trường hợp này
hành động cần thiết và hợp lý là xác định thu nhập của người bị thiệt hại trước và sau
thời điếm sức khỏe của họ bị xâm phạm32.
Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ
tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương,
tiền cơng của tháng liền kề trước khi người bị xâm phạm sức khóe nhân với thời gian
điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế cua người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức
khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế
nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6
tháng liền kề (nếu chưa đu 6 tháng thì cứa tất cả các tháng) trước khi sức khỏe bị xâm

phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế cùa người bị thiệt
hại.
Nêu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tê,
nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình
của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế
của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm
32Lê Thị Hái Yen (2016/ 'Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành
vi dân sự gây ra theo quy định cùa pháp luật Việt Nam’, luận văn thạc sì luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.
16.


×