Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Bảo vệ người thứ ba ngay tình khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.31 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHƠ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐAI HOC KINH TẾ - LƯÂT

NGUYEN PHỤNG HIEU

BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA
NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN sụ VƠ HIỆU

Ngành: Luật Dân sự và Tơ tụng dân sự
Mã số: 8380ì03

LUÂN VĂN THAC sĩ LUẢT HOC

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẨN: TS. NGUYỄN VĂN TRÁNG

TP.HO CHI MINH, NAM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kêt quả
nghiên cứu nêu trong Luân văn chưa từng chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực và tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm trước pháp luật về cơng trình nghiên
cứu của mình.
Tơi cam kết đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn đầy đủ các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Trường Đại Học Kinh Tế - Luật.
Tôi xin chân thành cảm on!
NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN PHỤNG HIẾU



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÃO
PHÀN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đê tài
Mục đích của pháp luật khởi nguồn chính từ những nhu cầu thường ngày của

mỗi con người, là công cụ phục vụ, bảo vệ lợi ích mọi thành viên trong xã hội của Nhà
nước. Nảy sinh từ nhu cầu sản xuất, nhu cầu kinh doanh cũng như các nhu cầu khác,
Nhà nước thấy cần thiết phải có những phương tiện pháp lý nhằm đáp ứng những nhu
cầu ngày càng tăng đó cúa con người. Giao dịch dân sự chính là một trong những
phương tiện pháp lý quan trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc chuyển dịch tài
sản vàcung ứng dịch vụ, nghĩa là giao dịch dân sự tạo điều kiện cho các chủ thể tham
gia vào đời sống pháp lý nhằm đáp ứng những nhu cầu, địi hỏi phục vụ cho những mục
đích nhất định từ cuộc sống con người. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đời
sống kinh tế - xã hội, giao dịch dân sự càng có ý nghĩa quan trọng.
Xuất phát từ tầm quan trọng cũng như ý nghĩa thiết thực của giao dịch dân sự,
BLDS nước ta đã quy định cụ thế, chi tiết và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực
hiện cũng như các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự nhằm tạo một hành
lang pháp lý thơng thống và an tồn cho các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự, tạo
sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cua đất
nước.

Tuy nhiên, không phải giao dịch dân sự nào được giao kết cũng đương nhiên có
hiệu lực, vì nếu không đáp ứng đủ các điều kiện mà pháp luật quy định thi giao dịch dân
sự đó sẽ bị vơ hiệu. Hiện nay, việc giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả của
giao dịch dân sự vô hiệu trong một số trường hợp vẫn cịn nhiều khó khăn, vướng mắc,
vì thực tế có những trường hợp khi xác lập và thực hiện giao dịch dân sự thì chú thế đã


thực hiện đầy đú nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật với tinh thần thiện chí, ngay
thẳng, trung thực, họ không biết và không thể biết tài sản mà mình xác lập, thực hiện lại
hình thành từ một giao dịch dân sự vơ hiệu trước đó. Do vậy khi phát sinh tranh chấp thì
quyền lợi của họ bị xung đột với quyền lợi cùa chủ sở hữu tài sản, và dưới góc độ pháp
luật thì các chù thể này được gọi là người thứ ba ngay tình.


5

Là một người học luật, tác giả thây răng cân phải nghiên cứu và hệ thơng lại tồn
diện các quy định của pháp luật có liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu, vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, khi bắt đầu được tìm hiểu các quy định về việc bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu trong Bộ luật dân sự 2015, tác giả
đã thực sự cảm thấy hứng thú và nghĩ đến việc đi sâu nghiên cứu tìm hiểu các quy định
của pháp luật về vấn đề người thứ ba ngay tình.
Thứ hai, sự hiểu biết và kinh nghiệm của tác giả về vấn đề bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu chưa vừng vàng trong khi thực tiễn
tác giả thấy có rất nhiều giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền lợi của người thứ
ba ngay tình xảy ra hàng ngày, nhưng khi áp dụng giữa pháp luật vào thực tiễn thì cũng
chưa thống nhất, còn nhiều vấn đề pháp lý phức tạp của đề tài cần thiết phải nghiên cứu
để rõ hơn.
Thứ ba, việc nghiên cứu đề tài này, là cơ hội tốt nhất để tác giả có điều kiện

nghiên cứu sâu hơn quy định của pháp luật về vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn
thiện hơn quy định pháp luật về vấn đề này là việc làm hết sức cần thiết trong tình hình
giao lưu dân sự hiện nay của nước ta.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dãn sự vơ hiệu ” để làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân

sự vơ hiệu, hiện nay đã có một số sách chun khảo và cơng trình nghiên cứu ở các cấp
độ khác nhau, cụ thể như:
- Tưởng Duy Lượng (2019), “Quy định của các bộ luật về bảo vệ người thứ ba
ngay tình và thực tiễn giải quyết” trong sách tham khảo Pháp luật dân sự và thực tiễn
xét xử, Tưởng Duy Lượng (Chủ biên), NXB Chính trị quốc gia Sự Thật. Trong cuốn
sách này, tác giả đã bình luận và phân tích về các điểm mới của Bộ Luật Dân sự 2015
trong đó có vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình cùng các trường hợp
thực tiên, tuy nhiên cn sách chí dừng lại ở phân tích diêm mới của điều luật liên quan


6

đến người thứ ba ngay tình, và dưới góc nhìn của tác giả ở một khía cạnh nhở, trong khi
thực tế áp dụng để hiểu về vấn đề này thì còn phải đan xen nhiều vấn đề khác từ lý luận
đến thực tiễn mới hiếu hết được.
- Nguyễn Vũ Hường (2016), “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao
dịch dân sự vơ hiệu”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường ĐH Luật Hà Nội. Trong
luận văn này, tác giả trình bày và lý luận về quyền lợi của người thứ ba ngay tình

theo Bộ luật dân sự 2005, chưa làm rõ sự cần thiết của bảo vệ quyền lợi người thứ ba
ngay tình, cũng như khơng phân tích quyền lợi người thứ ba ngay tình được bảo vệ
như thế nào trong một số quy định cụ thề của pháp luật chuyên ngành, chưa chi ra
được sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án khi xét xử các vụ
việc liên quan đến người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu, nên với Luận
văn này tác giả sẽ hệ thống lại toàn bộ các vấn đề của pháp luật liên quan đến người
thứ ba ngay tình, và nêu ra các vụ việc thực tiền để minh chứng cho vấn đề bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu chưa có sự thống
nhất. Bằng cách hệ thống lại toàn bộ pháp luật liên quan đến người thứ ba ngay tình,
lý luận và phân tích một cách khoa học theo pháp luật của Bộ luật dân sự 2015, tác
giả sẽ trình bày tính mới của đề tài này một cách đầy đủ hơn so với các luận văn liên
quan đã được thực hiện trước đó về vẩn đề này.
Ngồi các cơng trình nêu trên, thì cịn có một số bài viết liên quan như:
- Vũ Thị Hồng Yến (2007), “Bão vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chù sở
hữu kiện đòi lại tài sản ”, Hội thảo khoa học cấp trường, Trường Đại Học Luật Hà
Nội, ngày 11 tháng 12 năm 2007. Trong bài viết này, tác giả trình bày khái niệm
người thứ ba ngay tình và nêu ra các trường hợp được đòi lại tài sản của chủ sớ hữu,
làm xung đột đến quyền lợi của người thứ ba ngay tình, bài viết dừng lại ớ việc phân
tích quyền lợi của chủ sở hữu tài sản và không phân tích nhiều về việc bảo vệ quyền
lợi của người thứ ba ngay tình.
- Bích Phượng (2019), “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch
dân sự vơ hiệu” Tạp chí Tồ án nhân dân, Tồ án nhân dân tối cao số 02/2019.
Trong bài viêt tác giả chỉ so sánh quy định bảo vệ quyên lợi của người thứ ba ngay tình
giữa Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015.
- Tưỏng Duy Lượng (2015), “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi


7

giao dịch dân sự vô hiệu trong dự tháo Bộ luật dân sự ”, trong bài viết này tác giả đã

chỉ ra các vụ việc thường phát sinh trên thực tế xét xử làm ảnh hưởng đến quyền lợi
người thứ ba ngay tình và điểm tiến bộ của Bộ luật dân sự 2015 trong việc bảo vệ quyền
lợi người thứ ba ngay tình.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu và bài viết trên đây đã nêu và phân tích
những vấn đề khái quát về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vơ
hiệu, tuy nhiên việc phân tích của các bài viết chỉ ở một phạm vi hẹp, chưa có sự nghiên
cứu tổng quan nhất ở cả góc độ lý luận và thực tiễn theo pháp luật hiện hành, vì đề tài
này tới nay vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập còn chưa rõ, quá trình áp dụng pháp luật
thiếu sự thống nhất. Do vậy, tác giả cho rằng việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Bảo
vệ quyền lọi của nguôi thú’ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu” là một việc
làm hết sức cần thiết để quy định của pháp luật về vấn đề này được rõ ràng hơn.
3.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

• Mục tiêu nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ và đánh giá những quy định cùa pháp
luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu theo
pháp luật hiện hành. Thông qua việc làm rõ các khái niệm, hệ thống lại các quy định của
pháp luật về người thứ ba ngay tình thì luận văn có đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về đề tài để có sự thống nhất cao trong cách hiểu, bảo
đảm tính khả thi khi áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
khi giao dịch dân sự vô hiệu giữa lý luận và thực tiễn được rõ ràng hơn, tránh sự e ngại,
tâm lý lo sợ trong giao dịch dân sự cúa chủ thể ngay tình.
• Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đe đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Trình bày lý luận vê giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô hiệu, làm rõ hậu quả
của giao dịch dân sự vô hiệu.
- Lý luận về người thứ ba ngay tình, phân tích làm sáng tỏ các điều kiện luật định đề

người thứ ba ngay tình được bảo vệ khi giao dịch dân sự vơ hiệu.
- Nghiên cứu về các vụ việc thực tiễn tranh chấp liên quan đến người thứ ba ngay tình,


8

đánh giá về sự áp dụng pháp luật thông qua việc giải quyết tranh chấp của Tòa án
nhân dân.
- Đồ xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền
lợi cúa người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

• Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là hệ thống lý luận pháp lý, các quy định
cùa pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch
dân sự vơ hiệu và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến vẩn đề bảo vệ quyền lợi cho
người thứ ba ngay tình hiện nay.
• Phạm vi nghiên cứu:
Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vơ
hiệu là một đề tài có nội dung khá phức tạp, phạm vi nghiên cứu rộng. Trong khuôn khổ
của luận văn, tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu quy định cụ thề của pháp luật và thực
tiễn, nhằm làm rõ sự chưa thống nhất trong việc áp dụng pháp luật đối với vấn đề bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu. Tất cả các vấn đề nói
trên sẽ được tiếp cận theo chiều sâu và toàn diện trong hệ thống pháp luật dân sự Việt
Nam và đặc biệt là quy định của Bộ Luật Dân Sự 2015. Luận văn khơng có sự so sánh
giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài về vấn đề nghiên cứu, mà chỉ giới hạn
ở phạm vi nghiên cứu là các quy định của pháp luật Dân sự Việt Nam về bảo vệ quyền
lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.

5.

Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương

pháp nghiên cứu luật học truyền thống bao gồm: phương pháp phân tích; phương pháp
tơng hợp, phương pháp hệ thơng hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh
pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp để làm rõ các khái niệm liên quan đến bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
- Phương pháp tồng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ
những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp


9

kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách
đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thề hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến
nghị hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật, đế thấy được những điểm phù hợp, hạn
chế trong các quy định pháp luật, từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hồn thiện
quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân
sự vơ hiệu.
6.

Kết cấu đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận về giao dịch dân sự vô hiệu và bảo vệ quyền lợi người thứ ba

ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu
Chươngchấp
2: Quy
định nghị
pháp hồn
luật thiện.
về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu, thực tiễn giải quyết
tranh
và kiến


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH DÂN sự VÔ HIỆU VÀ BẢO VỆ
NGƯỜI THÚ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN sụ VÔ HIỆU
1.1.

Khái quát về giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô hiệu

1.1.1.

Khái niệm về giao dịch dân sự
Dưới góc độ khoa học, khái niệm giao dịch dân sự được đề cập trong rất nhiều

tài liệu khác nhau như: “Giao dịch dân sự là hành vi được thực hiện nhằm thu được kết
quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quá trở thành hiện thực” hay ‘‘Giao
dịch là một sự kiện pháp lý bao gồm hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương (họp
đồng)làm phát sinh hậu quả pháp lý. ”2
Theo Từ điến luật học, NXB.Tư pháp năm 2006 thì giao dịch dân sự là hành vi
pháp lý đon phương hoặc hợp đồng cá nhân, pháp nhân, hộ gia đỉnh, tổ hợp tác nhằm
làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự. Theo Từ điến Tiếng

Việt, giao dịch là “có quan hệ gặp gỡ, tiếp xúc với nhau” 3. Trong quan hệ dân sự, việc
gặp gỡ, tiếp xúc với nhau được diễn ra đế thể hiện ý chí của các bên trực tiếp và cơng
khai. Cũng có quan điểm cho rằng giao dịch dân sự là hành vi pháp lý hợp pháp biểu
hiện ý chí của một hoặc nhiều người nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự. Như vậy, giao dịch dân sự dù được nhìn nhận dưới góc độ nào cũng
đều bao gồm hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý đơn phương
Trong pháp luật dân sự, khái niệm giao dịch dân sự được quy định trong phần
thứ nhất chương 8 của Bộ Luật Dân Sự năm 2015. Cụ thể: Điều 116 BLDS năm 2015
quy định về giao dịch dân sự như sau: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. ”
o





Đối với giao dịch dân sự là hợp đồng thì được quy định tại mục 7 phần thứ ba Bộ Luật
Dân Sự năm 2015. Đối với giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương thì được quy
định một phân trong phân hợp đông dân sự như hứa thường và thi có giải (Chương 18)
và một phần trong quy định về thừa kế của Bộ Luật Dân Sự.
Từ đó, có thể thấy khái niệm giao dịch dân sự được quy định tại Điều 116 BLDS
2‘Hoàng Thế Liên - Nguyền Đức Giao (chù biên) (2001), Bình luận khoa học Bộ luật dân sụ' Việt Nam, tập I, NXB
Chính trị quốc gia Hà Nội, tr 226
3 Viện Ngôn Ngừ (2010), Từ điền Tiếng Việt phổ thông, NXB Thanh Niên, t.348


năm 2015 là khái niệm được đề cập dưới dạng liệt kê, theo đó giao dịch dân sự có thể là
hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên, dù là hợp đồng hay hành vi pháp
lý đơn phương cũng đều nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý nhất định, mà ở đây là làm
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên.

ỉ.1.2. Khái niệm về giao dịch dân sự vô hiệu
Trong khoa học pháp lý thuật ngữ “giao dịch dân sự vô hiệu” được sử dụng rất
rộng rãi, tuy nhiên chưa có một tài liệu chính thống nào định nghĩa cụ thể về thuật ngữ
này. Ở Việt Nam đế xác định giao dịch vô hiệu phải căn cứ vào quy định tại Điều 117
BLDS 2015 và Điều 122 BLDS (giao dịch dân sự khơng có một trong các điều kiện
được quy định tại Điều 117 của BLDS 2015 là vô hiệu). Các điều kiện theo quy định tại
Điều 117 là: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập; Chủ thế tham gia giao dịch dân sự hồn tồn tự nguyện;
Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo
đức xã hội; Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp pháp luật có quy định.
Giao dịch dân sự vô hiệu không phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong
muốn. Đây là nguyên lý chung mà pháp luật các nước đều ghi nhận
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, mặc dù thuật ngữ giao dịch dân sự vô hiệu
được sử dụng rộng rãi, nhưng chưa thấy tài liệu nào nêu ra khái niệm khoa học cụ thể.
Để tìm đến một khái niệm hồn chỉnh về giao dịch dân sự vơ
• • • • • • hiệu, trước hết cần làm rõ vấn đề vơ hiệu nói chung.
Vơ hiệu theo nghĩa thơng thường là “khơng có hiệu lực, khơng có hiệu quả”4
Như vậy, có thể suy ra là giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không tồn tại theo quy
định của pháp luật, khơng có hiệu lực pháp lý. Mặc dù một giao dịch dân sự nào đó
được xác lập, các bên có thể chưa thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong các
quyên, nghĩa vụ như cam kêt..., nhưng khi xác định đó là giao dịch dân sự vơ hiệu thì
mọi cam kết (đang, đã thực hiện...) đều khơng phải là các quyền, nghĩa vụ được pháp
luật bảo hộ và bảo vệ.
BLDS năm 2015 tại Điều 117 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự và một giao dịch dân sự muốn phát sinh hiệu lực pháp lý phải thỏa mãn tất cả các
điều kiện có hiệu lực quy định tại điều luật này, nếu vi phạm một trong những điều kiện
4Viện Ngôn ngừ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr 1083



đó thì giao dịch dân sự bị vơ hiệu. Vì vậy, xác định điều kiện có hiệu lực của một giao
dịch dân sự là rất cần thiết và quan trọng. Một mặt để ngăn chặn hành vi lạm dụng
quyền dân sự để xác lập các giao dịch trái pháp luật. Mặt khác, giao dịch dân sự được
xác lập thoả mãn các điều kiện mà pháp luật quy định thì cũng đồng thời bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể đó khơng bị xâm phạm.
Nhìn chung, giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự mà các chủ thế thamgia
giao dịch không tuân thù theo các điều

kiện

mà pháp luật quy

định đối

với giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật.

Hậu

quả là không làm

phát sinh

quyền và nghĩa vụ của các chủ thề tham gia

giao

dịch. Đối với một

giao dịch


dân sự vơ hiệu thì cho dù các bên tham gia giao kết đã thực

hiện

hoặc thực hiện một phần của giao dịch theo cam kết của các bên... thì vần không được
công nhận về mặt pháp lý và mọi cam kết khơng có giá trị bắt buộc đối với các bên kể từ
thời điểm các bên xác lập giao dịch đó.
ĩ.1.3. Phân loại giao dịch dãn sự vơ hiệu theo quy định pháp luật
Các trường hợp giao dịch bị vô hiệu có thể được phân thành hai nhóm chính: Vơ
hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng khái niệm vô hiệu
tuyệt đối và vô hiệu tương đối là hai khái niệm của ngành khoa học luật dân sự, mang
tính lý thuyết và chưa được sứ dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật. Bộ luật dân
sự (Phần thứ nhất, Chương 8) không phân loại các trường hợp vô hiệu của giao dịch dân
sự thành vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối, mà chỉ giới hạn ở việc chi ra các
trường hợp vô hiệu do vi phạm từng điều kiện cụ thế của giao dịch dân sự, cùng với việc
chỉ ra hậu quả cụ thề cùa từng giao dịch vô hiệu. Thế nhưng hai khái niệm ''giao dịch
dân sự vô hiệu tuyệt đối” và “giao dịch dân sự vô hiệu tương đối” lại là hai khái niệm
rất quan trọng đối với khoa học luật dân sự. Chúng là công cụ không thể thiếu được
trong việc nghiên cứu bản chất của giao dịch dân sự, cũng như trong việc giải quyết các
vấn đề có liên quan đến thủ tục tuyên bố một giao dịch dân sự vơ hiệu.
• Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối gồm:
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều
123 Bộ luật dân sự 2015)
Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức
xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể


thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuấn mực ứng xừ chung
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Giao dịch vi phạm quy định này đương nhiên bị coi là vơ hiệu khơng phụ thuộc

vào ý chí của các bên tham gia giao dịch. Tài sản giao dịch và lợi tức thu được có thể bị
tịch thu, sung quỳ nhà nước. Ví dụ: Giao dịch mua bán và vận chuyển vũ khí vơ hiệu do
vi phạm điều cấm của luật, cụ thề là vi phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỳ thuật quân sự
được quy định tại Điều 304 BLHS 2015.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124 BLDS 2015)
Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vơ hiệu, cịn giao dịch dân sự bị che giấu
vần có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vơ hiệu theo quy định cùa Bộ luật này
hoặc luật khác có liên quan. Ví dụ: Giao kết hợp đồng tặng cho tài sản nhằm che giấu
họp đồng gửi giữ.
Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba thì giao dịch dân sự đó vơ hiệu. Ví dụ: Các bên thoả thuận giao kết hợp đồng tặng
cho nhưng không làm phát sinh quyền cùa người được tặng cho nhằm trốn tránh việc trả
nợ người cho vay trước đó. Khi đó hợp đồng tặng cho giả tạo đó sẽ bị vơ hiệu.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều
129 BLDS 2015)
Theo nguyên tăc chung thì các chủ thê được tự do lựa chọn hình thức của giao
dịch. Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải
có chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy định
này mới bị vô hiệu. Tuy nhiên:
+ Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phái bằng văn bản nhưng văn
bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tịa án ra
quyết định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó.
+ Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng vãn bản nhưng vi phạm quy định bắt
buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần
ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết



định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải
thực hiện việc công chứng, chứng thực.
• Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều ỉ25 BLDS 2015)
Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chú hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tịa
án tun bố giao dịch đó vơ hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do
người đại diện cùa họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126 BLDS 2015)
Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc
các bên khơng đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có
quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp:
+ Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn khơng vơ hiệu trong trường hợp
mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc
phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sư vẫn đat
đươc.
Nhâm lân là việc các bên hình dung sai vê nội dung của giao dịch mà tham gia
vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Sự nhầm lẫn xuất phát từ nhận
thức cúa các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được
thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bên bị
nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tun bổ vô
hiệu.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127 BLDS 2015)
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì
có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vơ hiệu. Lừa dổi trong giao
dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên



đã xác lập giao dịch đó. Ví dụ: che giấu hành vi bất hợp pháp đề hưởng thừa kế theo di
chúc; dùng thủ đoạn nói là vật tốt để bán với giá đắt...
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người
thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khóe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích
cùa mình.
Những giao dịch được xác lập do lừa dối, đe dọa, cưỡng ép chí bị vơ hiệu khi có
u cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép và toà án chấp nhận yêu cầu đó. Như
vậy, những giao dịch được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu lực nếu khơng có
u cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình (Điều 128 BLDS 2015)
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền u cầu Tịa án tun
bố giao dịch dân sự đó là vơ hiệu. Ví dụ: trong khi say rượu A đã ký họp đồng với B bán
quyền sử dụng đất mà A đang sở hữu cho B với giá chì bằng 1/2 giá thị trường tại thời
điêm đó. Trong trường họp này, giao dịch vô hiệu do tại thời điểm xác lập giao dịch, A
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. 5
Tóm lại, các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là một thể thống nhất
trong mối quan hệ biện chứng. Bởi vậy, xem xét một giao dịch phải đặt nó trong tổng
thể cua mối quan hệ biện chứng này. Nếu giao dịch vô hiệu từng phần mà không ảnh
hưởng đến các phần khác thì chỉ phần vơ hiệu khơng có hiệu lực, các phần cịn lại vẫn
có hiệu lực thi hành.
1.1.4.

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự bị vô hiệu

- Không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dãn sự

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 131 BLDS.
Khoản 1 Điều 131 là quy định có tính ngun tắc chung cho việc xử lý hậu quả của giao
dịch vơ hiệu, đó là: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập ”.
5 Nguyền Vãn Điền, “Giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định cua Bộ Luật Dân Sự 2015”,xem tại:
truy cập ngày 28 tháng 06 năm
2020


Như vậy, khi hợp đồng vơ hiệu là mọi thóa thuận coi như khơng có, khác với trường họp
“chấm dứt họp đồng” là trường hợp trước thời điếm chấm dứt hợp đồng thì hợp đồng có
hiệu lực, các thỏa thuận của các bên vẫn có giá trị bắt buộc với các bên đến khi chấm
dứt hợp đồng, việc thi hành đúng hợp đồng trước thời điểm chấm dứt họp đồng phải
được tơn trọng.
- Khơi phục tình trạng ban đầu
Khoản 2 Điều 131 BLDS quy định: “Khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên
khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận ...Trường họp
khơng thê hồn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền đê hoàn trả ”. Theo quy
định của khoản 2 này thì việc trả lại hiện vật là ưu tiên, khơng thể trả bằng hiện vật thì
mới trả tiền. Trong thực tế, nhiều khi tài sản khơng cịn ngun vẹn như khi giao nhưng
tài sản chính vẫn cịn thì vẫn phải trả, phải nhận, được bồ sung bằng việc thanh tốn cho
nhau những chi phí hợp lý. Đó là hướng xử lý phù hợp với nguyên tắc quy định ở khoản
1 Điều 131 BLDS.
- Vấn đề hoa lợi, lợi tức
Khoán 3 Điêu 131 BLDS quy định: “Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi
tức khơng phủi hồn trả lại hoa lợi, lợi tức đó ”. Đây là một quy định mới so với BLDS
năm 2005. Khái niệm hoa lợi, lợi tức được quy định tại Điều 109 BLDS 2015. Cần lưu ý
phân biệt lợi tức là “khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản” với giá trị tăng thêm
của tài sản do thị trường.
Vi dụ: A bán một ngôi nhà cho B. B nhận nhà và trả đu tiền mua nhà 5 tỷ đồng. B

cho thuê nhà trong một năm được 150 triệu đồng. Sau một năm, A và B xác định họp
đồng mua bán nhà vô hiệu, giá nhà tăng lên là 7 tỷ đồng. Như vậy, lợi tức mà B được
hưởng khi giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là 150 triệu đồng chứ không phải là
chênh lệch giá nhà 2 tỷ đồng.
- Vân đê bôi thường thiệt hại
Khoản 4 Điều 131 Bộ Luật Dân Sự quy định: “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải
bồi thường”.
+ Việc xác định lồi được hướng dần cụ thể trong Nghị quyết 01/2003/NQHĐTP ngày 16/4/2003 cúa Hội đồng Thẩm phán toà án nhân dân tối cao. Lồi được xác
định là lỗi làm cho họp đồng vô hiệu chứ không phải là lồi vi phạm họp đồng vì khi giao


dịch dân sự vơ hiệu thì mọi thỏa thuận trong họp đồng là khơng có giá trị pháp lý đế
ràng buộc nhau, nên không thế xác định lỗi căn cứ vào những nội dung đã thỏa thuận
trong hợp đồng. Lồi theo Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP thì có thể lồi của một bên hoặc
lồi của hai bên, tuỳ việc xác định lồi của ai mà giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại.
+ Việc xác định thiệt hại cũng được xác định theo điếm c tiều mục 2.4 mục 2
Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP, cụ thể: ngoài giá trị phải hoàn trả, các chi phí sửa chừa
làm tăng giá trị tài sản, thì khi các bên trong giao dịch vơ hiệu “khơng có đặt cọc vù
khơng có thỏa thuận khác ... thì thiệt hại cịn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá ... .
Ví dụ: M trúng đấu giá một lô đất. Tuy M chưa trả tiền, chưa được giao đất, chưa
được cấp giấy chứng nhận nhưng ngày 15/01/2017 đã lập hợp đồng chuyển nhượng đất
cho N với giá 5 tỷ đồng. Hợp đồng có điều khoản quy định N phải giao cho M 3 tỷ vào
ngày 30/01/2017 và trả nôt 2 tỷ vào 30/6/2017. Thực tê, ngày 15/2/2017, N mới giao cho
M 3 tỷ đồng và đến 30/9/2017 mới giao cho M đủ 5 tỷ đồng. M cho rằng N đã vi phạm
họp đồng, giá đất đã tăng, nên yêu cầu trả thêm tiền. N không đồng ý trả thêm tiền. Đen
15/01/2019, N khởi kiện, yêu cầu tuyên bố hợp đồng ngày 15/01/2017 vô hiệu, buộc M
trả lại 5 tỷ đồng và bồi thường toàn bộ chênh lệch giá (giá đất ở thời điểm năm 2019 là 9
tỷ đồng). M đồng ý tuyên bố họp đồng vô hiệu nhưng không đồng ý bồi thường thiệt hại
vì cho rằng N có lồi vi phạm họp đồng về thời gian trả tiền nên làm phát sinh tranh chấp.
Đây là trường hợp hợp đồng vô hiệu do bên chuyến nhượng (M) chưa phải là chủ

sử dụng đất họp pháp nên vi phạm là vi phạm về nội dung họp đồng. Trường họp này, cả
bên chuyển nhượng (M) và bên nhận chuyển nhượng (N) đều có lồi làm cho hợp đồng
vơ hiệu. Vì hợp đồng vơ hiệu nên việc N trả tiền chậm cũng không bị coi là có lỗi; N có
trả tiền đúng hẹn thì họp đồng vẫn vơ hiệu. Do đó, M khơng thể lấy cớ N vi phạm hợp
đồng để từ chối bồi thường. Ngược lại, N cũng biết rõ M chưa đù điều kiện là chủ sử
dụng hợp pháp mà vẫn ký họp đồng với M nên N cũng có lồi ngang với lồi cùa M. Vì
vậy, N chỉ được trả lại tiền đã giao (5 tỷ đồng) và một nửa chênh lệch giá về quyền sử
dụng đất (2 tỷ đồng).6
1.1.5.

Thời hiệu tuyên bố giao dịch dãn sự vô hiệu

Theo quy định cúa điểm c khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 thì các giao dịch được
6 Chu Xuãn Minh, “Tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giái quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu”, xem
tại: />

xác lập trước ngày BLDS này có hiệu lực thì “Thời hiệu được áp dụng theo quy định
của Bộ luật này”. Vì vậy, đối với việc xác định thời hiệu u cầu tun bố vơ hiệu thì
khơng phải áp dụng pháp luật ở thời điểm xác lập mà được áp dụng quy định về thời
hiệu của BLDS 2015 để giải quyểt.
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại
Điều 132 BLDS 2015, trong đó có một quy định mới rất quan trọng là: “Hết thời hiệu
quy định tại khoản 1 Điều này mà khơng có u cầu tun bố giao dịch dân sự vơ hiệu
thì giao dịch dân sự có hiệu lực Như vậy,giao dịch dân sự vi phạm một trong năm
trường hợp được xác định tại khoản 1 Điều 132 BLDS 2015 thì có thời hiệu u câu Tồ
án tun bô giao dịch vô hiệu là 02 năm kê từ ngày biêt hoặc phải biết về những hành vi
vi phạm trong việc xác lập giao dịch. Hết thời hạn 02 năm kể từ ngày biết hoặc buộc
phải biết có hành vi vi phạm trong việc xác lập giao dịch dân sự, mà bên có quyền hoặc
nguời đại diện họp pháp của bên có quyền bị xâm phạm, mà khơng u cầu Tồ án tun
bố giao dịch dân sự vơ hiệu thì mất quyền khởi kiện. Hết thời hạn 02 năm luật quy định

thì giao dịch dân sự có hiệu lực. Quy định này nhằm bảo đảm cho quyền tự định đoạt
cúa chú thể tham gia giao dịch dân sụ là khởi kiện hoặc khơng khởi kiện để u cầu Tồ
án tuyên bố giao dịch dân sụ vô hiệu trong trường hợp giao dịch được xác lập trái ý trí
của mình.
Đối với những giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội quy
định tại Điều 123 BLDS; và giao dịch do giả tạo quy định tại Điều 124 BLDS thì thời
hạn tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.
Những giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật như vi phạm về điều kiện, đối
tượng, vi phạm về mục đích, vi phạm về nội dung và trái đạo đức xã hội; những giao
dịch giả tạo thì khơng hạn chế về thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vơ
hiệu, nên trên thực tế có những giao dịch mặc dù đã xảy ra gần chục năm nhưng các bên
vẫn có thể khởi kiện và được giải quyết.
BLDS năm 2015 đã có cách tiếp cận rất mới, tạo điều kiện thuận lợi, thơng
thống hơn, ổn định hơn trong giao lưu dân sự, thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sản
xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hạn chế sự khơng thiện chí của các bên
trong giao dịch dân sự. Đồng thời việc quy định rõ các trường họp giao dịch dân sự vô
hiệu và hậu quả pháp lý của các giao dịch dân sự vơ hiệu góp phần đảm bảo hiệu quả
thực thi của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan.


1.2.

Khái quát về bảo vệ quyền lọi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch

dân sự vơ hiệu.
1.2.1.

Khái niệm về người thứ ba ngay tình.

Giao dịch dân sự là cơng cụ hữu hiệu để các chủ thể tìm kiếm và trao đồi lợi ích

với nhau. Nhưng thực tế cho thấy, đôi khi chủ thế đã xác lập, thực hiện một giao dịch
dân sự nhưng lại không đạt được lợi ích mà mình mong muốn mặc dù họ hồn tồn
thiện chí, ngay thẳng khi tham gia giao dịch. Nguyên nhân nằm ở chỗ, đã có một giao
dịch dân sự vơ hiệu xảy ra và quyên lợi của họ bị đôi kháng với quyên lợi của một chủ
thể khác, đó là chủ sở hừu đích thực của tài sản, pháp luật gọi các chủ thể này là người
thứ ba ngay tình. Đổ tìm hiểu quy định của việc bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình
khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì cần phái hiếu rõ thế nào là người thứ ba ngay tình. Qua
xem xét quy định của điều 133 Bộ Luật Dân Sự 2015 thì Điều 133 có tên gọi như sau:
“Bảo vệ quyền lọi của người thứ ha ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu”, vậy
những chủ thế nào là “người thứ ba” và từ mối quan hệ nào mà phát sinh, hình thành ra
chủ thế này, để cụ thế chúng ta có thế hình dung qua sơ đồ và ví dụ như sau:
Giao dịch 1

Giao dịch 2

Chủ sở hữu tài sản ban đầu----------►Người trung gian------► Người thứ ba ngay tình
Ví dụ: A là chú sở hữu tài sán ban đầu, xác lập với B (người trung gian) giao
dịch 1 nhưng giao dịch này vơ hiệu. Sau đó B xác lập giao dịch 2 họp pháp với c thì
trong trường họp này c được xác định là “người thứ ba”. Như vậy tài sản được giao dịch
trải qua một chuồi giao dịch gồm hai giao dịch liên tiếp nhau đối với tài sản đó, giao
dịch thứ nhất vô hiệu, giao dịch thứ hai họp pháp và chủ thế cuối cùng trong giao dịch
thứ hai được coi là “người thứ ba”.
Bộ Luật Dân Sự năm 2015 sử dụng thuật ngữ “người” thứ ba ngay tình, vậy cần
xác định nội hàm của thuật ngừ “người ” trong trường họp này là những chủ thể nào.
Chù thể tham gia giao dịch dân sự tại BLDS 2005 nhắc đến là “người ”, cụ thể ở điếm a
khoản 1 Điều 122 “người tham gia giao dịch dân sự”. Điều luật cũ dùng thuật ngữ
“người” nên cách hiếu để áp dụng quy định bảo vệ người thứ ba ngay tình của Bộ luật
dân sự 2005 thường xảy ra nhiều tranh cãi, vì pháp nhân, hộ gia đình khơng phải là
“người”. Do vậy, mà BLDS năm 2015 khi sửa đổi đã thay thế thuật ngữ “người” này
thành thuật ngữ “Chủ thể”, cụ thể ở điểm a và b khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 quy định



“ Chủ thề tham gia giao dịch dân sự” mà chủ thể thì nghĩa sẽ rộng hơn, có thể là cá
nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tồ hợp tác.
Bên cạnh việc đã xác định được chủ thể nào được coi là người thứ ba, thì cần
làm rõ nội hàm thế nào là “ngay tình”. Theo Từ điển Luật học: “Ngay tình là lịng ngay
thẳng, thực thà, tình thế rõ ràng. ”7 Theo Từ điến giải thích thuật ngữ luật học thì nguời
thứ ba ngay tình khi tham gia giao dịch vô hiệu được hiểu là “người được chuyển giao
tài sản thông qua giao dịch dãn sự mà họ không biết, khơng buộc phải biết là tài sản đó
do người chun giao cho họ thu được từ một giao dịch vô hiệu. ”8
Ngồi các thuật ngữ nói trên, thì Bộ Luật Dân Sự 2015 cũng có đề cập đến ngay
tình, nhưng chỉ dừng lại ở định nghĩa cụ thể tại Điều 180 của BLDS năm 2015 quy định:
“Chiếm hữu ngay tình được hiểu là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để
tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu ” và Điều 181 của BLDS năm
2015 quy định “Chiếm hữu khơng ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết
hoặc phải biết rằng mình khơng có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu Ngồi nội hàm
“ngay tình” được nêu trong các khái niệm nêu trên thì pháp luật dân sự hiện hành cũng
khơng có một quy định cụ thề nào khác đế nói về người thứ ba ngay tình là như thế nào,
do đó cách hiểu ngay tình khi áp dụng cho từng vụ việc cụ thể, thì phần lớn đều căn cứ
vào cách giải thích từ ngừ mà một số từ điển Luật học đã giải thích như trên, đây cũng là
cách hiểu mà tại các buổi tập huấn chuyên đề về rút kinh nghiệm các sai sót trong xét xử
(trong đó có các vụ án liên quan đến người thứ ba ngay tình) thì Tồ án nhân dân tối cao
cũng vận dụng theo các định nghĩa này để giải thích nghiệp vụ cho các thẩm phán của
Tồ án.
Nhìn chung, mặc dù pháp luật chưa có định nghĩa chi tiết về khái niệm người thứ
ba ngay tình, tuy nhiên thơng qua chuyên đề về rút kinh nghiệm các sai sót trong xét xứ
của Tồ án nhân dân tối cao thì có thể hiểu như sau: người thứ ba ngay tình là người
tham gia giao dịch trên cơ sở ngay thắng, thực thà và rõ ràng, tại thời điếm tham gia
giao dịch dãn sự người này khơng có cơ sở đế biết việc giao dịch của mình là giao
dịch với người khơng có quyền định đoạt tài san hoặc đối tượng tài sản của giao dịch

liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vơ hiệu, tại thời điếm khi tham gia vào giao
dịch dãn sự người thú' ba ngay tình hồn tồn tin rằng người giao dịch với mình là
7 Viện Khoa Học Pháp Lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điên Bách khoa - Tư pháp, Hà nội, tr.55O
8 Trường đại học Luật Hà Nội (1995), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội,
Tr.95


người có quyền giao dịch và đối tượng tài sản giao dịch đáp ứng các điều kiện đế
giao dịch dãn sự có hiệu lực, từ đó người ngay tình hồn tồn khơng có lỗi khi tham
gia vào giao dịch? Vì vậy, pháp luật dân sự đưa ra biện pháp bảo vệ quyền lợi của người
thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu là nhằm bảo vệ tổt nhất quyền lợi cho
người thứ ba ngay tình đã giao dịch họp pháp vì giao dịch dân sự vơ hiệu không do lồi
của người thứ ba.
1.2.2.

Điều kiện dế bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình khi giao dịch dãn

sự bị vơ hiệu
Đe có thế áp dụng quy định bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tinh khi giao
dịch dân sự vơ hiệu thì cần thoả mãn một số điều kiện cần thiết sau đây:
• Giao dịch ban đầu bị vô hiệu
Khi người thứ ba tham gia vào giao dịch dân sự thì đã có một giao dịch dân sự
trước đó được xác lập, thực hiện nhưng giao dịch dân sự này bị vơ hiệu.
Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng mua bán nhà, nhưng thực chất giữa A và B là
quan hệ cho vay tài sản, các bên ký họp đồng mua bán nhà là để làm tin trong việc cho
vay. Tuy nhiên, sau đó B bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất này cho c và c đã hoàn
tất thủ tục đăng ký và hiện là người sử dụng họp pháp căn nhà. Thực chất, giao dịch giữa
A và B là giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, nhưng nhà đất đã đăng ký tên B và sau đó
được chuyển nhượng lại cho c, nên trước khi chuyển cho c thì đã tồn tại một giao dịch
dân sự vơ hiệu do giá tạo.

Như vậy, nếu khơng có một giao dịch dân sự ban đầu bị vơ hiệu thì sẽ khơng thể
áp dụng quy định của pháp luật về bảo vệ người thứ ba ngay tình được, vì quy định của
Điều 133 Bộ luật dân sự 2015 là “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao
dịch dãn sự vơ hiệu” do đó điều kiện đầu tiên đế áp dụng được quy định này là phải có
một giao dịch dân sự ban đầu bị vơ hiệu.
• Ý chí của người thứ ba phải ngay tình.
Nghĩa là, người thứ ba không biết hoặc không thế biết những giao dịch trước đó
bị vơ hiệu bởi bất cứ lý do nào, khi giao dịch họ có căn cứ tin rằng đối tượng và

s

Toà án nhân dân tối cao tố chức tập huấn trực tuyến về chuyên đề "Rút kinh nghiệm các sai sót trong q trình xét

xử các vụ án dân sự liên quan đến quyền sờ hữu", xem tại: htlps://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/rul-kinh- nghiem-nhung-


sai-sot-thuong-gap-trong-cac-vu-giai-quyet-an-dan-su-licn-quan-den-quyen-so-huu, truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2020

chủ thê giao dịch với mình đủ điêu kiện mà pháp luật quy định. Đê có thê chứng minh ý
chí là ngay tình thì cũng tuỳ vào từng loại tài sản:
- Thứ nhất: Đối với loại tài sản mà pháp luật không quy định phải đăng ký quyền sở
hữu như: Gia súc, gia cầm, vàng, điện thoại di động...thì pháp luật khơng bắt buộc
phải biết hành vi chiếm hừu cúa một người đang có các tài sàn này là hợp pháp hay
khơng, vì căn cứ Điều 184 Bộ Luật Dân Sự 2015 có quy định “người chiếm hữu tài
sản được suy đoản là ngay tình ” do đó, khơng có cơ sở để biết được người đang
chiếm hữu tài sản đó và chuyển giao tài sản cho người thứ ba có phải là chú sở hữu
đích thực cúa tài sản hay khơng khi mà họ đang thực tế nắm giữ tài sản và khắng
định tư cách sở hữu của họ đối với loại tài sản này, và quan hệ giao dịch của người
thứ ba đối với chủ thể này được thực hiện một cách công khai, minh bạch, tài sán
được chuyến giao theo đúng giá trị, nên ý chí của người thứ ba là ngay tình.

- Thứ hai: Đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, thì người
thứ ba khi xác lập giao dịch liên quan đến tài sản này, thì phải có trách nhiệm kiểm
tra thông tin về chủ thể đứng tên trên các giấy tờ đăng ký quyền sở hữu đối với tài
sản đó (có giấy chứng nhận đăng ký khơng,, tình trạng tài sản có đang tranh chấp
khơng...). Như trên đã phân tích, Bộ luật Dân sự 2015 khơng đưa ra định nghĩa chung
về sự “ngay tình” trong giao dịch dân sự, nhưng có thể hiểu sự ngay tình chính là
việc người thứ ba căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký nên mới tin rằng người
chuyển giao tài sản cho mình là người sở hữu hợp pháp cúa tài sản, và do đó họ mới
xác lập, thực hiện giao dịch nên ý chí của họ là ngay tình, thắng thắn, trung thực.
Có thể thấy, yếu tố ý chí của người thứ ba rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền
lợi cho họ. Ý chí của họ khi tham gia giao dịch được thực hiện với tinh thần thiện chí,
ngay thẳng, trang thực. Họ phải hồn tồn ngay tình để đúng với nội hàm “Ngay tình”
mà Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định, họ không biết và không thể biết rằng họ
tham gia vào giao dịch dân sự với người khơng có quyền định đoạt tài sản, họ tin tưởng
người đang xác lập giao dịch với mình là chủ sở hữu tài sản, là người có quyền. Vì vậy,
pháp luật đã quy định ra một số trường hợp mà khi xảy ra, xét thấy ý chí cùa người thứ
ba đúng là ngay tình thì giao dịch vẫn có hiệu lực và cơng nhận giao dịch cho họ, việc
bảo vệ người thứ ba ngay tình như vậy là cần thiết vì vốn dĩ ý chí của họ ngay thẳng và
khơng có lồi gì trong giao dịch, nên phải bảo vệ quyền lợi cho họ là phù hợp.


• Đối tượng của giao dịch dân sự
Để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình thì đối tượng trong giao dịch dân
sự phải là tài sản được phép giao dịch, căn cứ khoản 1 Điều 431 cúa Bộ Luật Dân Sự
2015 về Đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản thì “tói sản được quy định tại Bộ luật
này đều có thể là đối tượng của hợp đồng mua bủn. Trường họp theo quy định của luật,
tài sản bị cấm hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thì tài sản là đối tượng của hợp đồng
mua bán phải phù hợp với các quy định đó Như vậy có thể hiểu, tài sản được quy định
tại Điều 105 BLDS là tài sản được phép giao dịch, nếu tài sản bị pháp luật cấm hoặc hạn
chế thì khơng được giao dịch nếu khơng có đủ điều kiện mà pháp luật quy định cho phép

giao dịch.
Ngồi tính hợp pháp của loại tài được phép giao dịch và không bị pháp luật cấm,
thì quy định về bảo vệ quyền lợi cùa người thứ ba ngay tình tại Điều 133 BLDS 2015 có
chia đối tượng tài sản này thành hai trường họp tương ứng với các khoản 1 và 2 cùa
Điều 133 BLDS như sau:
- Thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ Luật Dân Sự 2015, giao dịch
bị vô hiệu và đối tượng tài sản bị vô hiệu này là tài sản không phải đăng ký quyền sở
hữu đã chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thơng qua một giao dịch dân sự thì giao
dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ hai trường hợp sau đây là khơng có hiệu lực:
+ Trường họp một: Giao dịch dân sự của người thứ ba khơng có hiệu lực, trong
trường hợp người này có được tài sản thơng qua hợp đồng khơng có đền bù với người
khơng có quyền định đoạt tài sản, trường họp này giao dịch của người thứ ba khơng có
hiệu lực, chủ sở hữu lấy lại tài sản.
+ Trường họp hai: Giao dịch dân sự của người thứ ba khơng có hiệu lực, trong
trường hợp người này có được tài sán là động sản thơng qua hợp đồng có đền bù, nhưng
động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc bị chiếm hữu ngồi ý chí của chủ sở hữu.
- Thứ hai, theo quy định tại khoản 2 Điêu 133 Bộ Luật Dân Sự 2015, giao dịch
bị vơ hiệu có đối tượng là tài sản đã đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan có thẩm quyền,
thì người thứ ba ngay tình sẽ được bảo vệ trong ba trường hợp sau:
+ Một là: Giao dịch bị tuyên vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, sau đó tài sản này được chuyến giao cho người thứ ba bằng
một giao dịch khác, và người thứ ba căn cứ vào việc tài sản này đã được đăng ký mà xác


lập giao dịch, thì giao dịch với người thứ ba không bị vô hiệu.
+ Hai là: Giao dịch bị tuyên vơ hiệu và đối tượng của giao dịch đó là tài sản phải
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng chưa được đăng ký, thì giao dịch
với người thứ ba có đối tượng là tài sản này bị vô hiệu. Trong trường hợp này, giao dịch
của người thứ ba khơng có hiệu lực.
+ Ba là: Giao dịch dân sự bị vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản đã

chuyển giao cho người thứ ba ngay tình và người thứ ba nhận được tài sản này thơng
qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ
thể này không phải là chú sở hữu tài sàn do bản án, quyết định bị huỷ, sửa thì giao dịch
với người thứ ba vẫn có hiệu lực.
Có thế thấy, để áp dụng được quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình, bên cạnh sự tồn tại trước đó của một giao dịch dân sự vơ hiệu và một ý chí
ngay tình thì quyền lợi của họ chưa đủ điều kiện để được bảo vệ ngay, mà còn phải tuỳ
thuộc vào đối tượng cúa loại tài sản mà người thứ ba đã xác lập giao dịch rơi vào trường
hợp nào, thì khi đó mới có thể nhận định được họ có ngay tình hay khơng, có đủ điều
kiện để bảo vệ hay khơng, thì mới có hướng bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
một cách tốt nhất được.
1.2.3.

Quyền lợi của người thứ ha ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

Qua nghiên cứu quy định pháp luật, thì khi giao dịch dân sự vơ hiệu quyền lợi
của người thứ ba ngay tình sẽ được bảo vệ như sau:
Thứ nhất, trường hợp chủ sở hữu được đòi lại tài sàn theo các điều kiện luật
định tại các Điều 167 và Điều 168 Bộ Luật Dân Sự năm 2015 thì lúc này, người thứ ba
ngay tình phải trả lại tài sản mà mình đang chiếm giữ cho chủ sở hữu đích thực của tài
sản và lợi ích của người thứ ba sẽ được pháp luật bảo hộ dưới các góc độ sau:
- Được u cầu địi bồi thường thiệt hại (giá trị đòi bồi thường là giá trị của giao dịch
mà họ đã xác lập và các thiệt hại khác nếu có như hệ số trượt giá của tài sản...) từ
người đã trực tiếp chuyển giao tài sản cho mình.
- Được hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản kế từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu
đến thời điếm phải hoàn trả tài sán cho chú sở hữu.
- Được thanh tốn những chi phí đã bỏ ra đề làm tăng giá trị cho tài sản



Thứ hai, chủ sở hữu tài sán sẽ khơng có quyền kiện địi tài sản của người thứ ba
ngay tình trong các trường hợp gồm:
+ Trường hợp thứ nhất: khi chủ sở hữu không đáp ứng được các điều kiện về đòi
tài sản được quy định tại Điều 167 (giao dịch tài sản và có đền bù) và Điều 168 Bộ Luật
Dân Sự năm 2015 (các trường hợp loại trà của Điều 133 Bộ Luật Dân Sự năm 2015).
Đặc biệt, quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ Luật Dân Sự năm 2015 đã dành một thái độ
tôn trọng tuyệt đối hon cho người thứ ba ngay tình khi quy định: “....3. Chủ sở hữu
khơng có quyền địi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với
người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi
kiện, yêu cầu chù thê có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải
hoàn trả những chi phỉ họp lý và bồi thường thiệt hại. ”Như vậy, so với quy định cũ của
Bộ Luật Dân Sự năm 2005, thì quy định mới đã khẳng định rõ luôn, là nếu giao dịch của
người thứ ba không bị vơ hiệu theo khốn 2 mà Điều 133 BLDS quy định, thì chủ sở
hữu khơng có quyền địi lại tài sản cùa người thứ ba ngay tình, đây là phương thức bảo
vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình tốt nhất hiện nay, góp phần ổn định trật tự xã
hội và cho các giao dịch dân sự hợp pháp, đã tuân thù đủ điều kiện cua một giao dịch
dân sự thì phái được bào vệ là hồn tồn hợp lý.
+ Trường hợp thứ hai: Chú sở hữu không được địi lại tài sản từ người chiếm
hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình khi người này đã được xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu được quy định tại Điều 236 Bộ Luật Dân Sự năm 2015. Quyền lợi
của người thứ ba ngay tình được bảo vệ và trong trường hợp này là được công nhận là
chú sở hữu hợp pháp đối với tài sản mà mình đang chiếm hữu. Đây là phương thức bảo
vệ lợi ích của người thứ ba ngay tình ưu việt nhât và có tính khả thi hơn so với cách thức
địi bồi thường thiệt hại như đã phân tích ở trên.
Xét dưới góc độ bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình, chúng ta thấy việc
trả lại tài sản và yêu cầu bồi thường hay là được giữ lại tài sản thì quyền lợi của người
thứ ba ngay tình đều được bảo vệ, Nhưng nếu xét về mức độ báo vệ mong muốn chung,
thì nếu họ được sở hữu tài sản đang có tranh chấp sẽ là biện pháp bảo vệ quyền lợi tối
ưu nhất.
1.2.4.


Sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khỉ giao dịch

dãn sự vơ hiệu.
•••


×