ĐẠI HỌC QC GIA THÀNH PHỊ HƠ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐAI HOC KINH TÉ - LUÀT
NGUYẺN THỊ ÁNH NGUYỆT
HOẠT ĐỘNG ỦY THÁC THU THẬP CHÚNG cú
TRONG TỐ TỤNG DÂN sụ
Ngành: Luật Dân sự và Tô tụng Dân sự
Mã ngành: 8380103
LUÂN VĂN THAC sĩ LUẢT HOC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
TP. HƠ CHÍ MINH - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
"Tôi xin cam đoan luận văn vê đê tài "Hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ
trong Tố tụng Dân sự" là cơng trình nghiên cứu cá nhân của tác giả trong thời gian qua.
Toàn bộ nội dung, số liệu sử dụng phân tích trong luận văn là do tơi tự tìm hiểu và phân
tích một cách khách quan, trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Tơi xin chịu hồn tồn
trách nhiệm nếu có sự khơng trung thực trong thơng tin sử dụng trong cơng trình nghiên
cứu này."
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 2 CĂN CỨ, THỜI HẠN, CHỦ THẺ ỦY THÁC THU THẬP
DANH Mưc TÀI LIẼƯ THAM KHẢO
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, pháp luật tố tụng là một nhu
cầu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự đang
ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng loại vụ việc.
Thu thập chứng cứ là hoạt động đặc biệt quan trọng cúa tố tụng dân sự, việc thu thập
chứng cứ đầy đủ sẽ là cơ sở để có kết luận khách quan, tồn diện các tình tiết, sự kiện
của vụ việc dân sự; căn cứ vào đó Tịa án có thể ra những bản án, quyết định đúng đắn
phù hợp với hiện thực khách quan cùa vụ việc dân sự xảy ra trên thực tế, bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của đương sự. Đe thu thập chứng cứ, Tòa án thực hiện bằng nhiều cách
khác nhau, một trong các cách đó là ủy thác thu thập chứng cứ.
Chế định về ủy thác thu thập chứng cứ trước đây đã được quy định tại Điều 93
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi bổ sung năm 2011 và Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về “Chứng minh và chứng cứ” của Bộ
luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2011, Từ ngày 01/7/2016, Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thì việc úy thác thu thập chứng cứ được quy định tại
Điều 105 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, cũng nhận thấy rằng các quy
định pháp luật về ủy thác thu thập chứng cứ chưa thực sự cụ thể, trình tự thủ tục chưa
đầy đủ, chưa có trách nhiệm ràng buộc các bên tham gia vào hoạt động ủy thác nên thực
tiễn áp dụng hoạt động này cùa các Tòa án còn nhiều vướng mắc dẫn đến việc ủy thác
thu thập chứng cứ không hiệu quả và tốn nhiều thời gian ảnh hưởng đến thời hạn giải
quyết vụ việc dân sự. Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 hiện hành đã có những quy
định cụ thể hơn về vấn đề này nhưng vẫn chưa giải quyết được những vướng mắc tồn tại
trong thực tiễn.
Do đó, làm rõ những bất cập trong quy định của pháp luật cũng như những vướng mắc
khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật và các giải pháp đê áp dụng thông nhât pháp luật vê hoạt động ủy thác thu thập
6
chứng cứ là thật sự cần thiết nên tôi chọn đề tài “Hoạt động ủy thác thu thập chứng
cứ trong tố tụng dân sự.” làm luận văn cao học luật cúa tơi.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự với các bước từ cung cấp, thu thập,
bảo quản, xem xét, đánh giá chứng cứ là mảng đề tài thường được chọn để nghiên cứu
khoa học pháp lý với nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc vào vấn đề, nội dung mà các tác
giả quan tâm. Tuy nhiên, hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự
dưới góc độ là một cách thức, biện pháp thu thập chứng cứ thì chưa có cơng trình nào
nghiên cứu trực tiếp, vấn đề ủy thác thu thập chứng cứ là một đề tài có rất nhiều khía
cạnh để cho những nhà nghiên cứu pháp luật và những cá nhân có quan tâm có thể
nghiên cứu và khai thác nhưng hiện nay vẫn chưa thấy tác phẩm chuyên sâu về vấn đề
này được phát hành. Tuy nhiên, ở góc độ nghiên cứu chung có một số tác giả đề cập vấn
đề này trong tác phẩm của mình dưới dạng giáo trình, bình luận khoa học, luận văn
Thạc sĩ luật học, khóa luận cử nhân, các tạp chí chun ngành. Một sổ cơng trình nghiên
cứu có liên quan đến hoạt động úy thác thu thập chứng cứ như:
- Sách “Giáo trình Bộ luật Tố tụng dãn sự" do PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Nhung chủ
biên do Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2019;
- Sách “Bĩnh luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dãn sự năm 2015", (tái bản
lần thứ nhất) do PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Phương làm chủ biên được Nhà xuất bản
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam xuất bản năm 2016;
Sách bản
“Giáo
trình
Luật
Tốgia
tụng
sự Hà
Việt
Nam
” của
Đại học Kiểm sát Hà Nội do PGS.TS Vũ Thị Hồng Vân chú biên được Nhà
xuất
Chính
trị
Quốc
Sựdân
thật,
Nội
xuất
bảnTrường
năm 2019.
Nội dung các cơng trình nói trên đã cung câp cho người đọc hệ thông lý luận cơ
bản nhất về úy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự dựa trên các quy định của
pháp luật. Cơng trình chi tiếp cận dưới góc độ là một trong các hoạt động thu thập
chứng cứ trong tố tụng dân sự, mang tính khái qt. Tính chun sâu cịn phần nào có
sự hạn chế.
Ngồi các cơng trình nêu trên, một số tác giả có các bài viết được đăng trên các
tạp chí chun ngành:
- Bài viết “Một số khó khăn trong thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự có yếu tổ
nước ngoài theo quỵ định Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015" của tác giả Nguyễn Xuân
Bình được đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dãn điện tử, số 03/2018,...
Các nghiên cứu ít nhiều có nội dung liên quan tới hoạt động ủy thác thu thập
chứng cứ của Tòa án và là nguồn tư liệu quý đề tác giả tham kháo nhằm hồn thiện luận
văn của mình. Tuy nhiên đa phần nghiên cứu trên đều tiếp cận vấn đề trên cơ sở quy
định pháp luật mà chưa đi tìm hiểu quy định pháp luật có đáp ứng hoạt động ủy thác thu
thập chứng cứ trong thực tiễn hay không, có bất cập, vướng mắc gì hay khơng. Do đó,
những nghiên cứu trên vẫn chưa có giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật
về ủy thác thu thập chứng cứ.
Trên tinh thần cầu thị, trong phạm vi luận văn này, tác giả bên cạnh việc đi sâu
vào việc nghiên cứu các quy định về ủy thác thu thập chứng cứ theo pháp luật hiện
hành, sẽ đánh giá vị trí, vai trị, những ưu điểm, nhược điềm của q trình vận dụng các
quy định nói trên trong thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án. Trên cơ sở đó,
sẽ đề xuất những giải pháp phù hợp.
3.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các quy định pháp luật về hoạt động úy thác thu
thập chứng cứ, từ đó chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật và thực tiễn hoạt động
ủy thác thu thập chứng cứ tại các Tòa án nhân dân.
4.
Đôi tuợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến ủy thác thu thập
chứng cứ trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam nhìn từ lý luận và
thực tiễn thực hiện. Cụ thể, tác giả sẽ phân tích một số khái niệm, đặc điềm, vai trị, căn
cứ, trình tự, thủ tục của hoạt động úy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt
Nam.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, tác giả sẽ sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu, cụ thể như:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Tác giả tiến hành phân tích những vấn đề cơ
bản như khái niệm, đặc điềm, ý nghĩa, vai trị, căn cứ, trình tự, thú tục và thời hạn thực
hiện hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự. Đồng thời, tác giá cũng
tống hợp các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành có liên quan đến hoạt động ủy thác
thu thập chứng cứ và từ đó đưa ra một số kiến nghị hồn thiện các quy định pháp luật
liên quan đến biện pháp này. Phương pháp này được tác giả vận dụng trong Chương 1
và Chương 2 của đề tài.
Phương pháp so sánh: Tác giả tiến hành so sánh, đối chiếu quy định pháp luật
Việt Nam qua các thời kỳ, từ đó đánh giá, chọn lọc những điểm phù hợp nhằm đưa ra
kiến nghị, giải pháp thích hợp, có thể áp dụng vào thực tiễn. Phương pháp này được tác
giả sử dụng tại Chương 1 và Chương 3 của đề tài.
Phương pháp suy luận: Phương pháp này được tác giả sử dụng đế đánh giá mức
độ phù hợp các quy định của pháp luật đối với thực tiễn áp dụng hoạt động ủy thác thu
thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.Phương pháp này được tác giả vận dụng chú yếu tại
Chương 3 cúa đề tài.
6.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần Danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần mở
đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung vê hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ trong tô tụng
dân sự
Chương 2: Căn cứ, thời hạn, chủ thể ủy thác thu thập chứng cứ trong Tố tụng
dân sự.
Chương 3: Thủ tục ủy thác thu thập chứng cứ
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VÈ HOẠT ĐỘNG ỦY THÁC THU THẬP CHÚNG cú
TRONG TỐ TỤNG DÂN sụ
1.1.
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ
Khái niệm thu thập chứng cứ và ủy thác thu thập chứng cứ
Mồi vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thường chứa đựng những mâu thuẫn nhất
định. Do đó, đề giải quyết vụ việc dân sự, trước hết, phải làm rõ được tất cả những vấn
đề có liên quan đến vụ việc, sau đó, Tịa án mới có thể áp dụng các quy phạm pháp luật
nội dung giải quyết vụ việc dân sự. vấn đề đặt ra là muốn làm rõ được tất cả những vấn
đề liên quan đó thì các chủ thể trong q trình tố tụng từ đưong sự, Tòa án, Viện Kiếm
sát và các chủ thể có liên quan khác phái chứng minh cho những vấn đề đó thơng qua
việc thu thập chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt “Chứng cứ là những cái cụ thể như lời nói, việc làm,
vật làm chứng, tài liệu tỏ rõ điều gì có thật” 1. Chứng cứ được hiểu là cái được dẫn ra để
dựa vào đó mà xác định điều gì đó là đúng hay sai, là thật hay giả. Cơ sở lý luận về
chứng cứ xuất phát từ quy luật vật chất, rằng vật chất sinh ra cũng không tự mất đi mà
có thể chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác và chịu sự chi phối cùa nguyên lý sự phổ
biến, mọi sự vật hiện tượng có mối liên hệ phổ biến. Một quan hệ pháp luật hình thành
được thề hiện dưới những hình thức khác nhau cúa vật chất mà chúng ta có thế cầm nắm
được như tài liệu, hiện vật, hoặc cả trí nhớ của con người... Trong ngơn từ của Việt Nam,
chứng cử có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, là những thơng tin (mang tính trừu tượng, phi vật
chất) mà dựa vào đó, Tịa án suy đoán hoặc rút ra kết luận một sự kiện pháp lý khách
quan có tồn tại hay khơng tồn tại, ví dụ như cái chêt, thời diêm giao dịch dân sự...Nghĩa
thứ hai mang tính vật chât là những văn bản, vật chứng chứa đựng thơng tin nói trên.2
Theo Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì “Chứng cứ trong vụ việc dân
sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất
1 Từ điển Tiếng Việt (1996), Nxb. Đà Nang.
2 Phan Trung Hiền (2019), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự - Quyền 1 - Những vấn đề lý luận chung,
Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật.
trình cho Tịa án trong q trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập được theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tỉnh tiết
khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đổi của đương sự là có
căn cứ và họp pháp. ”
Có thể thấy rằng vấn đề chứng cứ là vấn đề trung tâm trong tổ tụng dân sự và
trong hoạt động xét xứ. Chứng cứ là cơ sở duy nhất đề chứng minh trong các vụ việc
dân sự.
Chứng minh là “làm cho thấy rõ là có thật, là đủng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ
hoặc dùng suy luận logic vạch rõ một điều gì đó là đúng”3 Các hoạt động tố tụng theo
quy định của pháp luật nhằm mục tiêu làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự
nên được gọi là chứng minh. Trên thực tế, hoạt động chứng minh diễn ra dưới dạng cung
cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và hoạt động chỉ ra các căn cứ pháp lý làm
cho mọi người nhận thức đúng vụ việc. Chủ thể tham gia vào q trình chứng minh
khơng chi là đương sự mà còn bao gồm nhiều chủ thể khác như Tòa án, Viện Kiểm sát,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cúa đương sự, người giám định, người làm
chứng...Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm có cung cấp chứng cứ, thu
thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ, đánh giá chứng cứ. Hoạt động thu thập chứng cứ
bao gồm lấy lời khai đương sự, người làm chứng, đối chất, xem xét, thấm định tại chồ,
trưng cầu giám định, yêu cầu giám định, định giá, thẩm định giá tài sản, yêu cầu cá
nhân, cơ quan, tồ chức cung câp chứng cứ và ủy thác thu thập chứng cứ. Hoạt động
chứng minh, bản chât chính là hoạt động sử dụng chứng cứ trên cơ sở các hoạt động
cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ.
Theo Từ điển tiếng Việt, thu thập có nghĩa là "gớp nhặt và tập hợp lại ”. 4
Thu thập chứng cứ là việc phát hiện, tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ
vụ việc dân sự đê nghiên cứu, đảnh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự. 5 Tác giả
cho rằng thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự là việc các chủ thể chứng minh được
3 Từ điên Tiếng Việt (1996), Nxh. Đà Nang.
4 Viện ngôn ngừ học (2005), Từ điên Tiếng việt, Nxb. Đà Nằng - Trung tâm từ điển học, Đà Nằng
5 Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật tổ tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Cồng an nhân
dân, Hà Nội
quyền sử dụng các phương tiện, công cụ do pháp luật quy định để tìm ra chứng cứ và tập
hợp lại nhằm làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự để giải quyết vụ việc dân
sự.
ủy thác thu thập chứng cứ là biện pháp thu thập chứng cứ giúp Tịa án ủy thác có
được tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà hoạt động thu thập phải
thực hiện bên ngoài phạm vi lãnh thổ của Tịa án ủy thác thơng qua Tịa án, cơ quan có
thẩm quyền được ủy thác.
Trong trường hợp việc thu nhập chứng cử phải tiến hành ở nước ngồi thì Tịa án
làm thủ tục ủy thác thơng qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có
thẩm quyền của nước ngồi mà nước đó và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này.
1.1.2.
Đặc điếm của hoạt động ủy thác thu thập chúng củ'
Hoạt động ũy thác thu thập chứng cứ là một trong những hoạt động thu thập
chứng cứ, nó mang đầy đủ những đặc điếm của hoạt động thu thập chứng cứ và cả
những đặc điểm đặc thù cho loại hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ:
Thứ nhất, hoạt động ủy thác thu thập chửng cứ chi do Tòa án tiến hành.
Lý do của điêu này là bởi hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ đuợc tiên hành
khi việc thu thập chứng cứ gặp trở ngại do phải được tiến hành tại địa phương khác hoặc
ngồi lãnh thồ Việt Nam, do đó, pháp luật dành riêng cơ chế úy thác thu thập chứng cứ
cho các Tịa án, theo đó, có quyền u cầu Tịa án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền tại
nước ngồi trong trường hợp phải thu thập chứng cứ tại nước ngoài.
Thứ hai, hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ phủi được tiến hành theo đúng
trình tự, thủ tục pháp luật quy định và phải tiến hành nhanh chóng, kịp thời, trong
một thời hạn nhất định.
Điều này xuất phát từ lý luận chứng cứ được rút ra từ các nguồn chứng cứ trên cơ
sở các chủ thể chứng minh sử dụng phương tiện chứng minh là các công cụ do pháp luật
quy định các chủ thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện cua vụ
việc dân sự.6 Các phương tiện chứng minh có thể được liệt kê cụ thế là lấy lời khai
đương sự, lời khai người làm chứng, tài liệu, giấy tờ, vật chứng...
Các chủ thế chứng minh chi được sử dụng các phương tiện chứng minh do pháp
luật quy định mà không thể sử dụng bất kỳ phương tiện nào khác đế chứng minh. Đồng
thời, đối với mồi phương tiện chứng minh thì cũng chí được sử dụng để chứng minh khi
đáp ứng được những điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Ví dụ: Lời khai của
đương sự, người làm chứng phải được ghi lại dưới một hình thức nhất định theo quy
định của pháp luật, hoặc các tài liệu nghe được, nhìn được phải có văn bản xác nhận
xuất xứ của nó, hoặc tài liệu đọc được thì phải là bản chính hoặc là bàn sao đã được
cơng chứng, chứng thực theo quy định...
Việc quy định chặt chẽ về trình tự thủ tục thu thập chứng cứ cũng như ủy thác
thu thập chứng cứ sẽ giúp cho chứng cứ có giá trị pháp lý, có giá trị chứng minh bởi đã
được thu thập theo đúng quy định của pháp luật, từ đó, việc giải quyêt vụ việc dân sự
của Tòa án sẽ đảm bảo vừng chắc về cơ sở pháp lý.
Mặt khác, hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ là một thủ tục tố tụng dân sự, để
báo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự đúng thời hạn mà Bộ luật Tổ tụng dân sự thì
các thú tục tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án đó cũng phải được tiến hành
theo đúng thời hạn, việc thực hiện thủ tục này một cách chậm trề sẽ kéo theo việc chậm
trễ các thủ tục tiếp theo và việc giải quyết vụ án cũng sẽ vi phạm các quy định về thời
hạn chuẩn bị xét xử.
Thứ ba, nội dung hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ rất phong phú và tùy
từng trường hợp cụ thế mà Tịa án ủy thác có thế ra quyết định ủy thác phù hợp.
Tòa án thụ lý vụ việc có thể ùy thác u cầu Tịa án có thấm quyền/cơ quan có
thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng như lấy lời khai của đương sự, lấy lời khai
người làm chứng, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản hoặc ủy thác các biện pháp khác đế
thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự...
1.1.3.
Ý nghĩa của hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ
6 Nguyền Thị Hồi Phương (2016), Bình luận những điếm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 20 ỉ 5,
Nhà xuất bàn Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội.
Hoạt động thu thập chứng cứ nói chung và hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ
nói riêng là một trong các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
nhằm mục đích làm rõ các sự kiện, tình tiết, nhằm giải quyết vụ việc dân sự, để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân khác và lợi ích nhà nước. Do đó, có thể khái quát lên một
số ý nghĩa cua hoạt động ũy thác thu thập chứng cứ như sau:
Thứ nhất, xác đinh, làm rõ được các sự kiện, tĩnh tiết của vụ việc dẫn sự để
phục vụ cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tịa án.
Thơng qua hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ nói riêng và hoạt động thu thập
chứng cứ nói chung, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân biết rõ được các tình tiết, sự kiện
cùa vụ việc dân sự. Tất nhiên cũng có trường hợp biết do ngầu nhiên (trừ các tình tiêt, sự
kiện khơng cân chứng minh). Tuy nhiên, Thâm phán không thê sử dụng sự hiểu biết
ngẫu nhiên này để làm căn cứ giải quyết vụ việc mà phải tiến hành các hoạt động chứng
minh trong đó có hoạt động thu thập chứng cứ, hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ.
Dưới góc độ lý luận hay thực tiễn thì hoạt động chứng minh là biện pháp duy nhất để
xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự.
77n? hai, hảo đảm cho Tòa án giải quyết nhanh chỏng và đúng đắn vụ việc
dân sự.
Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự, Tòa án sẽ
giải quyết các vụ việc trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá các chứng cứ mà đương sự tự
mình thu thập và cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên, với thực tiễn hiện nay, tố tụng dân sự
Việt Nam là sự pha trộn giữa mơ hình tố tụng xét hởi và tranh tụng theo hướng mở rộng
dần tính tranh tụng. Do đó, Tòa án vẫn còn là một chủ thể chứng minh, tự mình tiến
hành các biện pháp thu thập chứng cứ nhàm mục tiêu giải quyết vụ việc dân sự do chính
mình thụ lý và vai trị này cịn quan trọng ở mức độ khơng có sự thu thập chứng cứ của
đương sự thì khơng thể giải quyết được vụ án. Bên cạnh đó, việc chủ động thu thập
chứng cứ của Tịa án giúp Tịa án nhanh chóng sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ việc.
Với trình độ hiểu biết pháp luật của người dân Việt Nam hiện nay chưa đồng đều, không
phải các bên trong một vụ việc đều có khả năng hiểu biết và khả năng thu thập chứng cứ
để bảo vệ chính quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và việc giải quyết mồi vụ việc của
Tịa án đều chịu sự chi phối bởi một thời hạn mà pháp luật quy định. Tính chủ động thu
thập chứng cứ hoặc ủy thác thu thập chứng cứ thay vì chờ đợi đến khi đương sự có khả
năng tự mình cung cấp chứng cứ đã giúp cho Tòa án giải quyết nhanh chóng và hiệu quả
hơn các vụ việc dân sự.
Thứ ba, là hoạt động chứng minh có tính chất mở đầu, là tiền đề cho các hoạt
động chứng minh khác.
Hoạt động chứng minh trong vụ việc dân sự bao gồm hoạt động cung cấp chứng
cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Hoạt động thu thập
chứng cứ đúng đăn, toàn diện, đây đủ là cơ sở đê Tòa án nghiên cứu, phát hiện, đánh giá
được các chứng cứ, từ đó, sẽ có nhận thức đúng đắn về vụ việc dân sự và đưa ra các
quyết định/bản án hợp lý, hợp tình trên cơ sở các quy định cua pháp luật.
1.2.
Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động ủy
thác thu thập chứng cứ
1.2.1.
Cơ sở lý luận
Thứ nhất, việc xây dựng các quy đinh về ủy thác thu thập chứng cứ dựa trên
quyền con người.
Hiến pháp năm 2013 đã trao cho Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư
pháp, có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tồ chức, cá
nhân7. Do đó, mỗi hoạt tố tụng cúa Tịa án trong đó có hoạt động ủy thác tư pháp cũng
phải được xây dựng, thực hiện dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền con người. Các hoạt
động tố tụng trở thành phương tiện để đương sự bảo vệ cho chính quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Đồng thời, thơng qua các hoạt động tố tụng, nhà nước điều chỉnh các
quan hệ xã hội đã đang và sẽ phát sinh. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm
2013 về các quyền cơ bản của công dân, quyền con người, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
7 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
2015 đã có những quy định nhằm bảo đảm cho các đương sự được thực hiện các quyền
và nghĩa vụ chứng minh của mình. Pháp luật đã dự liệu được các trường hợp đương sự
không thế thực hiện được các hoạt động thu thập chứng cứ của mình, Tịa án sè hồ trợ
việc thu thập chứng cứ, một trong những sự hỗ trợ đắc lực đó là thực hiện cơ chế ủy thác
thu thập chứng cứ.
Thứ hai, hệ thống tư pháp Việt Nam được tổ chức và vận hành theo truyền
thống pháp luật lục địa. Mơ hình tố tụng dân sự của Việt Nam là sự pha trộn giữa mơ
hình tơ tụng tranh tụng và mơ hình tơ tụng xét hỏi, và phân nhiêu vẫn thiên về yếu tố
xét hỏi.
Sau khi được Chánh án phân công thụ lý, giải quyết hồ sơ vụ việc dân sự thì
Thẩm phán là người trực tiếp xây dựng nên hồ sơ vụ án, quá trình thu thập chứng cứ nói
chung và úy thác việc thu thập chứng cứ nói riêng nằm trong q trình xây dựng hồ sơ
vụ việc dân sự. Đe có cơ sở Thẩm phán giải quyết vụ án đúng pháp luật, cơng bằng,
khách quan và đúng thời hạn thì việc đánh giá chứng cứ phải thực sự đúng đắn, toàn
diện, khách quan. Điều này phụ thuộc phần lớn vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có
đầy đủ, chính xác và đúng pháp luật hay không. Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy
định nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ để Tòa án xem xét giải quyết vụ án. Tuy nhiên, nếu trao toàn bộ nghĩa vụ chứng minh
cho các đương sự và giải phóng hồn tồn nghĩa vụ chứng minh của Tịa án, thì sẽ
khơng thực tế trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Mặc khác, việc giải quyết vụ án có thể
thiếu khách quan, có lợi cho đương sự này nhưng lại xâm phạm đến quyền lợi chính
đáng của đương sự khác. Do đó, trách nhiệm của người Thấm phán là phải đảm bảo
trong hồ sơ vụ án có đầy đủ chứng cứ làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án.
ĩ.2.2. Cơ sở thực tiễn
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án nói chung và ủy thác thu thập chứng cứ
nói riêng xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội cụ thề của Việt Nam.
Thứ nhất, trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, các nguồn chứng cứ là
các tài liệu, giấy tờ’ liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài
sản khác gắn liền vói đất nhà ở được cơng khai ỏ' mức độ hạn chế và dược lưu giữ
tại một số cơ quan nhà nước.
Điều này hạn chế khả năng tiếp cận của đương sự đối với các nguồn chứng cứ
nói trên. Hoặc trường hợp đương sự đã có yêu cầu tiếp cận các tài liệu chứng cứ nhưng
bị từ chối với nhiều lý do hoặc không được cung cấp một cách đầy đủ, chính xác và
đúng thời hạn hồ sơ thủ tục hành chính cịn quan liêu, rườm rà. Do đó, đương sự thực sự
cân đên vai trị thu thập chứng cứ nói chung hay hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ
nói riêng của Tịa án với vai trò là cơ quan giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, sự hiếu biết của các đương sự trong các vụ việc dân sự cịn nhiều
hạn chế, khơng dồng đều giữa các địa phương.
Trong thực tiễn, khả năng chứng minh hay tự bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp
pháp của mình cịn nhiều hạn chế. Mặt khác, các tranh chấp dân sự đã và đang ngày
càng đa dạng, phức tạp. Việc xác định vấn đề nào cần chứng minh và các chứng cứ nào
liên quan cần thiết phải thu thập dựa trên các quy định pháp luật, điều này đòi hỏi đương
sự phải có trình độ hiếu biết pháp luật nhất định mới có thể làm tốt được. Trong điều
kiện kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay, chúng ta chưa đủ điều kiện quy định việc tham
gia tổ tụng của luật sư là bắt buộc và nhiều trường hợp đương sự khơng có khả năng mời
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính họ. Chính vì vậy, quy định Tịa án
phải hồ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ thông qua trách nhiệm của Thẩm
phán tiến hành các hoạt động tố tụng để thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật
là hoàn toàn phù hợp.
Thứ ba, hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ tiết kiệm thời gian, chi phí,
nhân lực khi giai quyết vụ việc dân sự.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, tranh chấp về các vụ việc dân
sự ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính chất phức tạp. Việc thu thập tài liệu
chứng cứ đế giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án gặp trở ngại do phải tiến hành ở địa
phương khác hoặc ở ngoài lãnh thồ Việt Nam.
Trong nhiều trường hợp khác nhau, Tòa án đang thụ lý và giải quyết không thể tự
mình trực tiếp tống đạt giấy tờ đến đương sự ở một địa phương khác hoặc ở một quốc
gia khác, cũng không thể cử cán bộ đi thu thập chứng cứ, lấy lời khai, giám định, ... đổi
với các tổ chức, cá nhân ở địa phương khác, hoặc ở một quốc gia khác bởi phát sinh
nhiều vấn đề về thời gian, nhân sự, tài chính. Do đó, để giải quyết trở ngại về mặt địa
giới hành chính và vấn đề phát sinh nhiều về thời gian, nhân sự, tài chính, pháp luật tô
tụng dân sự quy định cơ chê ủy thác thu thập chứng cứ là thực sự cần thiết. Theo đó, Tịa
án đã thụ lý vụ việc có quyền ủy thác cho Tịa án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam hoặc cơ quan tiến hành tố tụng dân sự ở nước ngồi mà nước đó và Việt Nam
đã ký kết điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này tiến hành các hoạt động tố tụng
như lấy lời khai của đương sự, lấy lời khai người làm chứng, thẩm định tại chỗ, định giá
tài sản hoặc úy thác các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của
vụ việc dân sự.
1.3.
Sơ lược các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động ủy
thác thu thập chứng cứ
Có thể thấy rằng, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của
điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam và có nhiều biến động trong những giai đoạn khác
nhau trong lịch sử Việt Nam.
Thứ nhất, giai đoạn xã hội phong kiến, nghiên cứu các vẩn đề pháp luật dưới
các triều dại phong kiến Việt Nam.
Có thể thấy rằng, trước thời kỳ Pháp thuộc, pháp luật Việt Nam dường như
khơng có sự phân biệt rạch rịi giữa dân sự và hình sự, khơng phân biệt giữa cơ quan tài
phán và cơ quan quản lý nhà nước. Các tranh chấp dân sự được giải quyết bởi người
đứng đầu bộ máy cai trị các cấp. Các quy định được ghi nhận trong Quốc triều Hình luật
(năm 1483), Quốc triều khám tụng điều lệ (năm 1777) dưới thời Lê (từ năm 1428 - năm
1788) hoặc được ghi nhận trong bộ Hoàng Việt Luật lệ (năm 1812) dưới thời Nguyễn (từ
năm 1802 - năm 1858 và từ năm 1858 - năm 1945). Do các thời kỳ này ảnh hưởng sâu
sắc cùa nho giáo, việc kiện tụng phải phù hợp với quy tắc ứng xử và đạo đức người
phương đông nên pháp luật tố tụng đã hạn chế quyền đi kiện của một số thành viên trong
gia đình, làm hạn chế quyền con người. Ví dụ Điều 511 Quốc triều Hình luật quy định
con cháu đi kiện ông bà, cha mẹ là một điều cấm, quy định đã nói “con cháu kiện nhau
với ơng bà, cha mẹ, ông bà
ngoại cùng là vợ kiện ông bà, cha mẹ chông, đêu phải bỉêm một tư ; nêu lý lẽ trái thì xử
thêm tội một bậc 8
Tuy nhiên, nhiều quy định tố tụng thời kỳ này đã phản ánh được thực tiễn cuộc
sống, thể hiện được tính mềm dẻo, linh hoạt, minh bạch, công bằng trong phán xét cua
quan xử kiện bảo vệ quyền lợi cho dân chúng, như các quy định về sự phân cấp thẩm
quyền xét xử, về thời hạn xét xử theo tính chất của vụ việc, quy định về hoà giải nhằm
giám bớt việc kiện tụng, về lệ tạ phạt nếu quan xét xử không đúng, về việc từ chối xử
kiện của quan xét xử nếu không bảo đảm tính khách quan...v.v.
Pháp luật thời kỳ này cơ bản đã thiết lập được những quy tắc tố tụng chung để
giải quyết các việc kiện cáo trong dân. Đánh giá kỹ thuật lập pháp cúa các triều đại
phong kiến thời kỳ này thì được xem là một trong những thành tựu, có giá trị văn hóa,
pháp luật, là nguồn tư liệu nghiên cứu, tham khảo đáng giá đến thời đại hiện nay.
Thứ hai, từ năm 1858 đến tháng 9/1945, Việt Nam dưới thời Pháp thuộc
Trong thời kỳ này, các quy định về tố tụng dân sự trở thành một thủ tục tố tụng
riêng biệt, có sự phân biệt rạch rịi giữa dân sự và hình sự và phân biệt giữa cơ quan tài
phán và cơ quan quàn lý nhà nước. Thủ tục tố tụng dân sự chính thức du nhập vào miền
Nam Việt Nam bằng Nghị định 16/3/19109. Sau đó là Bộ dân sự tố tụng Bắc năm 1917,
Bộ Hộ sự thương sự tố tụng Trung Việt năm 1942 được áp dụng tại Bắc Kỳ và Trung
Kỳ. Đánh giá chung pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam thời kỳ này được xây dựng trên
cơ sở các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp 1807 và có sự chọn lọc một cách
phù hợp với đời sơng người dân Việt Nam nhưng nhìn chung vẫn là chịu nhiều ảnh
hưởng của pháp luật tố tụng dân sự Pháp.
Thứ ba, từ tháng 9/1945 (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đòi) đến năm
1975 (nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời, thống nhất hai miền Nam
Bắc Việt Nam)
8 TS. Trần Anh Tuấn - Bộ môn Luật Tố lụng dân sự, Khoa Luậl Dân sự - Đại học Luật Hà Nội, Pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc té, bài viết đãng trên Website của Trường Đại học Kiêm sát
Hà Nội, link truy cập ngày 01/11/2020
9Nguyễn Huy Đấu (1968), Luật dân sự tổ tụng Việt Nam, Sài Gòn.
Sau cách mạng tháng thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chú Cộng hoà ra đời
Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ
Cộng hòa đã quy định ràng cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn
nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên
như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh
này. Liên quan đến các thủ tục tố tụng dân sự thì tại sắc lệnh 47 nói trên đã nói rõ: Trước
các Tịa án ở Nam bộ và ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nằng sẽ áp dụng thủ
tục ấn định trong nghị định ngày 16 tháng 3 năm 1910 của nguyên Tồn quyền Đơng
Dương và những nghị định sửa đổi nghị định ấy. Bộ luật dân sự tố tụng thủ tục Pháp
(Code de Procedure civile franoaise) không thi hành nữa.10
Sau năm 1954, miền Bắc hịa bình và tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền
Nam vẫn tiếp tục phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đất nước bị chia cắt
thành hai miền. Ở miền Bắc, trong thời gian từ năm 1954 đến năm 1989 thì miền Bắc
chưa có một văn bản chính thức về tố tụng dân sự, các vấn đề liên quan đến thủ tục kiện
tụng về dân sự chi được quy định tản mạn trong các văn bản hướng dẫn cua Tòa án nhân
dân tối cao. Ớ miền Nam, chế độ Sài Gòn đã xây dựng Bộ luật dân sự thương sự tố tụng
năm 1972.
Thứ tư, giai đoạn từ nătn 1975 đên nay
Đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất hai miền Nam Bắc, các quy định của
Bộ luật dân sự thưong sự tố tụng năm 1972 khơng cịn được áp dụng nữa. Từ năm 1975
-1989, tại miền Nam, các vấn đề liên quan đến thủ tục kiện tụng về dân sự cũng chi
được quy định tản mạn trong các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.
Sau năm 1989, trước yêu cầu đổi mới và hội nhập, pháp luật tố tụng dân sự ngày
càng hoàn thiện với sự ra đời của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm
1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh Thú tục
giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật
10 Điều 11 Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 về việc giừ tạm thời các luật lệ hiện hành ờ Bắc, Trung,
Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho tồn quốc do Chu tịch Chính phu lâm thời ban
hành.
Tố tụng dân sự được sửa đồi, bổ sung năm 2011 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
đang có hiệu lực. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đã tiếp thu nhiều thành tựu lập pháp
của các quốc gia trên thế giới như Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản.. .Từ việc quy định ba
loại thủ tục tố tụng dân sự riêng biệt cho vụ án kinh tế, vụ án dân sự, vụ án lao động thì
đã hợp nhất thành một loại thủ tục tố tụng duy nhất gọi là thủ tục tố tụng dân sự quy
định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020, Bộ Chính trị đã nêu rõ rằng: Cải cách mạnh mẽ các
thủ tục tổ tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, cơng khai, minh bạch, chặt chẽ,
nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại
toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao
chất lưọng hoạt động tư pháp.... 11
Tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định: ".. .Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục
rút gọn đôi với những vụ án có đủ một sơ điêu kiện nhât định "Tiêp tục hoàn thiện thủ
tục tổ tụng dân sự... ”.
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay vẫn trên con đường cải cách, hoàn
thiện trên tinh thần kế thừa kinh nghiệm lịch sử, quốc tế, và chúng ta có quyền kỳ vọng
vào một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn toàn văn minh và tiến bộ trong tương lai.
Pháp luật thế giới đã và đang ghi nhận có hai hệ thống pháp luật được xem là chủ
yếu đó là hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (continental law) và hệ thống pháp luật án
lệ (common law). Tương ứng với hai hệ thống pháp luật trên là hai loại hình thủ tục tố
tụng chủ yếu là thủ tục tổ tụng xét hỏi và thủ tục tổ tụng tranh tụng.
Trong mơ hình tố tụng xét hỏi, Thẩm phán có vị trí trung tâm trong việc chứng
minh vụ án, các chủ thề khác chi đóng vai trị thứ yếu. Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp quy
11 Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đền năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội
định rằng12: Các bên đương sự có nghĩa vụ viện dẫn các tình tiết cụ thể làm căn cứ cho
các yêu cầu của mình. Tương tự, Bộ luật Tố tụng dân sự Liên Bang Nga cũng quy định:
Mỗi bên có nghĩa vụ phải chứng minh những tình tiết làm cơ sở cho những yêu cầu của
mình hay sự phán đối yêu cầu của bên kia, nếu luật liên bang không quy định khác' 13.
Trong trường hợp lý do khách quan và chủ quan cùa các đương sự không thể tự mình
thu thập được chứng cứ thì Tịa án có thể hồ trợ họ. Bộ luật Tố tụng dân sự Liên Bang
Nga quy định14: Trong trường họp những người tham gia tổ tụng gặp khó khăn trong
việc xuất trình chứng cứ, theo u cầu của họ Tịa tin có thể giúp đỡ trong việc thu thập
và yêu cầu cung cấp chứng cứ. Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp quy định rằng 15: Nếu trong
quá trĩnh tố tụng, một bên đương sự dựa vào một công chứng thư hoặc tư chứng thư mà
họ không tham gia hoặc một tài liệu do người thứ ba đang giữ, họ có thể yêu cầu thảm
phán thụ lý vụ kiện ra lệnh cấp cho họ tài liệu và bủn sao tài liệu ấy. Như vậy thấy rằng
truyền thống pháp luật các nước theo tố tụng xét hỏi có những điểm tương tự như pháp
luật tố tụng Việt Nam.
Đối với mơ hình tố tụng tranh tụng, là mơ hình được áp dụng ở những quốc gia
theo truyền thống thông luật (common law), như: Anh, Mỹ, úc... Trong mơ hình này,
Thấm phán chí thực hiện việc xét xử, đóng vai trị là người trọng tài trung lập xem xét
các vấn đề do các bên đưa ra.16 Các bên trong vụ việc dân sự sẽ quyết định phạm vi các
vấn đề để Thẩm phán xem xét, quyết định, có trách nhiệm đưa ra các quan điểm và bảo
vệ quan điểm của mình. Đối với mơ hình tố tụng tranh tụng thì khơng có giai đoạn điều
tra, mọi chứng cứ hoàn toàn do các bên tự thu thập và chỉ được đưa ra tranh luận tại
phiên xét xừ. Thấy rằng trong mơ hình này khơng cịn thấy bóng dáng của Tòa án với
vai trò điều tra, thu thập chứng cứ, kể cả chỉ là hồ trợ các bên thu thập chứng cứ.
Có thể thấy rằng pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trước đây thù tục tố tụng dân
sự tại Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc kỳ trong thời kỳ Pháp thuộc được xây dựng trên cơ sở
12 Nhà pháp luật Việt Pháp (1998), Bộ luật Tố tụng dân sự cua Cộng hịa Pháp, Nxb Chính trị quốc gia
13 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga 2002 (2005), Nxb Tư pháp.
14 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga 2002 (2005), Nxb Tư pháp.
15 Nhà pháp luật Việt Pháp (1998), Bợ luật Tố tụng dân sự cùa Cộng hịa Pháp, Nxb Chính trị quốc gia
16 />
Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp năm 1807 thuộc loại hình thủ tục tố tụng xét hỏi, coi trọng
việc điều tra, thu thập chứng cứ của Thẩm phán và hồ sơ vụ án. Đến Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 đã quy
định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh bảo vệ quyền lợi cho mình thuộc về
đương sự nhưng vần khẳng định rằng trong trường hợp cần thiết, Tịa án có thề xác
minh, thu thập chứng cứ đề đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác.
Bộ luật Tơ tụng dân sự năm 2004 vê cơ bản cũng được xây dựng trên cơ sở thủ
tục tổ tụng xét hởi. Theo đó, vẫn coi hồ sơ vụ án là tài liệu quan trọng làm cơ sở cho
việc giải quyết vụ án nhưng đề cao hon nghĩa vụ tự chứng minh cua đương sự so với các
quy định trước kia. Trong trường hợp xét thấy chứng cứ trong hồ sơ chưa đủ cơ sở để
giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. Tòa án chỉ tiến
hành các biện pháp thu thập chứng cứ khi đương sự không thể tự mình thu thập được và
có u cầu Tịa án thu thập chứng cứ.
Tuy nhiên, ngày 28 tháng 11 năm 2013, Quốc hội đã thông qua bản Hiển pháp
mới, tại Hiến pháp năm 2013 nói trên đã khắng định một nội dung rằng “Nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được hảo đảm ” 17 Đây là một điểm hoàn toàn mới trong quy
định của pháp luật tố tụng. Điều này thể hiện, trong xu hướng cải cách tư pháp nói
chung và hoạt động xét xử nói riêng sẽ càng mở rộng nguyên tắc tranh tụng. Nguyên tắc
tranh tụng nói trên được hiểu rằng các bên trong vụ việc dân sự đều có quyền và nghĩa
vụ bình đẳng trong tố tụng dân sự nói chung và trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá
chứng cứ để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Hiện nay, tố tụng dân sự Việt Nam là sự pha trộn giữa mơ hình tố tụng xét hỏi và
mơ hình tranh tụng, và nghiêng nhiều về mơ hình tố tụng xét hói, điều này có thể giải
thích rằng tố tụng dân sự Việt Nam trong lịch sử chịu ảnh hưởng nhiều của tố tụng dân
sự cúa nước Pháp. Tuy nhiên, theo xu hướng đã ghi nhận và dần dần mở rộng nguyên
tắc tranh tụng trong xét xừ cũng là một điếm tiến bộ, việc áp dụng mô hình tố tụng tranh
17 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
tụng sẽ bảo đảm hơn tính khách quan, dân chủ và minh bạch, hạn chế sự lạm quyền dẫn
đến tiêu cực của các cơ quan tiến hành tố tụng.
TIẾU KÉT CHƯƠNG 1
ủy thác thu thập chứng cứ là một trong những hoạt động thu thập chứng cứ do
Tòa án tiến hành trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự với mục đích phát hiện tìm ra
các chứng cứ, tập hợp, đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sứ dụng
giải quyết vụ việc dân sự. Hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ phải được tiến hành theo
đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, trong
một thời hạn nhất định. Khi Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự xét thấy cần phải thu thập
thêm chứng cứ do chưa đủ căn cứ đế giải quyết vụ án nhưng việc thu thập chứng cứ gặp
trở ngại do phải tiến hành ở địa phương khác hoặc ở ngồi lãnh thổ Việt Nam thì hoạt
động ủy thác thu thập chứng cứ sẽ được tiến hành. Đây là một trong những hoạt động có
ý nghĩa xác định, làm rõ được các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự, có tính chất mở
đầu, là tiền đề cho các hoạt động chứng minh khác để phục vụ cho việc giải quyết các
vụ việc dân sự, bảo đảm cho Tịa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn việc dân sự, là
cơ sở để các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cùa mình. Việc xây dựng các
quy định pháp luật tố tụng về thu thập chứng cứ nói chung và ủy thác nói riêng hiện nay
xuất phát từ đường lổi lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng dân sự, các lý
luận về quyền con người, sự ảnh hưởng nhiều của mô hình tố tụng xét hỏi của các quốc
gia trên thế giới đặt trong những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam.