Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Địa vị pháp lý của thành viên độc lập hội đồng quản trị trong công ty cổ phần theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.28 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QC GIA THÀNH PHĨ HỊ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐAI HOC KINH TẾ - LUẢT

NGUYỄN THÀNH NHÂN

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THÀNH VIÊN Độc LẬP HỘI
ĐỊNG QUẢN TRỊ TRONG CƠNG TY CÔ PHẦN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật kinh tê
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT KINH TÉ

NGƯỜI HƯỚNG DÃN KHOA HỌC: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

TP. HỒ CHÍ MINH, NÀM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu và tống họp của riêng tơi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Bùi Xuân Hải, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin
chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TAC GIA

Nguyễn Thành Nhân



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẤT

NỊI DUNG ĐƯƠC VIẾT TẤT
••

STT

CHỮ VIẾT TẮT

1

CTCP

Công ty cổ phần

2

HĐQT

Hội đồng quản trị

3

LDN

Luật Doanh nghiệp

4
Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày
Nghị định 155/2020/NĐ-CP


31/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Chứng khốn

5

Thơng tư số 116/2020/TT-BTC ngày
31/12/2020 của Bộ Tài chính hướng dẫn một
số một số điều về quán trị công ty áp dụng
Thông tư 116/2020/TT-BTC

đối với công ty đại chúng tại Nghị định số
155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Chứng khoán


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT
MỤC LỤC


TÀI LIỆU THAM KHẢO


6

MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
Nước ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển đó, doanh nghiệp phải cạnh tranh ngày
càng khốc liệt với các doanh nghiệp khác để tồn tại. Muốn đạt được mục tiêu đó, ngồi
việc nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh; việc hoàn chỉnh, nâng cao cơ chế quản trị
doanh nghiệp cũng được xem là một trong những yếu tố quyết định giúp doanh nghiệp
phát triến, giảm thiếu các chi phí. Đe làm được điều này, địi hỏi việc quản trị doanh
nghiệp phải ngày càng hiệu quả hơn. Điều này càng quan trọng hơn đổi với công ty cổ
phần - là loại hình doanh nghiệp có cơ chế mở cho sự tham gia của nhiều thành phần
trong xã hội.
Trong công ty cổ phần, mặc dù Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao
nhất trong cơng ty nhưng hội đồng quản trị (HĐQT) mới chính là cơ quan hoạch định
chính sách phát triển của doanh nghiệp, tuyển chọn bộ máy điều hành và là đại diện chủ
sở hữu trong phần lớn thời gian hoạt động của doanh nghiệp, bởi lẽ Đại hội đồng cổ
đông thông thường chỉ có một lần họp đình kỳ hàng năm hoặc vài cuộc họp bất thường
khi phát sinh các sự kiện theo quy định của pháp luật. Vì thế, vai trò của HĐQT cần phải
được xem xét để phù họp với pháp luật doanh nghiệp Việt Nam nói chung, cũng như
thơng lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp nói riêng. Một trong những phương thức đề
đảm bảo vai trò trong hoạt động cùa HĐQT được đúng đắn, minh bạch là sự tham gia
của thành viên độc lập trong HĐỌT, bên cạnh sự tham gia của các thành viên khác
thường có mối liên hệ với các cổ đơng lớn hoặc tham gia ban điều hành tại doanh
nghiệp đó.
Trên thực tế, chế định thành viên độc lập trong HĐQT không hẳn là quy định
hoàn toàn mới. Trước năm 2014, một số văn bản quy phạm pháp luật đã yêu cầu phải có
sự tham gia cùa thành viên độc lập HĐQT tại các cơng ty niêm yết, tồ chức tín dụng. Từ
ngày 01/7/2015, Luật số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014 (Luật Doanh nghiệp 2014) có
hiệu lực thi hành, thuật ngừ “thành viên HĐQT độc lập” được sửa thành “thành viên độc

lập HĐQT”. Điều này giúp nhận thức đúng đắn về vai trò cúa của thành viên độc lập


7

HĐỌT trong môi tương tác với các thành viên HĐỌT còn lại.
Vai trò của thành viên độc lập HĐỌT được nhấn mạnh nhằm mục đích giúp
HĐQT đưa ra quyết định khách quan, công bằng cũng như tăng cường khả năng giám
sát và ngăn ngừa các xung đột lợi ích bên trong HĐQT. Các thành viên độc lập HĐQT
đem lại cho cổ đông một niềm tin rằng những quyết định của HĐỌT là vơ tư và khơng
thiên vị. Đặc biệt, vì thành viên độc lập có ý nghĩa quan trọng đổi với hiệu quả hoạt
động của cơ quan quản lý điều hành ở các công ty cổ phần đại chúng, cho nên, nó đã
được Tố chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and
Development - OECD) đưa vào hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá dành cho công ty đại
chúng khi xem xét về trách nhiệm của HĐQT - một trong những khía cạnh chứng minh
cho năng lực quản trị ở các cơng ty cổ phần1. Chính vì thế, hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều nồ lực đưa quy định về thành viên độc lập HĐQT vào hệ thống pháp luật của
mình dưới những hình thức khác nhau nhưng chung quy lại đều hướng đến mục đích
như đã đề cập.
Tại Việt Nam, từ thời điểm có hiệu lực, Luật Doanh nghiệp (LDN) 2014 đã bổ
sung mơ hình tổ chức cơng ty cổ phần (CTCP) mới, với đặc điểm là có sự hiện diện của
thành viên độc lập HĐQT. Mơ hình này có thể được áp dụng ở tất cả các CTCP, kể cả
đối với CTCP chưa niêm yết hoặc không phải là công ty đại chúng. Điều này đòi hỏi
pháp luật, điều lệ các CTCP cần nghiên cứu, đưa ra các quy định để tạo hành lang pháp
lý cho sự hoạt động của chế định thành viên độc lập HĐQT.
Tuy nhiên, quá trình thực thi các quy định pháp luật về thành viên độc lập HĐQT
đã bộc lộ một số bất cập liên quan đến tiêu chuấn, điều kiện của thành viên độc lập
HĐỌT, giới hạn quyền và nghĩa vụ của thành viên độc lập HĐỌT hay mối quan hệ giữa
thành viên độc lập HĐQT với các chủ thể khác trong cơ cấu quản lý, điều hành ở cơng
ty cổ phần. Qua rà sốt sơ bộ một số điều lệ của CTCP (bao gồm cả CTCP đại chúng

hoặc CTCP chưa niêm yêt), việc quy định đơi với thành viên độc lập HĐQT cịn mang
tính hình thức, đối phó và chưa có những quy định giúp thành viên độc lập HĐQT phát
1 OECD (2015), G20/OECD Principles of Corporation Gorvernance, OECD Publishing, Paris, p.
35.


8

huy tất cả vai trị cúa mình. Thực trạng này yêu cầu pháp luật phải có sự nghiên cứu, đổi
mới nhằm hoàn thiện chế định pháp lý về thành viên độc lập HĐQT.
Do đó, việc nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về thành viên độc lập
HĐQT sẽ giúp ích cho việc hiều đúng bản chất của chức danh này, từ đó hồn thiện quy
định pháp luật về chế định thành viên độc lập HĐQT tại Việt Nam. Đây cũng là lý do tác
giả quyết định chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của thành viên độc lập Hội đồng quản trị
trong công ty cổ phần theo pháp luật Việt Natn” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2.

Tình hình nghiên cún
Như đã trình bày, thành viên độc lập HĐỌT không phải là phạm trù quá mới ở

Việt Nam. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu độc lập về chế định này chưa quá
nhiều. Trong nhiều trường hợp, chế định pháp lý về thành viên độc lập HĐỌT được
nghiên cứu cùng với các đối tượng có phạm vi lớn hon như: HĐỌT trong CTCP, quản
trị công ty. Đồng thời, do xuất phát điểm của mơ hình thành viên độc lập HĐQT tại Việt
Nam nằm ở mơ hình quản trị các ngân hàng thương mại, cơng ty lớn nên có một số
nghiên cứu về chế định này trong mơ hình cùa ngân hàng thương mại, CTCP. Một số
cơng trình nghiên cứu liên quan có thể kể đến như:
Đặnghọc
Đại
Thị

Luật
Đỉnh
Thành
(2009),
phố
“Hồn
Hồ đến
Chí
thiện
Minh.
chế
Luận
định
văn
hội
đã
đồng
trình
qn
bày
trị
khái
cơng
qt
tyvề
cổ
HĐQT
phần
CTCP.
tại

Việt
HĐQT
Nam”,
CTCP
Luận
Việt
văn
Nam,
Thạc
thực
sỳ
trạng
Luật

học,
một
Trường
sốvà
kiến
nghị.
Việt
Nam
Trong
cũng
như
liên
nhấn
quan
mạnh
vai

thành
trị
viên
của
thành
độc
lập
viên
HĐQT,
độc
tác
lập
giả
trong
đã
hoạt
nêu
về
động
q
của
trình
doanh
hình
nghiệp.
thành
Tuy
chức
nhiên,
danh

này
do
luận
trên
văn
thế
này
giới
đã
được
tại
thực
hiện
từđó,
năm
2009,
trước


thời điêm ra đời của LDN 2014, LDN 2020 nên có một sơ nội dung đã cũ hoặc được
tiếp thu tại pháp luật hiện hành.
Châu Quốc An (2006), “Chế độ pháp lý về quản trị công ty theo luật doanh
nghiệp”, Luận văn Thạc sỳ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ pháp lý quản trị công ty.
Thực trạng pháp luật về quản trị công ty theo luật doanh nghiệp - phương hướng hoàn
thiện. Tuy nhiên, tương tự như luận văn cùa tác giả Đặng Thị Đỉnh nêu trên, Luận văn
đã được thực hiện trước thời điểm LDN 2014, LDN 2020 có hiệu lực, do đó có một số
nội dung đã cũ hoặc được tiếp thu tại pháp luật hiện hành.
Cao Thị Kim Oanh (2004), “Tố chức quản lý nội bộ công ty cổ phần, những vấn
đề lý luận và thực tiễn ”, Luận văn Thạc sỳ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Luận văn đã phân tích một số vấn đề về quản lý nội bộ bao gồm thực trạng và hướng
hồn thiện. Tuy nhiên, thành viên độc lập HĐQT khơng phải là mục tiêu nghiên cứu
chính của cơng trình này.
Nguyễn Hồng Ngọ (2016), “Quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị
độc lập trong ngân hàng thương mại cô phần ở Việt Nam ”, Luận văn Thạc sỳ Luật học,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn này có đối tượng nghiên cứu chính là
thành viên độc lập HĐQT nhưng tập trung chủ yếu phân tích vai trò về mối quan hệ của
thành viên độc lập HĐQT trong ngân hàng thương mại, là một loại hình tổ chức tín
dụng với các quy định pháp luật chuyên ngành, khơng tập trung phân tích ở các doanh
nghiệp đơn thuần và được điều chỉnh chủ yếu bởi pháp luật doanh nghiệp.
Bên cạnh các cơng trình trên cịn có những bài viết, bài báo khoa học của các tác
giả để thề hiện các góc nhìn về thành viên độc lập HĐQT trong từng khía cạnh khác
nhau. Tuy nhiên, tác giả chưa tìm thấy cơng trình nghiên cứu riêng biệt về thành viên
độc lập HĐQT trên nhiều khía cạnh đề từ đó có cái nhìn chung nhất, tồn diện nhất về
chức danh này. Đặc biệt, về chế định này tại LDN 2020, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021
đã có nhiều điểm thay đồi đáng chú ý. Từ đó, trên nền tảng nghiên cứu của các học giả
đi trước, tác giả lây đó làm kinh nghiệm, học hỏi và tiêp tục nghiên cứu về chế định này,


đặc biệt có sự so sánh với những quy định mới tại LDN 2020.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
•••~
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiền áp

dụng các quy định về thành viên độc lập HĐQT theo LDN 2020. Từ đó, đề xuất kiến
nghị một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về chế
định thành viên độc lập HĐQT.
Đe đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu

cụ thể như sau:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về thành viên độc lập
HĐỌT.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật doanh nghiệp về
chế định thành viên độc lập HĐQT.
Ba là, đề xuất một số kiến nghị nhàm hoàn thiện các quy định pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam về chế định thành viên độc lập HĐQT.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Là các quy định pháp luật về thành viên độc lập HĐQT

và thực tiễn áp dụng các quy định đó.
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khố luận văn này, phạm vi nghiên cứu của
đề tài được giới hạn như sau:
về không gian, Luận văn được giới hạn trong việc nghiên cứu quy định cúa pháp
luật Việt Nam về thành viên độc lập HĐQT. Thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua việc
đánh giá các vụ việc phát sinh trên thực tế. Bên cạnh đó, trong q trình thực hiện đề tài,
luận văn cũng có phân tích, so sánh với một số quy định cúa pháp luật Việt Nam và một
số quy định của pháp luật nước ngoài.


Vê thời gian, Luận văn thực hiện phạm vi nghiên cứu trên các chê định vê thành
viên độc lập HĐQT từ trước đến nay. Tuy nhiên, việc đánh giá thực trạng pháp luật,
thực tiễn áp dụng sẽ chủ yếu dựa trên các quy định pháp luật từ năm 2014 trờ về trước
do LDN 2020 chỉ mới có hiệu lực áp dụng trong thời gian ngắn, chưa đủ dài để phát
sinh các thực tiễn áp dụng các quy định mới tại LDN 2020. Tuy nhiên, trong phạm vi
hiểu biết của mình, tác giả sẽ phân tích về việc liệu các quy định mới tại LDN 2020 và
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan có hiệu lực từ năm 2021 như Luật chứng
khoán, Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết

thi hành một số điều của Luật chứng khốn (Nghị định số 155/2020/NĐ-CP), Thơng tư
số 116/2020/TT-BTC hướng dẫn một số điều về quản trị công ty áp dụng đối với công ty
đại chúng tại Nghị định số 155/2020/NĐ-CP (Thơng tư số 116/2020/TT-BTC) có phần
nào khắc phục được những hạn chế cua quy định trước hay không.
5.

Phuong pháp nghiên cún
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phối hợp các phương pháp phân tích, so sánh

và tổng hợp. Chương 1 của luận văn tập trung phân tích, tồng hợp các vấn đề cơ bản
mang tính chất lý luận về thành viên độc lập HĐQT và nêu ý kiến cua tác giả xoay
quanh chế định này. Chương 2 của luận văn tập trung chủ yếu vào phương pháp phân
tích và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thành viên độc lập HĐỌT.
Qua đó, tác giả chỉ ra những bất cập cịn tồn tại trong quy định pháp luật để từ đó kiến
nghị hoàn thiện pháp luật về chế định thành viên độc lập HĐỌT theo quy định pháp luật
Việt Nam.
6.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cúa luận

văn bao gồm hai chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thành viên độc lập HĐQT
Chương 2. Thực trạng pháp luật về thành viên độc lập HĐQT, thực tiễn áp dụng
và kiến nghị hoàn thiện.


CHUÔNG 1.
NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THÀNH VIÊN ĐỘC LẬP
HỘI ĐỊNG QUẢN TRỊ

11 >2” 1 X • __ • Ạ \ — 1- • & 1 1- • -> Ạ

2 __ J •

.1. Khái niệm vê thành viên độc lập hội đông quản trị
về cấu trúc quản trị nội bộ doanh nghiệp, trên thế giới có hai mơ hình cấu trúc
quản trị CTCP cơ bản đó là mơ hình cấu trúc hội đồng đơn (cấu trúc hội đồng một tầng,
one-tier board model) và cấu trúc hội đồng kép (cấu trúc hội đồng hai tầng, two-tier
board model)2. Trong đó, ở cấu trúc hội đồng đơn, cấu trúc quản trị nội bộ của một
CTCP gồm có: Đại hội đồng cồ đơng (shareholders’ meeting) và hội đồng giám đốc
(board of directors) và khơng có một cơ quan chun trách làm nhiệm vụ giám sát
những người quản lý - điều hành công ty. Tuy nhiên, trong các công ty lớn, đặc biệt là
các công ty niêm yết, đa số thành viên của hội đồng giám đốc sẽ là thành viên độc lập
không điều hành (independent non-executive directors) và khơng có một cơ quan
chun trách làm nhiệm vụ giám sát những người quản lý - điều hành công ty3.
Ngược lại, ở hội đồng kép, cấu trúc quản trị nội bộ gồm có Đại hội đồng cố
đông, hội đồng giám sát và HĐỌT. Hội đồng giám sát sẽ có thẩm quyền chọn, bổ
nhiệm, cách chức các thành viên HĐQT 4. Do đó, vấn đề về sự cần thiết có thành viên
trong HĐQT khơng được đặt nặng tại cấu trúc này. Tuy nhiên, tại các công ty niêm yết,
vốn xuất hiện ngày càng nhiều cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề tăng cường
năng lực quản trị để có thể có bộ máy quản trị, điều hành doanh nghiệp hiệu quả được
xem là một trong những vẩn đề được chú trọng. Tại các sàn giao dịch chứng khoán cúa
nhiều quốc gia, nguyên tắc hướng dẫn dành cho các công ty niêm yết đều có khuyến
nghị về việc các cơng ty niêm yết phải có thành viên độc lập trong HĐQT, khơng phụ
thuộc vào việc pháp luật tại quốc gia đó lựa chọn cấu trúc quán trị nội bộ của CTCP
2Bùi Xuân Hài (2012), “Lý ln về mơ hình quản trị cơng ty ở nước ngoài và vấn đề tiếp nhặn vào Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 (289), trang 61.
3Bùi Xuân Hái (2006), “So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cồ phần Việt Nam với các mơ hình
điển hành trên thế giới”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6 (37), trl5-16.
4 Bùi Xuân Hài, tlđd (3), trl 5-16.



theo mơ hình nào, có thể kể đến một số ví dụ như sau:
- Tại sàn giao dịch chứng khốn New York, Điều 303A.01 quy định những công ty
niêm yết tại sàn này phải có đa số các thành HĐỌT là thành viên độc lập5.
- Tại sàn giao dịch chứng khốn Nasdaq, những quy định đối với những cơng ty niêm
yết nêu về tầm quan trọng đối với nhà đầu tư khi có các cá nhân trong HĐQT khơng
có mổi liên hệ với công ty niêm yết, yếu tổ làm giảm tính độc lập của họ và HĐQT
có trách nhiệm khẳng định không tồn tại các mối liên hệ khiến giảm tính độc lập của
các thành viên HĐỌT6.
- Khuyến nghị 2.3(a) của Bộ Khuyến nghị và nguyên tắc quản trị cơng ty của Sở giao
dịch chứng khốn úc (ASX) ghi nhận các công ty niêm yết tại Sàn này phải công bổ
tên của các thành viên độc lập HĐQT7.
Các yêu cầu về tính độc lập trong HĐQT xuất phát từ cơ sở đặc điểm về tổ chức
của CTCP. Cụ thể, vốn điều lệ CTCP được chia thành các phần bằng nhau, gọi là cổ
phần và việc góp vốn của cổ đông sẽ thực hiện bằng cách mua cổ phần. Đồng thời,
CTCP không chú trọng đến tỷ lệ sở hữu của cồ đơng. Nói cách khác, trong cơ cấu
CTCP, việc đồng thời tồn tại những cổ đông sở hữu số lượng cổ phần lớn, chiếm tỷ lệ sờ
hữu cao và những cồ đông sở hữu số lượng cồ phần nhỏ, chiếm tỷ lệ rất ít khơng phải là
trường họp hiếm gặp nhưng pháp luật vẫn ghi nhận họ là cố đông của CTCP. Đông thời,
với đặc điêm các cô đông cơ bản được quyên tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
cho các chủ thể khác, CTCP có tính chất mở, cơ cấu cổ đông thường dễ biến động.
Tại Việt Nam, Điều 111 LDN 2020 định nghĩa CTCP là doanh nghiệp, trong đó
5 New York Stock Exchange (2009), “NYSE Listed Company Manual”, truy cập ngày 18/6/2020 tại
/>WKUS TAL 5667%23teid-69.
6 Nasdaq Stock Market, “The Qualification, Listing and Delisting Companies”, truy cập ngày 18/6/2020
tại 5605 .
7ASX

Corporate


Governance

Council

(2019),

“Corporate

Governance

Principles

and

Recommendation”, truy cập ngày 18/6/2020 tại andrecommendations-fourth-edn.pdf.


vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, cổ đông là tổ chức, cá
nhân với số lượng tối thiểu là ba và không giới hạn số lượng tối đa, có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần cho người khác, trừ một số trường hợp đặc biệt theo quy định
pháp luật. Các quy định tại LDN 2020 kế thừa nội dung quy định tương ứng tại Điều
110 LDN 2014, Điều 77 LDN 2005 cũng như Điều 51 LDN 1999. Điều đó cho thấy,
những tính chất căn bản của loại hỉnh CTCP đã được định nghĩa rõ rệt trong pháp luật
doanh nghiệp Việt Nam và đã có sự tương đồng so với loại hình CTCP trên thế giới,
mặc dù mồi luật về sau đề phát triển một cách đáng kể các quy định về các mối quan hệ
pháp lý của loại công ty này so với các luật trước đó8.
Những tính chất, đặc điểm nêu trên đã dần đến hệ quả sau:
Một là, tại nhiều CTCP, đặc biệt là các công ty đại chúng 9, cổ đông sở hữu tỷ lệ
cổ phần nhỏ (cổ đông thiều số) có số lượng khá đơng. Tuy nhiên, do sở hữu tỷ lệ cổ

phần nhỏ, họ khơng có khả năng chi phối các quyết định tại CTCP. Điều này khiến việc
đầu tư của các cố đông này gần như đánh cược, phụ thuộc vào ý chí của các cổ đơng
nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn trong việc hoạch định kinh doanh, điều hành CTCP. Đặc biệt,
trên thực tế, một số CTCP có các chính sách phát hành cổ phần với giá ưu đãi cộng với
sự dễ dàng trong việc sở hữu và chuyến nhượng cồ phần, các cố đông thiểu số thường sẽ
là các nhà đầu tư có số vốn nhỏ, người lao động tại CTCP, các cá nhân chỉ xem việc
mua bán chửng khốn là hoạt động khơng thường xun. Tuy nhiên, họ góp phần tích
cực vào việc làm phong phú thêm nguồn vốn cho CTCP, giúp CTCP dễ dàng hơn trong
việc huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hai là, do các cố đông dễ dàng mua, bán cổ phần cùa mình nên việc quản lý
CTCP phức tạp hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Vì cơ cấu cổ đơng thường
xun thay đổi nên dễ phát sinh rủi ro về mặt phân hóa, đổi kháng về quyền lợi giữa các
8Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình pháp luật về chủ thê kình doanh, Nhà
xuất hàn Hồng Đức, trang 237.
9Tại Việt Nam, khi một CTCP có vốn điều lệ đà góp từ 30 tỷ đồng trờ lên và có tối thiều là 10% số cổ
phiếu có quyền biêu quyết do ít nhất một trăm nhà đầu tư khơng phải là cô đông lớn nắm giữ hoặc đà thực hiện
chào bán thành công cô phiếu lần đầu ra công chúng thì cơng ty đó sẽ trờ thành cơng ty đại chúng và còn chịu sự
điều chinh của pháp luặt chứng khoán, theo khoản 1 Điều 32 Luặt Chứng khoán 2019.


nhóm cồ đơng. Trong trường hợp phát sinh mâu thuẫn, đối kháng về lợi ích, các cổ đơng
thiếu số thường sẽ bất lợi hơn vì họ khơng thể chi phối các quyết định của CTCP. Từ lý
do đó đặt ra yêu cầu về công tác quản lý CTCP cần chặt chẽ, tránh xảy ra xung đột và
đảm bảo quyền lợi cho các cố đông thiểu sổ thông qua việc thiết kế cơ quan quản lý,
điều hành trong CTCP.
Ba là, do CTCP thường có số lượng cổ đơng lớn do đó tính khách quan trong các
quyết định trong CTCP được xem là một vấn đề cần thiết. Yêu cầu khách quan đối với
các quyết định trong CTCP nhằm đảm bảo cho các hoạt động của CTCP nhằm mục đích
cao nhất là quyền lợi của tất cả các cổ đông, bao gồm cả các cổ đông thiểu số, tránh
trường hợp các quyết định trong CTCP chỉ nhàm mục đích mang lại lợi ích cho một

nhóm cố đơng, các cá nhân trong HĐỌT hay Ban điều hành CTCP và gây thiệt hại cho
các cổ đơng khác nói chung và các cổ đơng thiểu số nói riêng.
Bốn là, CTCP có sự phân tách giữa người sở hữu vốn và người quản lý, điều
hành. Tại các CTCP có số lượng cố đơng lớn, chủ yếu là các công ty đại chúng, các cổ
đông không thế cùng lúc tham gia điều hành công ty. Đồng thời, thơng thường, dưới
khía cạnh một nhà đầu tư, các cổ đông khi nắm giữ trong CTCP thường chú trọng đến
giá trị cổ phần mà mình nắm giữ, do đó thường chì chú ý đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh mà không chú trọng đến công tác điều hành, quản lý doanh nghiệp. Sự phát triền
của các công ty hiện đại và sự phân tách giữa sở hữu và quản lý ở các nước tư bản
phương Tây đã là tiền đề vật chất cho việc xuất hiện các lý thuyêt vê môi quan hệ giữa
các cô đông và người quản lý cơng ty, trong đó đáng chú ý nhất là lý thuyết về đại diện.
Theo học thuyết về đại diện, quan hệ giữa các cổ đông và người quản lý công ty
được hiểu như là quan hệ đại diện - hay quan hệ ủy thác. Mối quan hệ này được coi như
là quan hệ hợp đồng mà theo đó các cổ đông (những người chú sở hữu - principals), bổ
nhiệm, chỉ định người khác, người quản lý công ty (người thụ ủy - agents), để thực hiện
việc quản lý công ty cho họ mà trong đó bao gồm cả việc trao thẩm quyền để ra quyết
định định đoạt tài sản cùa công ty10. Người đại diện cho chú sở hữu (Principals) hay cổ
10 Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề cúa pháp luật công ty Việt Nam", Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 4(41), trl 1 -18.


đơng (Shareholders) chính là thành viên HĐQT và những vị trí quan trọng (managers,
directors) trong CTCP hoặc thực hiện một vai trị trong vị trí của người quản lý bất luận
chức danh của họ được gọi là gì. Tuy nhiên, không thế kỳ vọng các thành viên HĐQT,
người quản lý tiền bạc của người khác cũng cẩn trọng y như khi họ quản lý tiền bạc của
chính mình11.
Lý thuyết về đại diện cho rằng, nếu cả hai bên trong mối quan hệ này (cổ đông
và người quản lý công ty) đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình, thì có co sở để tin rằng
người quản lý cơng ty sẽ khơng ln ln hành động vì lợi ích tốt nhất cho người chủ,
tức các cổ đông và công ty12. Để khắc phục vấn đề này, học thuyết đại diện cho rằng nên

thiết lập cơ chế giám sát (supervisory mechanisms) hiệu quả để hạn chế những hành vi
khơng bình thường, tư lợi của người quản lý CTCP 13. Một trong những cơ chế giám sát
đó chính là có sự tồn tại của thành viên độc lập trong HĐỌT.
về khái niệm thành viên độc lập HĐQT, hiện nay khơng có một khái niệm chung
về chế định này. Tại các quốc gia, thành viên độc lập HĐQT thường được định nghĩa
dưới hình thức loại trừ những cá nhân mang đặc diêm mà nhà lập pháp cho rằng họ sẽ
không độc lập, tức liệt kê những điều kiện, trường hợp mà khi rơi vào điều kiện, trường
hợp đó, thành viên đó sẽ khơng được coi là thành viên độc lập HĐQT. Vì lý do đó, các
trường hợp một cá nhân có thể trở thành thành viên độc lập HĐQT trong CTCP tại các
quốc gia sẽ khác nhau, có một số nơi sẽ mở rộng hoặc thu hẹp các trường hợp. Do đó,
khái niệm chung về thành viên độc lập chỉ mang tính chất tương đối. Hiện nay, trên thế
giới có một số định nghĩa về thành viên độc lập HĐỌT, chẳng hạn:
- Theo Website của Tổ chức Tài chính Quốc tế - Ngân hàng Thế giới (1FC) định
nghĩa: “Thành viên độc là Thành viên khơng có mối quan hệ vật chất trực tiếp hoặc

11 Adam Smith (1976), An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, Oxford
University Press, p. 741-742.
12 Bùi Xuân Hải, tlđd(10), tri 1-18.
13 Bùi Xuân Hải, tlđd (10), trl 1-18.


gián tiếp với Công ty, khác với các thành viên khác trong HĐQT” 14 15.
- Theo Website lawinsider.com định nghĩa: “Thành viên độc lập là Thành viên trong
HĐQT và không phải là người lao động, nhân viên của các cá nhân quản lý CTCP
hoặc bất kỳ cá nhân nào trực tiếp hoặc gián tiếp có thế điều khiến hoặc bị điều khiển
bởi các cá nhân quản lý CTCP và “độc lập” theo các quy định về quản trị của Công
ty và các quy định liên quan của ủy ban chứng khoán Quốc gia mà CTCP niêm yêt '.
- Theo định nghĩa của sàn giao dịch Nasdaq: “Thành viên độc lập là cá nhân không
phái là người điều hành hay nhân viên cúa CTCP hoặc bất kỳ cá nhân nào có mối
quan hệ, theo ý kiến của các thành viên HĐQT tại tổ chức phát hành, can thiệp vào

việc thực thi các phán quyết độc lập trong việc thực hiện nghĩa vụ16”.
Tại Việt Nam, LDN 2020 chỉ liệt kê các điêu kiện và tiêu chuân đê làm thành
viên độc lập HĐQT17 và chỉ xem là bắt buộc khi CTCP lựa chọn mơ hình tổ chức quản
trị cơng ty khơng có Ban kiếm sốt 18 (tuy nhiên, đối với các cơng ty đại chúng đã niêm
yết, pháp luật bắt buộc phải có thành viên độc lập HĐỌT trong công ty 19). Theo đó,
thành viên độc lập IIĐQT sẽ có các tiêu chuẩn sau:
(i)

Không phải là người đang làm việc cho công ty, công ty mẹ hoặc công ty con

cúa công ty; không phải là người đã từng làm việc cho công ty, cơng ty mẹ hoặc
cơng ty con cúa cơng ty ít nhất trong 03 năm liền trước đó;
(ii)

Khơng phải là người đang hưởng lương, thù lao từ công ty, trừ các khoản
14 International Finance Corporation (2018), “IFC Indicative Independent Director Definition”, truy cập

ngày 09/6/2020 tại
15 Indicative Independent Director Definition Q62719.pdf?MOD=AJPERES&CVID=mK qqtnW.
Law Insider, “Definition of Independent Director”, truy cập ngày 06/6/2020 tại
n/dictionary/independent-directors.
16 Nasdaq Stock Market, “Nasdaq Marketplace Rule”, truy cập ngày 06/6/2020 tại
files/irol/87/87823/corpgov/nasdaq marketplace rule 4200.pdf .
17 Khoản 2 Điều 155 LDN 2020.
18 Khoản 1 Điều 137 LDN 2020 nêu hai mơ hình tố chức quan trị CTCP. Trong đó nếu doanh nghiệp
lựa chọn mơ hình theo điếm b khoản 1 Điều 137 LDN 2020 thì bắt buộc có ít nhất 20% số thành viên HĐQT phải
là thành viên độc lập. Mơ hình này sè khơng có Ban kiểm sốt.
19 Khoản 4 Điều 276 Nghị định 155/2020/NĐ-CP.



phụ cấp mà thành viên Hội đồng quản trị được hưởng theo quy định;
(iii)

Khơng phải là người có vợ hoặc chồng, bố đẻ, bố nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con

đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột là cố đông lớn của công ty; là người quản lý
của công ty hoặc công ty con của công ty;
(iv)

Không phải là người trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu ít nhất 01% tổng số cổ

phần có quyền biểu quyết của cơng ty;
(v)

Không phải là người đã từng làm thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiếm

sốt của cơng ty ít nhất trong 05 năm liền trước đó, trừ trường hợp được bổ nhiệm
liên tục 02 nhiệm kỳ.
Qua các khái niệm nêu trên, có thể thấy thành viên độc lập HĐỌT được định
nghĩa khá đa dạng trong pháp luật tại mồi quốc gia. Nhìn chung, các định nghĩa về
thành viên độc lập HĐQT có xu hướng nêu những điều kiện, tiêu chuẩn của thành viên
độc lập HĐỌT, thơng qua đó giúp chúng ta hình dung được về chế định này.
Tuy nhiên, dù được định nghĩa thê nào, môi quôc gia khi quy định vê chê định này đều
nêu nổi bật tính độc lập của cá nhân giữ vị trí này trong mối quan hệ với công ty, cố
đông cũng như các thành viên khác trong HĐQT, giúp cho cá nhân khi được nắm giữ
chức danh này có các quyết định mang tính độc lập, khách quan và vì lợi ích cao nhất
của công ty.
Từ những cơ sở nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm về thành viên độc lập HĐQT
như sau: Thành viên độc lập HĐQT là thành viên HĐQT và là cá nhân khơng có các
mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với các chủ thể mà có thế ảnh hưởng đến sự cơng

bằng, khách quan, vì lợi ích cao nhất của công ty trong các quyết định của mình.
1.2.

Đặc điểm của thành viên độc lập hội đồng quản trị
Đầu tiên, có thể thấy thành viên độc lập HĐQT trước hết cũng là thành viên

HĐỌT, không phải là một vị trí để có những thẩm quyền riêng (như Tổng Giám đốc). Vì
vậy, thường khơng tác động trực tiếp và độc lập đến hoạt động CTCP. Do đó, thành viên
độc lập tồn tại cùng những thành viên khác trong HĐQT. Tuy nhiên, thành viên độc lập


HĐQT mang những tiêu chuấn khắt khe hon nhằm giúp họ giữ và duy trình tính khách
quan trong các quyết định của mình. Cụ thể, thành viên độc lập HĐQT có những đặc
điểm sau:
Thú- nhất, thành viên độc lập HĐỌT phải đáp ứng các tiêu chuẩn và điều kiện
nhất định. Thành viên độc lập tồn tại cùng những thành viên khác trong HĐQT. Xét về
mặt quản lý - điều hành CTCP, các thành viên trong HĐQT bao gồm hai nhóm chính, đó
là thành viên điều hành (Executive Director) và thành viên không điều hành (Nonexecutive Director). Các thành viên không điều hành sẽ bao gồm các thành viên có mối
liên hệ (Connected Non-executive Director) và thành viên độc lập (Independent
Director). Từ cách phân loại trên, có thể thấy rằng để là thành viên độc lập, một cá nhân
phải có những yếu tố, điều kiện riêng biệt và các điều kiện này không thể thỏa mãn đối
với các thành viên điều hành hoặc thành viên khơng điều hành có mối liên hệ.
Các tiêu chn này tuy mơi qc gia có quy định khác nhau, nhưng vê bản chất
đều nhằm mục đích thể hiện sự khơng có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với CTCP
hoặc với những chù thế khác có sự ảnh hưởng đến sự quyết định đường lối, chính sách
của CTCP. Khi định nghĩa về thành viên độc lập, Sàn giao dịch chứng khoán New York
(NYSE) đã sử dụng thuật ngừ mối quan hệ vật chất (material relationship) với giải thích
rằng mối quan hệ này bao gồm các quan hệ thương mại, ngân hàng, tư vấn, pháp lý, từ
thiện và gia đình giữa mọi người với nhau20.
Theo nguyên tắc quán trị công ty tốt và các đề xuất thông lệ tốt nhất (Principles

of Good Corporate Governance and Best Practice Recommendations) của Sở giao dịch
chứng khốn úc (ASX), tính vật chất cần được đánh giá xem xét về việc ảnh hưởng
hoặc có thể gây ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định độc lập của thành viên đối với
vấn đề được đặt ra trước HĐQT và hành động tốt nhất vì lợi ích của cơng ty và các cổ
đơng21.
Việc đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện riêng của thành viên độc lập HĐQT sẽ
giúp cho họ có khả năng giữ được sự cơng bằng, khách quan, hướng đến lợi ích của
20 New York Stock Exchange, tlđd (5), Rule 303A.02.
21 ASX Corporate Governance Council, tldd (7), p. 16.


cơng ty trong các quyết định của mình. Đây cũng là vai trị chính, là mong muốn cúa các
nhà lập pháp, cổ đông thiểu số trong CTCP khi đưa ra chế định này, bởi lẽ, các thành
viên HĐQT trong CTCP sẽ do các cổ đông lớn đề cử/ lựa chọn xuất phát từ việc nắm
giữ tỷ lệ sở hữu lớn cổ phần trong cơng ty, do đó các quyết định cúa các cá nhân này
khó vì lợi ích chung, mang tính chủ quan lớn.
Thứ hai, thành viên độc lập HĐQT không phải là cá nhân điều hành doanh
nghiệp. Như đã phân tích, mặc dù về khía cạnh pháp lý, khơng có sự phân biệt rõ ràng
giữa các thành viên trong HĐQT. Vì lý do đó, tất cả các thành viên HĐQT đều có trách
nhiệm tuân thú các quy định khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của HĐQT. Tuy
nhiên, trên thực tiễn áp dụng pháp luật, có sự phân tách giữa các thành viên HĐỌT căn
cứ trên vai trò cùa họ, đó là thành viên điều hành và thành viên không điêu hành. Thành
viên điêu hành sẽ mang thêm những trách nhiệm thông qua việc kiêm nhiệm các chức
danh khác ngồi HĐQT. Họ có vai trị đảm bảo những thông tin trước HĐQT được cung
cấp bởi các chủ thế khác trong CTCP phàn ánh đúng thực tế22.
Tuy nhiên, những thành viên HĐQT điều hành sẽ gặp khó khăn trong việc cân
bằng giữa trách nhiệm của một người quản lý, điều hành doanh nghiệp và tính độc lập
khi quyết định tại HĐQT vì có rất nhiều trường hợp HĐQT có những quyết định dẫn
đến việc thu hẹp quyền hạn cùa các chức danh điều hành doanh nghiệp. Đồng thời,
thông qua vị trí điều hành doanh nghiệp, một cá nhân sẽ có những mối quan hệ trong

q trình làm việc từ đó dẫn đến các lợi ích cá nhân. Do đó, khơng có gì đảm bảo rằng
có sự cơng tâm trong các quyết định của cá nhân điều hành doanh nghiệp tại HĐQT.
Ngược lại, thành viên HĐQT không điều hành sẽ không bị ảnh hưởng bới các
quyền lợi xuất phát từ hoạt động điều hành doanh nghiệp, từ đó có sự kiểm sốt, tác
động và dung hịa quyền lợi với các thành viên HĐỌT điều hành. Căn cứ vai trò của
thành viên HĐQT khơng điều hành, có thể thấy thành viên độc lập HĐQT sẽ thuộc
trường hợp khơng điều hành vì ở họ có sự cơng bằng, khách quan, khơng bị tác động
22 Deloitte (2014), “The different types of director, Deloitte”, truy cập ngày 12/10/2020 tại
TheDifferentTypesOfDirectors 24032014.pdf.


bởi các lợi ích khác khi quyết định là một yếu tố trung tâm, xuyên suốt.
Thứ ba, thành viên độc lập HĐỌT có báo cáo trước Đại hội đồng cổ đơng về
việc thực thi nhiệm vụ của mình. Hiện nay, tại Việt Nam, đặc điểm này chỉ được quy
định bắt buộc đối với các công ty đại chúng niêm yết và các công ty đại chúng lựa chọn
cơ cấu tổ chức khơng có Ban Kiểm sốt (trong trường hợp này, báo cáo của thành viên
độc lập HĐỌT sẽ được đông nhât với báo cáo hoạt động trong ủy ban kiểm toán)23.
Tuy nhiên, quan điểm tác giả cho rằng đây là một đặc trưng của thành viên độc
lập HĐQT. Điều này xuất phát từ niềm tin của cổ đông về việc thành viên độc lập sẽ là
nhân tố nhằm đảm bảo cho các quyết định cúa HĐQT mang tính khách quan, vì lợi ích
cao nhất của cơng ty mà khơng bị chi phối bởi các lợi ích khác. Nói cách khác, các cồ
đông, đặc biệt là các cổ đông nhở lẻ trông chờ vào việc thành viên độc lập HĐQT sẽ có
những tiếng nói phản biện, nhằm giúp các vấn đề trước khi biểu quyết tại HĐỌT đã
được xem xét kỳ lưỡng, thấu đáo và đa chiều. Đáp lại mong mỏi này, các cổ đông đều
mong đợi được nghe các thông tin về hoạt động của thành viên độc lập HĐQT trong
việc thực hiện các nhiệm vụ của mình cũng như trong việc thay mặt cố đơng bảo vệ các
lợi ích của họ trong công ty.
Mặt khác, việc báo cáo hoạt động cua mình trước cổ đơng cũng là một cách thức
mà thành viên độc lập HĐQT khiến các cổ đông củng cố, gia tăng niềm tin vào việc đầu
tư vào cơng ty sẽ mang lại cho cồ đơng lợi ích tốt nhất, từ đó đảm bảo và gia tăng giá trị

công ty trong thị trường vốn. Trên thực tế, nhiều cơng ty có giá trị vốn cao tại Việt Nam
có nội dung báo cáo về hoạt động của thành viên độc lập HĐQT tại các phiên họp Đại
hội đồng cổ đông thường niên như HSC24, Phát Đạt corporation25,...
23 Xem khoản 4 Điều 280, Điều 284 Nghị định 155/2020/NĐ-CP. Ngoài ra, trong các trường hợp bắt
buộc phải có báo cáo cùa thành viên độc lập phải được quy định tại điều lệ của công ty đại chúng, căn cứ điều lệ
mẫu ban hành theo Thông tư số 116/2020/TT-BTC.
24 Công ty cổ phần chứng khoán TP.HCM (2017), “Báo cáo cúa Hội đồng quản trị”, truy cập ngày
12/10/2020 tại Bao
%20cao%20cua%20Hoi%20dong%20Quan%20tri.pdf.
25 Công ty cổ phần phát triển bất động sán Phát Đạt (2018), “Báo cáo đánh giá cua Thành viên độc lập
HĐQT năm 2018”, truy cập ngày 12/10/2020 tại content/uploads/2019/03/baocao-danh-gia-thanh-vien-doc-lap-hqdt2018.pdf.


77zzr tư, thành viên độc lập HĐQT chỉ chiếm số lượng nhất định trong HĐQT
và không phải đa số. Pháp luật của các quốc gia khi đề cập đến thành viên độc lập
HĐQT ngoài các vân đê liên quan đên điêu kiện, vai trị thì sơ lượng thành viên độc lập
HĐQT trong HĐQT là một trong những vấn đề được quan tâm và điều chính.
Tại Ẩn Độ, số lượng tối thiểu thành viên độc lập HĐQT được xác định phụ
thuộc vào từng loại cơng ty cố phần, trong đó cơng ty đại chúng niêm yết phải có số
lượng thành viên độc lập chiếm tối thiểu một phần ba trong tổng số thành viên HĐQT;
đối với các trường hợp công ty cổ phần khác, chính phủ sẽ quyết định số lượng tổi thiểu
thành viên độc lập HĐQT theo từng nhóm cơng ty cổ phần26 nhưng hiện nay tối thiểu là
02 thành viên độc lập HĐQT27.
Tại Malaysia, ít nhất một phần hai số thành viên Hội đồng quán trị là thành viên
độc lập; đối với các công ty lớn, đa số các thành viên trong HĐQT là thành viên độc
lập28. Tại Hoa Kỳ, sàn giao dịch NYSE và NASDAQ đều quy định đa số thành viên
HĐQT là thành viên độc lập29. Tại Việt Nam, pháp luật khơng có quy định về số lượng
tối thiểu thành viên độc lập HĐQT đối với mọi công ty cố phần mà chỉ quy định đối với
các công ty cổ phần chọn cơ cấu tổ chức không có ban kiểm sốt 30 và các cơng ty đại
chúng niêm yết31. Tuy nhiên, trong quản trị các tổ chức tín dụng, HĐQT phải có ít nhất

01 (một) thành viên độc lập và một nửa tồng số thành viên HĐQT là thành viên độc lập
và thành viên không điều hành32.
26 Government of India (2013), “The Companies Act”, truy cập ngày 15/6/2020 tại
/>27 The Companies (Appointment and Qualification of Director) Rule of India (2014), Rule 11.1.4, truy
cập ngày 13/10/2020 tại n/rule-4-companies-appointment-and-qualification-of- directorsrules2014/.
28Securities Commission (2007), “Malaysian code on corporate governance”, truy cập ngày 15/6/2020,
tại bal/sites/default/files/codes/docurnents/cg code malaysia 2007 en.pdf.
29 Find Law (2017), “SEC Approves NYSE and NASDAQ Proposals Relating to Director
Independence”, truy cập ngày 14/10/2020 tại />30 Điểm b khoản 1 Điều 137 LDN 2020.
31 Khoản 4 Điều 276 Nghị định 155/2020/NĐ-CP.
32 Khoản 1 Điều 62 Luật Các tồ chức tín dụng nãm 2010, sừa đổi, bồ sung năm 2017.


Như vậy, có thê thây hiện nay, các qc gia khi xây dựng chê định thành viên
độc lập trong HĐQT đều có những quy định về số lượng tối thiểu. Việc quy định số
lượng tối thiểu thành viên độc lập HĐQT đồng nghĩa với việc pháp luật quốc gia đó bắt
buộc phải có sự tồn tại của thành viên độc lập HĐQT. Điều này khơng ngạc nhiên vì
trong các CTCP, các cổ đông lớn nắm giữ cổ phần đủ để chi phối các quyết định đa
phần đều không mong muốn sự có mặt của thành viên độc lập để giảm tính phản biện
cũng như sẽ thúc đẩy các chiến lược của cổ đông lớn đối với CTCP. Việc xác định số
lượng tối thiểu thành viên độc lập HĐỌT phụ thuộc vào ý chí của nhà làm luật tại mồi
quốc gia.
Qua các dẫn chứng về số lượng tối thiểu thành viên độc lập HĐQT tại Ắn Độ,
Malaysia, có thể thấy việc xác định số lượng tối thiểu thành viên độc lập HĐQT căn cứ
mức độ đại chúng, quy mô vốn của CTCP cũng như sự tác động đến kinh tế vĩ mô của
các quốc gia. Cụ thể, các quốc gia thường quy định các công ty đại chúng, niêm yết trên
thị trường chứng khốn phải có thành viên độc lập HĐQT, thành viên HĐQT không
điều hành. Đối với các công ty cổ phần không niêm yết, các quốc gia thường chú trọng
về sự tồn tại của thành viên độc lập HĐQT tại các CTCP có quy mơ vốn lớn và số lượng
cổ đơng nhiều. Đồng thời, các quốc gia có quan điểm khác nhau về việc số lượng thành

viên độc lập HĐQT có hay khơng chiếm đa số.
Tại Việt Nam, pháp luật khơng có quy định về việc thành viên độc lập HĐQT
chiếm đa số trong HĐQT. Theo quan điểm của tác giả, việc không quy định số lượng
thành viên độc lập HĐỌT chiếm đa số xuất phát từ nguyên tắc đối vốn tại CTCP. Trong
đó, các cổ đơng đầu tư vốn cao sẽ có quyền quyết định cao hơn trong giới hạn không
xâm phạm quyền lợi của các cồ đông khác. Do đó, số lượng thành viên độc lập HĐQT
khơng chiếm đa số nhằm đảm bảo quyền quyết định của các cổ đông lớn vẫn được tôn
trọng. Thành viên độc lập HĐQT chỉ giữ vai trò phản biện, giám sát hoạt động của
HĐQT và đảm bảo HĐQT đang thực hiện các nhiệm vụ nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi
của tất cả các cổ đông.


1.3.

Vị trí, vai trị cùa thành viên độc lập hội đơng quản trị
Việc xác định vị trí, vai trị của thành viên độc lập HĐQT nhằm làm rõ nguyên

nhân và sự cần thiết cho sự tồn tại của thành viên độc lập HĐQT trong cơ cấu CTCP.
Vai trò của thành viên độc lập HĐQT đã được khẳng định tại các lý thuyết và thông lệ
tốt về quản trị doanh nghiệp, theo đó thành viên độc lập HĐQT rất quan trọng đối với
chất lượng, hiệu quả hoạt động của CTCP 33. Vị trí, vai trị của thành viên độc lập
HĐQT được thể hiện chủ yếu như sau:
Thứ nhất, thành viên độc lập HĐQT có vị trí, vai trị như một cố vấn độc lập
trong HĐQT. Căn cứ vào khái niệm cũng như đặc điểm của thành viên độc lập HĐQT,
có thể thấy pháp luật định hướng họ khơng có mối liên hệ với các cổ đông cũng như
người quản lý CTCP hoặc nếu có thì mối liên hệ ấy sẽ khơng sâu sắc, đủ để tác động,
ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định của họ trong HĐQT. Vì sự độc lập, khơng có mối
liên hệ hoặc nếu có thì khơng sâu sắc, một cá nhân được cổ đông tin tưởng bỏ phiếu bầu
để trở thành thành viên độc lập HĐQT phải là người có uy tín, sự hiểu biết, kiến thức
chuyên ngành trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của CTCP. Có như vậy, họ mới đủ

khả năng thuyết phục các cổ đông tin tưởng để bỏ phiếu bầu cho mình.
Chính vì sự hiểu biết, uy tín của mình, thành viên độc lập HĐQT có vị trí, vai trị
như một cố vấn trong HĐỌT, giúp các thành viên khác trong HĐQT, có thể là những cá
nhân đang nắm giữ vốn nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức trong
việc kinh doanh, vận hành doanh nghiệp, tìm được quyết định phù hợp khi biểu quyết
tại HĐQT. Các ý kiến của thành viên độc lập HĐQT giúp cho các thành viên HĐQT
nhìn nhận một cách tồn diện các vấn đề cần HĐQT biểu quyêt. Đôi với thành viên
HĐỌT điêu hành, kiêm nhiệm các chức vụ trong ban điêu hành CTCP, khi đưa ra các
quyết định hoặc ý kiến thường dễ bị chi phối bời những lọi ích trước mắt trong công tác
33Wenge Wang (2014), “Independent Directors and Corporate Performance in China: A Meta- empirical
Study”, truy cập ngày 14/10/2020
tại />Theo đó, trong một cuộc khảo sát đối với 266 công ty tại Mỹ cung cấp những bằng chứng cho thấy rằng
nhùng công ty càng nhiều thành viên độc lập trong hội đồng sè cài thiện được năng lực thông qua việc nhận thấy
hiệu quà tài chính cao 11011.


điều hành, quản lý doanh nghiệp mà sẽ bó qua sự an tồn, quyền lợi của cố đơng. Đối
với các thành viên HĐQT không điều hành nhưng không phải là thành viên độc lập, đa
số họ là những người đại diện phần vốn cho các cổ đông lớn và do các cổ đông lớn thực
hiện bầu dồn phiếu để họ tham gia HĐQT.
Do đó, trong một số trường họp, các thành viên này khơng có đủ thơng tin, kinh
nghiệm và kiến thức về các lĩnh vực kinh doanh cũng như hoạt động của CTCP mà họ
đang tham gia trong HĐỌT, dẫn đến việc quyết định tiềm ẩn rủi ro không chính xác,
phù hợp và gây ảnh hưởng đến CTCP. Vì vậy, để các quyết định của HĐQT mang lại lợi
ích cao nhất cho CTCP, theo các thông lệ tốt về quản trị doanh nghiệp thì các thành viên
độc lập HĐỌT có thể đóng góp vào những quyết định quan trọng của quản trị công ty,
đặc biệt là trong việc đánh giá thành tích điều hành, đặt ra mức thù lao đối với cán bộ
điều hành và thành viên HĐQT, rà sốt báo cáo tài chính và giải quyết các mâu thuẫn
nội bộ34.
Thứ hai, thành viên độc lập HĐQT có vai trò giám sát hoạt động cúa HĐQT

cũng như các cá nhân quản lý, điều hành CTCP.
Như trình bày tại mục 1.1, tại các CTCP, đặc biệt là các công ty đại chúng, các
cổ đơng thường ít có mối liên hệ với nhau trước đó, dẫn đến niềm tin dành cho nhau
khơng cao như các loại hình cơng ty khác. Mặt khác, việc quản trị các CTCP được xây
đựng trên cơ sở đối vốn, từ đó những quyết định tại CTCP nói chung, các cơ quan quản
trị (HĐQT, Ban điều hành) nói riêng thường gắn với những lợi ích của các cổ đông lớn.
Trong HĐQT, theo nguyên tắc chung, các quyết định của HĐQT dựa trên các yếu tổ,
quyết định chủ quan của đa số các thành viên HĐỌT (được các cơ đơng lớn đê cử và chi
phơi). Do đó, các quyêt định này không thê tránh khởi sự thiếu khách quan, minh bạch
và hành vi che giấu thông tin nhằm mục đích mang lại lợi ích cho các cố đơng lớn.
Đối với thành viên HĐQT, các cổ đông lớn sẽ thực hiện quyền đề cử trực tiếp và
sử dụng các phiếu bầu tương với với tỷ lệ cổ phần mình nắm giữ để bầu họ nắm giữ vị
trí trong HĐỌT. Đối với Ban điều hành, các cổ đông lớn sẽ thông qua việc tác động, chỉ
34 Nguyễn Hồng Ngọ (2016), "Quy chế pháp lý cùa thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân
hàng thương mại cồ phần ở Việt Nam ”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, tr.24.


×