Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự của tòa án nhân dân cấp sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.03 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QƯĨC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÙI NGUYỄN PHƯƠNG NGÂN

HOẠT ĐỘNG THƯ THẬP CHỦNG củ
TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT xử vụ ÁN DÂN sự
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP so THẤM
Ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mâ số: 60380J03

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẢN KHOA HỌC: TS NGUYỄN VĂN TIẾN

TP. HỊ CHÍ MINH - NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kêt quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đàm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
TÁC GIẢ

Bùi Nguyễn Phương Ngân


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẤT

BLDS


Bô luât dân sư năm 2015
•••

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

PLTTGQCVADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PLTTGQCVAKT

Pháp lệnh thú tục giải quyết các vụ án kinh tế

PLTTGQCTCLĐ

Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động

UBND

ủy ban nhân dân

VADS

Vu án dân sư
••

VKSND


Viên Kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

Viên Kiểm sát nhân dân tối cao


TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TTDS

Tố tụng dân sự


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.........................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................6
4. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................6
5. Phuong pháp nghiên cứu..............................................................................................7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.........................................................................8
7. Bố cục của luận văn.....................................................................................................9
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỦNG cú TRONG GIAI ĐOẠN CHUÁN BỊ XÉT
XỬ VỤ ÁN DÂN sự CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁP so THẤM THEO PHÁP
LUẬT TÓ TỤNG DÂN sụ VIỆT NAM.......................................................................10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa cùa hoạt động thu thập chứng cứ trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm...................10
1.1.1. Khái niệm hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuấn bị xét xử vụ án
dân sự của Tòa án nhân dân cấp sơ thẳm.......................................................................10
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xừ
VADS của TAND cấp sơ thẩm.......................................................................................15
1.1.3. Ý nghĩa cùa hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử của
TAND cấp sơ thẩm.........................................................................................................17


1.2. Luực sử các quy định về hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử VADS của TAND cấp SO’ thấm........................................................................20

1.2.1. Thời kỳ trước năm 1945.......................................................................................20
1.2.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1989...........................................................23
1.2.3. Thời kỳ từ năm 1989 đến trước năm 2005...........................................................25
1.2.4. Thời kỳ từ năm 2005 đến năm 2015...................................................................266
1.2.5. Thời kỳ từ năm 2015 đến nay...............................................................................27
1.3. Hoạt động thu thập chứng cú’ của Tòa án trong giải quyết VADS theo pháp
luật TTDS của Việt Nam và một số nưóc....................................................................27
•••
1.3.1. Hoạt động thu thập chứng cứ cùa Tòa án trong TTDS của nước Cộng hoà Liên
bang Nga........................................................................................................................27
1.3.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án trong TTDS của nước Cộng hồ Pháp 28
1.3.3. Hoạt động thu thập chứng cứ cùa Tòa án sơ thẩm trong tố tụng dân sự của nước
Cộng hoà Liên bang Đức...............................................................................................30
1.3.4. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong tố tụng dân sự của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam............................................................................31
KÉT LUẬN CHƯƠNG 1..............................................................................................33
CHƯƠNG 2 THỤC TIẺN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÈ THU THẬP CHÚNG cú
TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT xử vụ ÁN DÂN sụ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN CẤP Sơ THẤM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN............................................34
2.1. về hoạt động lấy lời khai của đuơng sự, ngi làm chứng và kiến nghị
hồn thiện (Điều 98, 99 BLTTDS 2015).......................................................................35
2.1.1. Lấy lời khai của đương sự và kiến nghị hoàn thiện (Điều 98 BLTTDS 2015). . .35


2.1.2. Lấy lời khai của người làm chứng và kiến nghị hoàn thiện (Điều 99 BLTTDS
2015) ..............................................................................................................................39
2.2.

về hoạt động đối chất và kiến nghị hoàn thiện (Điều 100 BLTTDS 2015).39


2.3. về hoạt động xem xét, thẩm định tại chỗ và kiến nghị hoàn thiện (Điều 101
BLTTDS 2015)................................................................................................................42
2.4. về hoạt động trưng cầu giám định, yêu cầu giám định, trưng cầu giám
định chứng cứ bị tố là giả mạo và kiến nghị hoàn thiện (Điều 102, 103 BLTTDS
2015).................................................................................................................................49
2.5. về hoạt động định giá tài sản, thẩm định giá tài sản và kiến nghị hoàn
thiện (Điều 104 BLTTDS 2015)....................................................................................52
2.6. về ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ và kiến nghị hoàn thiện
(Điều 105 BLTTDS 2015).............................................................................................53
2.7. về yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân, cung cấp tài liệu, chứng cú’
(Điều 106 BLTTDS 2015).............................................................................................59
2.8. về xác định tình tiết, sự kiện khơng phải chứng minh theo sự thừa nhận của
Tịa án và kiến nghị hoàn thiện....................................................................................62
2.9. về trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án...................................................68
2.10. về thời hạn thu thập chúng cứ.............................................................................73
KÉT LUẬN CHUÔNG 2..............................................................................................75
KẾT LUẬN....................................................................................................................76
DANH MUC TÀI LIÊU THAM KHẢO


1


2

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về căn cứ của hoạt động thu thập
chứng cứ của TAND cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích những quy định của pháp luật về hoạt động thu thập chứng

cứ cua TAND cấp sơ thấm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nêu được những
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật đề giải quyết
những bất cập tồn tại trong hoạt động thu thập chứng cứ của TAND cấp sơ thẩm trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự, từ đó, đề xuất một số


giải pháp hoàn thiện những quy định pháp luật vê hoạt động thu thập chứng cứ của
TAND cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Phạm vi nội dung nghiên cứu:
Với đề tài nghĩa vụ chung về căn cứ hoạt động thu thập chứng cứ của TAND cấp
sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên
cứu: Các quy định cua BLTTDS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Đe tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: Các vấn đề lý luận cơ bản, quy
định của pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của TAND cấp sơ thẩm trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của BLTTDS 2015 và những văn bản
hướng dẫn thi hành. Tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về căn cứ hoạt động
thu thập chứng cứ của TAND cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và
đưa ra nhũng nhận xét và quan điếm cá nhân đối với việc áp dụng pháp luật của Tịa án.
Từ đó, tác giả chỉ ra các điểm bất cập quy định của luật, đề xuất các kiến nghị
hoàn thiện về căn cứ hoạt động thu thập chứng cứ của TAND cấp sơ thẩm trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự theo pháp luật Việt Nam.
Phạm vi không gian:
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của BLTTDS 2015 và thưc
tiễn thi hành tai Việt Nam.
Phạm vi thời gian:
Luận vãn chú yếu tập trung nghiên cứu các quy định của BLTTDS 2015 có hiệu
lực từ 01/7/2016 và một số văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành có hiệu lực cho đến

nay.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện và nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu sau:


Thứ nhât, phương pháp lịch sử được thực hiện chủ yêu ở chương 1 trong quá
trình nghiên cứu sự phát triển của những quy định của pháp luật qua các giai đoạn; tìm
ra những điếm giống nhau và khác nhau giữa luật cũ và luật mới; những quy định hoàn
thiện và chưa hoàn thiện của luật.
Thứ hai, phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu ở chương 1 trong quá trình
thực hiện đề tài. Phương pháp này tìm ra sự giống nhau và khác nhau giữa quy định của
luật trong nước với quy định của luật nước ngoài về hoạt động thu thập chứng cứ của
TAND cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, từ đó, đưa ra kiến nghị
giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật.
Thứ ba, phương pháp thống kê, liệt kê được áp dụng chủ yếu trong chương 2.
Phương pháp này thực hiện trong quá trình thu thập tài liệu, số liệu, các bản án về hoạt
động thu thập chứng cứ của TAND cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự. Từ đó, đề tài có được những số liệu chính xác, đáng tin cậy và đó là những bằng
chứng sắc nét để chứng minh thực tiễn áp dụng luật và thể hiện thực thi của pháp luật
trong đời sống xã hội.
Thứ tư, phương pháp phân tích được sử dụng trong các chương trong quá trình
nghiên cứu đề tài. Các vấn đề liên quan về hoạt động thu thập chứng cứ của TAND cấp
sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự được phân tích kỹ càng, chi tiết từ
những vấn đề cơ bản cho đến thực tiễn áp dụng pháp luật. Phương pháp này giúp tìm ra
những điểm bất cập cùa pháp luật, những điểm còn hạn chế của hoạt động thu thập
chứng cứ của TAND cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Từ đó, tác

giả đưa ra những quan điểm, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập
chứng cứ cúa TAND cấp sơ thấm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn là cơng trình nghiên cứu có hệ thống, góp phần làm sáng tở vấn đề lý
luận về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân cấp sơ thấm trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử VADS. Đồng thời tổng kết một số thực tiễn, nghiên cứu những vướng
măc, bât cập đê từ đó đê xuât những giải pháp có giá trị nhăm hoàn thiện chế định về


hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử VADS, hạn chế tối đa bất cập còn tồn tại, đám báo giải quyết đúng đắn vụ án, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
7.

Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài kết

cấu thành hai chương cụ thể như sau:
Chưong 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về hoạt động thu
thập chứng cứ trong giai đoạn chuân bị xét xử vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp sơ
thẩm theo pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam.
Chưoìig 2: Thực tiền áp dụng pháp luật về thu thập chứng cứ trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử vụ án dân sự cùa Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm và kiến nghị hoàn thiện.


CHƯƠNG 1
MỌT SÓ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÈ
HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHÚNG cú TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỤ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP so THẤM THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN sự VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điếm, ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm
1.1.1. Khải niệm hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
vụ án dãn sự của Tòa án nhãn dãn cấp SO' thẩm
Chứng cứ đóng vai trị quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung, hoạt động
TTDS nói riêng. Đe tiếp cận sự thật khách quan và làm sáng tỏ nội dung vụ việc dân sự
thì phải có chứng cứ. Đương sự với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình khi làm phát sinh vụ việc dân sự và trong quá trình chứng minh có nghĩa vụ
phải cung cấp chứng cứ. TAND khi quyết định về hướng giải quyết vụ việc dân sự phải
căn cứ vào chứng cứ do các chủ thể chứng minh cung cấp để làm cơ sở chấp nhận hay
không chấp nhận yêu cầu của các bên trong các tranh chấp hoặc yêu cầu 2. Nói cách
khác, chứng cứ là nền tảng cơ bản để giải quyết các vụ việc dân sự3.
Theo Từ điển tiếng Việt, chứng cứ được hiểu “/ờ cái được dẫn ra để làm căn cứ
xác định chứng minh điều gì là có thật”4 Chứng cứ “Zừ cái cụ thể (lời nói, việc làm, vật
làm chứng, tài liệu...) tỏ rõ điều gì đó là có thật”\
Trong khoa học pháp lý, một sô tác giả cũng đã đưa ra định nghĩa vê chứng cứ.
Theo đó, “Chứng cứ là một sự kiện giả định có thật, sự kiện ấy được coi như là một sự
kiện đương nhiên có lý do đế tin tương việc có hay khơng một sự kiện khác ” 5 6 hoặc
2Trưởng Đại học Luật TP.HCM (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dãn sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam, tr. 207.
3Nguyễn Minh Hằng (2009), Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dán sự Việt Nam, Nxb.
Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.45.
4Hoàng Phê chu biên (2007), Từ điên tiếng Việt, Nxb. Đà Nằng, Trung tâm Từ điển học, tr. 309.
5Viện Hàn Lâm Khoa học xà hội Việt Nam (2013), Từ điển tiếng việt, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội,
tr.210.
6Đỗ Văn Đương (2011), Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,


"Chứng cứ là cái có thật, theo một trình tự do luật định được Tòa án dùng làm căn cứ
để giải quyết vụ việc dãn sự”7 8. Một quan điểm khác cũng cho rằng “Chứng cứ là

những gì chứa đựng các sự kiện của vụ án để dựa vào đó làm cơ sở cho yêu cầu hay
phán đối yêu cầu của đương sự”1.
Xuất phát từ tầm quan trọng của chứng cứ trong giải quyết vụ việc tại Tòa án,
các văn bản pháp luật về tố tụng đều có quy định định nghĩa về chứng cứ. Cụ thể,
BLTTDS 2015 tại Điều 93 đưa ra khái niệm “chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì
cỏ thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tịa
án trong q trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách
quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn cứ và
hợp pháp
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đưa ra khái niệm chứng cứ tại Điều 86,
theo đó “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ án
Tương tự, Điêu 80 Luật Tô tụng hành chính năm 2015 quy định “Chứng cứ
trong vụ án hành chính là những gì có thật được đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhãn
khác giao nộp, xuất trình cho Tịa án trong q trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập
được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà Tòa ủn sử dụng làm căn cứ để xác
định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp
Như vậy, mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau về khái niệm chứng cứ
nhưng về cơ bản đều nhìn nhận chứng cứ được hình thành dựa trên ba đặc tính quan
trọng là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Hà Nội, tr.8.
7Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giảo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, tr. 155
8Tống Công Cường (2006), Luật tố tụng dân sự Việt Nam, nghiên cứu và so sảnh, Nxb Đại học quốc gia
TP.HCM, tr.242.



Trong đó, tính khách quan thể hiện thơng qua việc chứng cứ phái có thật và tồn
tại một cách độc lập với ỷ chí của con người. Chứng cứ tồn tại trong thế giới khách quan
dưới dạng dấu vết phi vật chất hoặc dưới dạng dấu vết vật chất. Các dấu vết này chính là
sự thể hiện riêng rẽ của sự thật khách quan về vụ việc dân sự, tập hợp các dấu vết là cơ
sở đế tái hiện lại “bức tranh sự thật khách quan” về vụ việc đang giải quyết. Con người
không thể tạo ra chứng cứ, không thể làm ra thông tin, tài liệu, sự kiện theo hướng có lợi
cho minh để tham gia vào hoạt động chứng minh theo ý chí chủ quan9.
Tính liên quan cùa chứng cứ thể hiện ở việc những thông tin, tài liệu, sự kiện chi
được coi là chứng cứ nếu có mối liên hệ với các vụ việc cần phái chứng minh mà Tịa án
đang giải quyết. Những thơng tin, tài liệu, sự kiện này phải góp phần làm sáng tỏ được
sự thật khách quan, phải được Tòa án sử dụng đề làm căn cứ đưa ra kết luận nhàm giải
quyết vụ việc đang phát sinh.
Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở việc chứng cứ phải được thu thập, giao
nộp, sử dụng theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Tùy thuộc vào từng tính
chất, đặc điểm của từng vụ việc, pháp luật tố tụng quy định cách thức thu thập chứng cứ
khác nhau. Các đương sự cũng như cơ quan có thâm quyên băt buộc phải thực hiện theo
đúng trình tự quy định thì những thơng tin, tài liệu thu thập được mới có thế trở thành
chứng cứ.
Chứng cứ với tư cách là nền tảng cơ bản đế giải quyết các vụ việc tại Tòa án nói
chung, mọi hoạt động tố tụng đều xuất phát tù- chúng cứ. Vì vậy, nhận thức đúng về
chứng cứ sẽ là tiền đề quan trọng không chỉ trong hoạt động tố tụng mà cịn đối vói tất
cả các hoạt động khác liên quan. Chất lượng hồ sơ vụ án phụ thuộc vào chất lượng xác
minh, thu thập tài liệu, chứng cứ có đầy đủ, chính xác và khách quan hay không.
BLTTDS 2015 không quy định về khái niệm chuẩn bị xét xứ sơ thẩm VADS.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “chuẩn bị” có nghĩa là “làm cho có sẵn cái cần thiết đê
làm việc gì”. Từ điển Luật học giải thích rằng “xét xử” là “hoạt động do Tịa án tiến
hành theo pháp luật tổ tụng, trong đó Tịa án, sau khi nghiên cứu một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, tiến hành giải quyết và xử lý vụ án bằng việc
9Trường Đại học Luật TP.HCM (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dán sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức
- Hội Luật gia Việt Nam, tr. 209.



ra bản án và các quyết định cần thiết có liên quan Còn “sơ thâm ”, Từ điển Luật học
định nghĩa là đầu tiên đưa ra xét xử vụ ủn tại một tịa án có thẩm quyền Từ những quy
định của pháp luật có thể hiểu chuẩn bị xét xử sơ thấm VADS là hoạt động tố tụng do
Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành nhầm chuẩn bị những điều cần thiết để xét xử sơ thẩm
VADS mà Tòa án đã thụ lý. Trong giai đoạn này, Tòa án phải làm sáng tỏ yêu cầu của
các đương sự và những tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án thông qua các
chứng cứ do các đương sự cung cấp hay thông qua các hoạt động thu thập chứng cứ cúa
Tịa án đế có thể đảm bảo cho việc giải quyết vụ án là có căn cứ và chính xác. Sau đó,
Tịa án có trách nhiệm hịa giải để giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về nội
dung vụ án, trừ các trường hợp khơng hịa giải được hoặc khơng được hịa giải. Bên
cạnh đó, Tịa án cịn có thể ra các quyết định tạm đình chỉ, đình chi giải quyết vụ án,
quyết định cơng nhận sự thỏa thuận và quyết định đưa vụ án ra xét xử. Có thể nói, thực
hiện tốt giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động xét xử cúa Tòa án, giai đoạn này tuy không đưa ra những phán quyết như


giai đoạn xét xử sơ thẩm tại phiên tòa, nhưng lại là tiền đề để Tòa án ra một bản án
khách quan, chính xác.
Trong TTDS, thu thập chứng cứ là một hoạt động mang tính chất pháp lý, nhằm
phục vụ cho việc chứng minh, làm sáng tỏ những tình tiết, sự kiện trong quá trình giải
quyết VADS. Theo Từ điển Tiếng Việt, thu thập là “gom góp từng lượng nhỏ lại, là góp
nhặt và tập họp lại Thu thập là một dạng hoạt động của một chủ thể nhất định trong đời
sống xã hội nhàm “gom góp, tập hợp lại” các đối tượng xác định để phục vụ cho một
mục đích nhất định. Trong tố tụng, “thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các
chứng cứ, tập họp đưa vào hồ sơ vụ việc dãn sự đê nghiên cứu, đánh giả và sử dụng
giải quyết vụ việc dân sự”. Các hoạt động trong chuồi này đều có mối quan hệ biện
chứng, tác động qua lại lẫn nhau, được nhiều chủ thể thực hiện như thu thập chứng cứ
của đương sự, của Tòa án, cúa Viện kiếm sát... Việc thu thập chứng cứ của đương sự

trong các vụ án, việc dân sự vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của đương sự 10. Như vậy, hoạt
động thu thập chứng cứ là một dạng hoạt động trong đời sống xã hội nhưng nó mang
nghĩa là một dạng hoạt động tố tụng, mang tính chất pháp lý, có thể do đương sự, Tịa án
thực hiện. Thực tiễn có thể xảy ra, chủ thể thu thập tin rằng đó là chứng cứ và tiến hành
hoạt động thu thập nhưng khi tiến hành các biện pháp xác minh, đánh giá chứng cứ thì
chứng cứ mà chủ thể thu thập được có thể sẽ khơng thỏa mãn điều kiện của chứng cứ
hay nói cách khác đó khơng phải là sự thật khách quan. Do đó, hoạt động thu thập chúng
cứ chỉ là suy đốn về sự tồn tại của chứng cứ, chỉ mang tính chất tương đối và tham
khảo. Hoạt động thu thập chứng cứ phải gắn liền với hoạt động xác minh, gắn liền với
các biện pháp khác theo quy định để thỏa mãn điều kiện chứng cứ nhằm mục đích tìm ra
sự thật khách quan, giải quyết vụ án một cách triệt để, cơng bàng, hợp tình, hợp lý, đúng
pháp luật.
Cũng như hoạt động thu thập chứng cứ trong tô tụng dân sự nói chung, khái
niệm về hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử VADS do Tịa án
sơ thẩm thực hiện chưa được quy định chính thức trong pháp luật về TTDS. Từ những
phân tích trên, ta có thể hiểu khái niệm hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn
10Khoán 1 Điều 96 BLTTDS 2015


chuẩn bị xét xử VADS của TAND cấp sơ thẩm là hoạt động tố tụng dân sự, trong đó Tịa
án tiến hành xác minh, tìm kiếm, phát hiện, thu nhận, tập hợp, xem xét, tra cứu, thâm
định, đảnh giá và thâm tra các chứng cứ; phân tích sự liên hệ và sự phù hợp giữa các
chứng cứ với nhau theo quy định tổ tụng đê tìm ra sự thật khách quan, chỉ rõ bản chất
của sự việc và kết luận rõ tính đủng sai của chứng cứ có tại hồ sơ; làm căn cứ cho việc
giải quyết VADS một cách đủng đắn, công bằng theo quy định pháp luật.
LỈ.2. Đặc điếm của hoạt động thu thập chứng cứ trong giai on chun b ã
ão
ã JL
o
00ô

ã
xột x VADS ca TAND cp sơ thẩm



Giai đoạn chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian mà các bên có những hoạt động
tích cực nhất trong quá trình thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án. Trong giai đoạn
này, các đương sự tiếp tục thu thập và giao nộp cho Tòa án những chứng cứ bảo vệ cho
quan điếm cúa mình, chứng minh cho u cầu cua mình là có căn cứ và hợp pháp. Do
đó, hoạt động thu thập chứng cứ cùa Tịa án trong giai đoạn này có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, là hoạt động có tính bắt buộc trong một số trường họp do luật định.
Có thể thấy, trong bất kỳ một vụ án nào thì việc thu thập chúng cứ của Tòa án
cũng là cần thiết nhưng tùy thuộc vào đặc thù của từng loại vụ án mà vai trị cùa Tịa án
nhiều hay ít. BLTTDS được xây dựng trên tinh thần việc dân sự cốt ở đôi bên, quyền và
nghĩa vụ của các bên là ngang nhau nên nghĩa vụ chứng minh là của đương sự, đương sự
có thể tự mình thu thập mọi chứng cứ mà họ cho là có thể phục vụ cho việc bào vệ
quyền và lợi ích họp pháp của mình để giao nộp cho Tòa án. Nhưng đối với Tòa án, hoạt
động thu thập chứng cứ được đặt trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Tòa án chỉ
tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường họp do Bộ luật này quy
định11, đây vừa là nhiệm vụ, vừa là quyền hạn của Thẩm phán khi xây dựng hồ sơ để giải
quyết vụ án.
Thứ hai, Tòa án chỉ thực hiện các hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ theo
quy định pháp luật TTDS.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thâm thực hiện trong quá trình giái
quyết VADS bao gồm hoạt động tiếp nhận chứng cứ do các đương sự cung cấp và hoạt
11Khoản 2 Điêu 6 BLTTDS 2015


động thu thập chứng cứ do Tòa án thực hiện các biện pháp theo quy định của pháp luật
TTDS. Tòa án có thể thơng qua u cầu của đương sự hay theo quy định của pháp luật,

tự mình tiên hành các biện pháp thu thập chứng cứ do pháp luật quy định, đây vừa là
nhiệm vụ, vừa là quyền hạn của Thẩm phán khi lập hồ sơ vụ án 12. Đe yêu cầu Tòa án thu
thập chứng cứ, các đương sự phải tự thu thập trước, chỉ trong trường hợp đương sự đã
áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn khơng thể tự mình thu thập
được thì mới có thể u cầu Tịa án tiến hành thu thập chứng cứ 13. Ngồi ra, Tịa án cũng
có thể tự mình tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định cùa pháp luật
TTDS14.
Thứ ba, phạm vi thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án căn cứ
vao yeu cau cua
Giới hạn của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án là trong phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của các đương sự, xuất phát từ quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu
cầu Tịa án có thâm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc
dân sự khi có đon khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khỏi kiện, đon u cầu íTĨ”15. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm
là nhằm xây dựng hồ sơ để giải quyết vụ án theo các yêu cầu cúa đương sự và chỉ giới
hạn trong phạm vi các u cầu đó. Trong TTDS, tơn trọng quyền quyết định và tự định
đoạt của đương sự, việc khởi kiện, yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình là do đương sự tự quyết định. Khi đương sự có u cầu thì Tịa án mới có cơ
sở để giải quyết, Tịa án khơng được giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự.
Do chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự nên hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án cẩp sơ thẩm cũng giới hạn trong phạm vị yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố,
yêu cầu độc lập của các đương sự.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử của TAND cấp sơ thẩm
12" Khoản 3 Điêu 48 BLTTDS 2015
13Khoán 7 Đicu 70 BLTTDS 2015
14Khoản 2 Điều 97 BLTTDS 2015
15Khoản 1 Điều 5 BLTTDS 2015



Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án mang tính chất hỗ trợ cho đương sự
trong việc xác minh, làm rõ tình tiết của vụ án nhưng có vai trò quan trọng cho việc giải
quyết vụ án, đặc biệt trong thời gian giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án càng có vai trị quan trọng. Hoạt động này đảm bảo những
chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm được thu thập một cách
khách quan, kịp thời và đầy đủ. Hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuần bị
xét xử tại TAND cấp sơ thẩm có các ý nghĩa như sau:
77zá’ nhất, bảo đảm cho việc xét xử của TAND có căn cứ, đủng đắn, khách
quan.
Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, Tịa án phải dựa vào những cái gì có thật,
sự thật khách quan đế xem xét, giải quyết vụ án thì mới bảo vệ được cơng lý. Khi thụ lý
giải quyết VADS, nếu dựa vào các tài liệu do đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác giao nộp mà trong đó có chứa sự mâu thuẫn nhưng Tịa án không tiên hành xác
minh, thu thập đê đánh giá chúng thì sự thật khách quan có thể bị “nhầm lần” dựa vào ý
chí chủ quan của Thẩm phán phụ trách thụ lý giải quyết vụ án đó nói riêng và cua Hội
đồng xét xứ vụ án đó nói chung. Vì vậy, hoạt động xác minh của Tịa án nói chung, của
Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án nói riêng là cần thiết, là bắt buộc để “công lý”
được thực hiện, được bảo vệ.
về nguyên tắc, chúng cứ của vụ án do đương sự chủ động thu thập, cung cấp cho
Tòa án nhằm thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình. Tuy nhiên, khi các tài liệu,
chứng cứ mà các đương sự trong vụ án có sự mâu thuẫn thì Tịa án hỗ trợ đương sự
trong việc thu thập bằng các biện pháp do luật định.
Vì vậy, hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ cúa Tịa án có ỷ nghĩa giúp Tịa
án tìm ra sự thật khách quan, làm sáng tỏ bản chất của vụ án nhằm mục đích bảo vệ cơng
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.



Thứ hai, bảo vệ quyền, lợi ích họp pháp của đương sự.
Theo quy định, đương sự đưa ra yêu cầu hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự khác
đối với mình đều có quyền và nghĩa vụ đưa ra chứng cứ và chứng minh cho u cầu cùa
mình là có căn cứ và họp pháp. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước có
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cho tính họp pháp của các yêu cầu
đó. Neu đương sự yêu cầu mà khơng cung cấp được các chứng cứ thì họ phải chịu hậu
quả bất lợi, hậu quả cùa việc không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ để
chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, nếu là ngun đơn thì sẽ bị
Tịa án bác yêu cầu, ngược lại, nếu là bị đom sẽ bị xử thua kiện, sẽ phải chấp nhận các
yêu cầu đã được chứng minh của nguyên đơn, người có quyền yêu cầu. Như vậy, hoạt
động cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự có vai trị quan trọng nhất đối với đương
sự, là căn cứ để các


chủ thê tham gia tô tụng bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của chính mình, lợi ích cùa
người khác, lợi ích cơng cộng hoặc lợi ích của Nhà nước.
Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định, Tịa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc
bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
TTDS và có trách nhiệm bảo đám cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ 16. Quy
định này được hiếu là việc bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của đương sự trước hết là
thuộc về trách nhiệm, là quyền của đương sự và bảo đảm mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân
đều được bình đẳng trong TTDS khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ trước Tịa án.
Quyền bình đẳng trước Tịa án của đương sự là sự ngang bằng nhau, khơng có sự phân
biệt, đối xử trong tố tụng dân sự giữa cá nhân, cơ quan, tổ chức về địa vị pháp lý, về
quyền và nghĩa vụ TTDS và việc chịu trách nhiệm pháp lý.
Vì vậy, với trách nhiệm hồ trợ cho đương sự trong việc thu thập chứng cứ và
quyền chủ động áp dụng một số biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ khi xét thấy cần

thiết đế tìm ra sự thật khách quan, chỉ rõ bản chất của sự việc nhằm bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền cơng dân thì hoạt động xác minh, thu thập của Tịa án là cần
thiết, có ý nghĩa bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp cho đương sự, bảo đảm mọi người
đều bình đẩng trước pháp luật; điều này hồn toàn phù hợp theo tinh thần cải cách tư
pháp theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã để ra
cho Tòa án trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, bảo đảm cho việc xét xử của Tòa ủn kịp thời, chính xác và tồn diện.
Trong q trình giải quyết VADS, cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án
chỉ căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do các đương sự tham gia tố tụng cung cấp và Tòa án
thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nếu VADS được
xét xử tại phiên tịa thì Tịa án chỉ căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem
xét tại phiên họp, kết quả xét hỏi, xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tô
tụng, cùa Kiêm sát viên đê quyêt định trừ trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ theo luật
định.
Hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử tại TAND cấp sơ
thấm có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết VADS được khách
16Khoan 2 Điều 8 và khoán 2 Điều 9 BLTTDS 2015.


quan, đúng pháp luật, góp phần ốn định trật tự pháp luật, giữ vừng kỷ cương phép nước,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Tuy nhiên, để Tịa án ra bản án, quyết
định được cơng bằng, hợp tình, hợp lý thì phải có đầy đủ chứng cứ đề làm rõ các tình tiết
khách quan của VADS.
Trong TTDS, bán án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị sửa, hủy mà
nguyên nhân có thế xuất phát từ việc nghiên cứu, đánh giá, phân tích, sử dụng chứng cứ.
Chứng cứ của vụ án có được do đương sự và cơ quan, tồ chức, cá nhân khác giao nộp
hoặc do Tòa án thu thập. Để giải quyết vụ án đúng đắn, tồn diện, khách quan thì chứng
cứ của vụ án phải được thu thập đầy đủ nhằm bảo toàn giá trị chứng minh của chứng cứ.
1.2. Lược sử các quy định về hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử VADS của TAND cấp sơ thẩm

Hoạt động thu thập chứng cứ là một nội dung cúa hoạt động chứng minh trong
TTDS, vì vậy, các quy định về hoạt động thu thập chứng cứ được ghi nhận qua các thời
kỳ lịch sử gắn liền với các quy định về hoạt động chứng minh.
1.2.1. Thời kỳ trước năm 1945
Xét từ góc độ lịch sử, các quy định điều chỉnh về hoạt động chứng minh lần đầu
tiên được ghi nhận trong Bộ Quốc triều Hình luật (Luật Hồng Đức) được ban hành dưới
thời Nhà Lê. Tuy chưa có sự tách biệt giữa vấn đề hình sự và dân sự, nhưng một số nội
dung về hoạt động thu thập chứng cứ khi xét xử các vụ án đã được ghi nhận. Tại Điều
668 Bộ Quốc triều Hình luật quy định: “Các hình quan tra hỏi tù phạm, trước hết theo
sự tình mà thấm xét lời lẽ của tù khai; nếu xét đi xét lại, còn chưa quyết định được tội,
cần phải tra hỏi lần nữa, thì lập hội đồng các quan án, rồi mới tra khảo, trái luật này thì
bị xử phạt 60 trượng. Nếu tang chứng rõ ràng, tình lý khơng có gì đảng ngờ nữa, thì dù
kẻ phạm tội khơng nhận, cũng chiêu tình trạng mà định án ”17. Việc xét xử cùa các phán
quan phải dựa trên việc xét hởi của tù nhân. Quy định này tạo ra một khung pháp lý sơ
khai về vấn đề thu thập chứng cứ chứng minh thông qua lời khai của đương sự, người
làm chứng, tiến hành hoạt động đối chất giữa đương sự với người làm chứng.
Kế thừa các quy định của Bộ Quốc triều Hình luật về thủ tục giải quyết vụ án,
vào thời kỳ Hậu Lê đã ban hành Bộ Quốc Triều Khám tụng điều lệ. Tồn bộ nội dung
17Quỏc triêu Hình luật (1995), Nxb. Chính trị qc gia, Hà Nội, tr. 227


của văn bản pháp luật này quy định rất rõ ràng, cụ thể về trình tự kiện tụng và xét xử.
Trong giai đoạn này, luật đã làm rõ được các vấn đề về xuất trình chứng cứ, giá trị chứng
minh của các loại chứng cứ, đánh giá chứng cứ ... Tuy nhiên, pháp luật về thu thập
chứng cứ chưa được ghi nhận một cách rõ ràng. Có thể nói ở đây, lần đầu tiên trong lịch
sử pháp luật Việt Nam, vấn đề tố tụng được chú trọng và phát triển. Pháp luật về tố tụng
dưới thời Lê không chỉ báo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, mà còn góp phần khơng
nhỏ vào việc giảm bớt các vụ kiện, giữ gìn trật tự làng xã, báo đảm truyền thống dân tộc
18


.
Cũng tương tự như pháp luật nhà Lê, pháp luật thời Nguyễn cũng chưa có sự

phân biệt giữa tố tụng hình sự và TTDS. Khoảng đầu thế kỷ thứ XIX với sự ra đời của
Triều Nguyễn, Bộ Hoàng Việt Luật lệ vay mượn chủ yếu từ nhà Thanh nên có nhiều tư
tưởng khơng phù họp với xã hội Việt Nam, nhưng văn bản luật này đã kế thừa những tư
tưởng tiến bộ của Luật Hồng Đức và Quốc Triều Khám tụng điều lệ. Theo quy định của
Luật Gia Long, khi tiến hành khởi kiện tại Tịa án thì người khởi kiện phải tiến hành thu
thập và cung cấp chứng cứ cho Tịa án. Ngồi ra, việc giải quyết các tranh chấp dân sự
còn được quy định tại Chiếu, Chỉ, Lệnh, Dụ của nhà Vua được ghi chép lại trong sách
“Khám định Đại Nam hội điển sự lệ”. Pháp luật về hoạt động chứng minh nói chung
trong pháp luật phong kiên Việt Nam (từ Luật Hông Đức đến Luật Gia Long) chưa được
tập hợp thành hệ thống, về hoạt động thu thập chứng cứ mới chỉ là những quy định rất
nhỏ, tuy chưa được hoàn thiện nhung cũng là một trong những nền móng quan trọng để
phát triền cho hệ thống pháp luật sau này.
Đến cuối thế kỷ XIX, sau khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Pháp luật
tố tụng dân sự nước ta đã có sự phát triển với việc ra đời của nhiều văn bản pháp luật có
quy định về thủ tục tố tụng như: Pháp viện biên chế 19, BLDS và Thương sự tố tụng
(1921), Bộ Trung kỳ pháp viện biên chế (1935), Bộ luật Dân sự và Thương sự tố tụng
Trung kỳ (1935). Các văn bản này còn mang nặng dấu ẩn của BLTTDS 1807 của Cộng
hoà Pháp. Thời kỳ này, các vấn đề chứng cứ, chứng minh vẫn còn đan xen với pháp luật
18Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý (1998), Mợ/ số vấn đề về pháp luật dãn sự Việt Nam từ thế kỷ
XVđến thời Pháp thuộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 167
19ls Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1998), Một sô vân đê vê pháp luật dân sự Việt Nam từ thê kỹ XV
đến thời Pháp thuộc, Nxh. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.167


về nội dung. Các vấn đề về “Đổi tượng của sự dần chứng, trách nhiệm dẫn chứng,
quyền yêu cầu xuất trình chứng cứ và phương pháp dẫn chứng đã được ghi nhận trong
luật ”20.

1.2.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1989
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập Nhà nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hồ. Nhà nước vẫn duy trì hiệu lực của nhiều văn bản pháp luật
trước đó. Trong thời kỳ đầu, ngành Tòa án vẫn còn trực thuộc Bộ Tư pháp nên đến năm
1957, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 141/HCTP ngày 05/12/1957 quy định về tổ
chức và phân cơng trong nội bộ Tịa án, trong đó quy định nhiệm vụ cùa Chánh án: “Đối
với những VADS, có nhiệm vụ điểu tra, lập hồ sơ vụ án ...” Như vậy, hoạt động thu thập
chứng cứ trong giai đoạn này, thuộc về Tòa án. về nghĩa vụ thu thập chứng cứ của Tịa
án thì pháp luật chưa quy định. Trong giai đoạn này, hoạt động xét xử cúa ngành Tòa án
được điều chỉnh chú yếu bằng các văn bản dưới luật. Trách nhiệm xác minh, thu thập
chứng cứ của Tòa án được ghi nhận khá rõ ràng. Tại Công văn số 96/NCPL ngày
08/02/1977 của TANDTC hướng dẫn về trinh tự xét xử sơ thẩm có ghi nhận: “Khi
đương sự khởi tố, TAND phủi tích cực chủ động việc điều tra, thu thập chứng cứ, chứ
không nên cho rằng đương sự đề xuất chứng cứ đến chừng mực nào thì TAND chỉ căn
cứ vào những chứng cứ đó để xem xét”. Với tinh thần của nội dung Công văn số
96/NCPL, việc thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án thuộc trách nhiệm của Tòa án,
gánh nặng nghĩa vụ chứng minh đè nặng lên vai Tòa án.
về nguyên tắc và thủ tục thu thập chứng cứ của Tòa án được hướng dẫn rải rác
trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Tòa án mà chưa được pháp điển trong
luật. Các hoạt động điều tra của Tòa án trong thời kỳ này đã phát huy hiệu quả trong việc
thu thập chúng cứ trong VADS, tại Thông tư số 690/DS ngày 24/4/1960 của Tòa án nhân
dân tối cao về đường lối xử lý các vụ án ly hơn có quy định: “ ...bác đơn xỉn hoãn xử
điều phải trên cơ sở điều tra thận trọng”. Tại Công văn số 03/NCPL ngày 03/3/1966 về
trình tự giải quyết các vụ việc ly hơn, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: “Điều tra
là khâu quyết định việc xử lý đúng đắn các tranh chấp trong nội bộ nhân dãn, điều tra
20 Nguyễn Minh Hằng (2009/ Hoạt động chứng minh trong pháp luật tồ tụng dán sự Việt Nam, Nxb.
Chính trị hành chính, Hà Nội, tr.9


với việc ly hơn lại là tương đổi khó khăn hơn so với các loại tranh chấp về dân sự khác,

vì vậy cần chủ ý làm tốt khâu này”. Cơng văn số 905/NCPL ngày 27/7/1965 của
TANDTC trả lời TAND khu tự trị Việt Bắc về thủ tục xét xử phúc thẩm có hướng dần:
“... khi cần thiết, Tịa án phúc thâm có thể tự mình tiến hành việc điều tra bổ sung phần
thiếu sót... ”. Các văn bản này chi là những hướng dẫn mang tính chất nghiệp vụ cúa
ngành Tòa án đối với từng vấn đề cụ thế, mà chưa mang tính chất khái quát đối với các
loại án dân sự, các quy định này cũng làm rõ trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ
thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Nhưng vẫn còn nhiều nội dung chưa được giải quyết
như: Thủ tục điều tra, vai trò cúa Thẩm phán trong hoạt động điều tra. Bên cạnh đó, liên
quan đến hoạt động thu thập chứng cứ của đương sự thi gần như không được quy định.
Đến năm 1974, TANDTC đã ban hành Thông tư số 06/TT-TATC ngày
25/02/1974 hướng dẫn về việc điều tra trong TTDS. Đây là văn bản đầu tiên mang tính
khái quát cao các quy định vê hoạt động thu thập chứng cứ trong TTDS. Văn bản này đã
thể hiện tương đối đầy đủ các nội dung cơ bản của hoạt động điều tra thu thập chứng cứ
gồm: Trách nhiệm thu thập chứng cứ, những nội dung cần tiến hành xác minh thu thập
và biện pháp thu thập chứng cứ. Tại Thông tư số 96/NCPL ngày 08/02/1977 của
TANDTC ban hành kèm theo đó là bản hướng dẫn về trình tự xét xứ sơ thẩm về dân sự:
“để bảo vệ quyền lợi của mình, các đương sự có nhiệm vụ đề xuất chứng cứ nhưng
TAND khơng được phép chỉ dựa vào lời khai của đương sự và những giấy tờ mà họ xuất
trình làm căn cứ cho việc xét xử mà phải dùng mọi biện pháp cần thiết để làm sáng tỏ sự
thật Quy định này là tiền đề cho sự phát triển của các quy định về chú thề trong hoạt
động thu thập chứng cứ.
Trong giai đoạn này, pháp luật điều chỉnh hoạt động thu thập chứng cứ của
đương sự đã được ghi nhận một cách rõ ràng và đầy đủ hon, đặt nền móng cơ bản cho sự
phát ưiền của nhiều quy định về hoạt động thu thập chứng cứ sau này. Nhưng các quy
định của pháp luật ở giai đoạn này vẫn chưa mang tính pháp lý và khái quát cao.
1.2.3. Thời kỳ từ năm 1989 đến trước năm 2005
Trong giai đoạn này, các hoạt động về TTDS được điều chình chủ yếu bời các
văn bản: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VADS ngày 07/12/1989 của Hội đồng Nhà
nước, Pháp lệnh thú tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 của Ưỷ ban Thường



×