Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Bảo hộ nhãn hiệu dưới góc độ pháp luật so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.22 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUOC GIA THANH PHO HO CHI MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN PHƯƠNG QUỲNH CHI

BÃO Hộ NHÃN HIỆU DƯỚI GÓC Độ
PHÁP LUẬT SO SÁNH

Chuyên ngành; Luật Kinh tê
Mã số: 8380107

LUẬN VÀN THẠC sĩ LUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẢN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐIỆN

TP. HỊ CHÍ MINH - NÃM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện. Các nội dung nghiên cứu và số liệu được trình
bày là trung thực và rõ ràng. Những số liệu và thông tin được sử dụng để phân tích, nhận
xét, đánh giá đước tác giả thu thập từ nhiều nguồn khác nhau và có ghi rõ trong phần tài
liệu tham khảo. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng nhận xét, đánh giá của các tác giả khác
đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc theo quy định.
TÁC GIẢ

Nguyên Phuong Quỳnh Chi


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CPTPP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương

SHCN

Sở hữu cơng nghiệp

SHTT

Sở hữu trí t


TPP
TRIPS

Hiệp định Đối tác xun Thái Bình Dương
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí t


WIPO
Bơ KH&CN

USPTO
CTM

Tổ chức Sở hữu tri tuệ thế giới
Bộ Khoa học và Công nghệ
Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Mỹ

Nhãn hiệu cộng đồng

EUTM

Nhãn hiêu Liên minh Châu Âu


OHIM

Cơ quan Hài hịa hóa thị trường nội khối Châu Âu

EUIPO

Cơ quan Sở hữu trí tuệ Liên minh Châu Âu


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẤT
MỤC LỤC

Trang


1.1.1.......................................................................................................................


1.1.2.
cúa


Quy định về khả năng phân biệt và tính tương tự đến mức gây nhầm lẫn

TÀI LIỆU THAM KHẢO


7

LỜI MỎ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, chính sách bảo hộ quyền sở

hữu trí tuệ được xem như một phần khơng thể thiếu và góp phần quan trọng trong việc
tạo ra mơi trường cạnh tranh lành mạnh. Chính vì nhận ra được giá trị to lớn cũng như
tầm quan trọng cúa tài sản sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế, pháp luật các quốc gia trên
thế giới đã rất chú trọng trong việc xây dựng và ban hành các quy phạm về bảo vệ các
đối tượng thuộc tài sản sở hữu trí tuệ. Trong đó, các quy phạm về bảo hộ quyền đổi với
nhãn hiệu được xây dựng khá cơng phu và chi tiết, vì đây được xem như đối tượng dễ
dàng bị xâm phạm nhất và thực tiễn cho thấy có rất nhiều hành vi xâm phạm quyền liên
quan đến đối tượng này. Với lịch sử phát triển về mặt kỳ thuật lập pháp cũng như áp
dụng đa dạng các cách thức xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đổi với
nhãn hiệu trên thực tế, pháp luật về xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn
hiệu của các nước trên thế giới đặt ra nhiều vấn đề pháp lý vô cùng phong phú và đa
dạng nhưng cũng không kém phần phức tạp. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc sự phát
triển về mặt kỳ thuật lập pháp của các quốc gia phát triển, pháp luật Việt Nam cũng đã
xây dựng cho riêng mình một hệ thống các quy phạm pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ đối với nhãn hiệu. Đồng thời pháp luật Việt Nam cũng đưa ra nhiều biện pháp xử lý
đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đổi với nhãn hiệu nhằm thực
thi chính sách bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp đối với nhãn hiệu nhằm thực thi chính

sách báo hộ quyền sở hữu trí tuệ như đã cam kết trong lộ trình mở cửa nền kinh tế khi
tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận một thực tế rất rõ ràng rằng những quy định của
pháp luật về sở hữu trí tuệ hiện nay của Việt Nam vẫn chưa đầy đủ và thống nhất để giải
quyết những vấn đề pháp lý đặt ra đối với thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu tại Việt Nam. Mặt khác, xuất phát từ sự hạn chế trong năng lực
giải quyết các vụ việc, việc áp dụng các quy định pháp luật của các cơ quan nhà nước có
thâm quyên đê xử lý hành vi xâm phạm quyên chưa thật sự chính xác và thuyết phục


8

được các bên liên quan và các chuyên gia quan tâm đến vụ việc. Điển hình như vụ việc
“Hình cốc đỏ” giữa Công ty Gold Roat Việt Nam và Công ty Nestle1, nhãn hiệu gạo
ST24 và ST 252. Đây là vụ việc đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tham gia
giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau như biện pháp dân sự, biện pháp hành chính.
Tuy nhiên, kết quả giải quyết vẫn còn nhiều điềm gây tranh cãi. Chính vì vậy, từ các lý
do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo hộ nhãn hiệu dưới góc độ pháp luật so sánh" để
mong muốn rằng đề tài sẽ là tài liệu hữu ích cho việc đưa ra cái nhìn khái quát, thực tế
hơn các vấn đề về việc bảo hộ nhãn hiệu ở nước ta hiện nay cũng như góp phần hồn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng thống nhất, phù hợp hon với pháp luật
quốc tế.
2.

Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vẩn đề đối chiếu và phân tích các khía cạnh về bảo hộ nhãn hiệu

theo quy định của pháp luật Việt Nam với các thỏa thuận trong các điều ước quốc tế,
Tác giả đã nghiên cứu các bài báo khoa học được đăng trong hội thảo khoa học quốc tế
“Sở hữu trí tuệ và thương mại: Luật và kinh nghiệm thực thi" tại Trường Đại học Kinh

tế - Luật ngày 07/12/2016, trong đó:
- “Cơ chế điều chinh về nhãn hiệu theo tinh thần Hiệp định đối tác xuyên Thái
Binh Dương (TPP)” của Nguyễn Trường Ngọc, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Như tên gọi, bài viết này phân tích rất rõ cơ chế bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trong TPP. Đây là một nguồn quan trọng để
tác giả tiếp thu trong quá trình thực hiện luận văn. Tuy nhiên, bài viêt này dừng lại ở
việc nghiên cứu quy định trong TPP chứ chưa có sự so sánh pháp luật giữa nhiều hệ
thống pháp luật như phạm vi nghiên cứu trong luận văn của tác giả.
- Các bài viết “Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định hành vi xâm phạm quyền đối
với nhãn hiệu qua một số vụ tranh chấp” của Dương Anh Son và Nguyễn Hải An;
1

Quyết định xử phạt:653/QĐ-XPHC cùa Chủ tịch ƯBND tinh Bình Dương ngày 06/03/2008 về Xâm

phạm nhãn hiệu"Gold Roast&Hình cốc đo"(Bình Dương)
2N.An - N.Hiên, Gạo ST24, ST25 bị đăng ký nhàn hiệu ở úc, Việt Nam triển khai biện pháp khẩn cấp,
truy cập ngày 04/5/2021


9

“Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật hình sự thực trạng và một vài khuyến
nghị” của Viên Thế Giang, Trường Đại học Luật, Đại học Huế. Các tác giả trên đã
phân tích rất chi tiết về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu và
những chế tài dân sự, hành chính, hình sự có thể áp dụng đối với hành vi này. Đây là
những nghiên cứu quan trọng giúp tác giả thấy được thực trạng và thực tiễn pháp
luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu, từ đó so sánh với các quy định trong luật pháp
quốc tế để có được những kiến nghị phù hợp cho Việt Nam.
- “Improving the legal framwork to protect unregisted trademarks in comparison with
the trademark law in the United States” của Trần Đức Tuấn, Trường Đại học Kinh tế

- Luật. Bài viết này giúp tác giả có thêm thơng tin về các quy định bảo hộ nhãn hiệu
trong pháp luật Hoa Kỳ. Tuy nhiên, luận văn có phạm vi nghiên cứu rộng hơn rất
nhiều so với bài viết trên
Bên cạnh đó, tác giả cịn tham khảo trong một số bài báo khoa học khác như:
- Các bài viết “Chuyến hướng trong bảo hộ quốc tế đối với quyền sở hữu trí tuệ” của
Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2015), Tạp chí Khoa học Đại Học Quốc Gia Hà Nội: Luật
học, Tập 31, số 1, tr. 50-61; “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hiệp định TRIPS,
TRIPS cộng và ACTA”, của Nguyễn Thị Hải Vân đăng trên Tạp chí Khoa học pháp
lý số 1/2012 cua trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Hai bài viết này có
sự tương đồng về phạm vi nghiên cứu đối với luận văn. Theo đó, các bài viết nghiên
cứu việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ dưới góc độ pháp luật quốc tế và so sánh. Tuy
nhiên, các bài viết trên nghiên cứu về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và chỉ dừng lại
ở một số quy định pháp luật của các tổ chức chứ chưa có cái nhìn cụ thể về pháp luật
của một số quốc gia trên thế giới. Trong khi đó, luận văn của tác giả sẽ chỉ đi sâu vào
phân tích vân đê bảo hộ nhãn hiệu, đơng thời tác giả sẽ có cái nhìn đa chiều hơn
thông qua việc tiếp cận pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu ở nhiều quốc gia và khu vực
trên thể giới để có kiến nghị phù hợp cho Việt Nam.
Ngồi ra, tác giả cũng đã tìm hiểu và nghiên cứu nội dung cúa một số luận văn và
luận án sau để làm tài liệu cho bài luận văn của mình. Cụ thể: Hồ Mai Huy (2013), “Bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu”, luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại


10

học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Hà Thị Nguyệt Thu
(2017), “Hồn thiện pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu tại Việt Nam”, luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh; Nguyền Thị Lan Anh (2012), “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu theo pháp luật nước ngoài”, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Các luận văn và luận án nêu trên phân tích khá tồn diện vấn đề bảo hộ nhãn hiệu

và là nguồn tư liệu quan trọng đề tác giả phân tích các vấn đề lý luận trong luận văn của
mình. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của các cơng trình trên cũng hạn chế hơn so với
luận văn này, đồng thời một số quy định mà các tác giả trên dùng đế phân tích đã được
sửa đối năm 2019. Do đó, luận văn đã kế thừa và phát triển các nội dung liên quan của
các tài liệu trên. Đồng thời, từ việc phân tích, đánh giá thực trạng của việc bảo hộ nhãn
hiệu tại Việt Nam hiện nay và phân tích các quy định cua các quốc gia, tác giả sẽ đưa ra
các kiến nghị thiết thực và phù hợp nhất góp phần hồn thiện vấn đề nghiên cứu trên cả
hai phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng.
3.

Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Từ việc phân tích các quy định cua pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ nhãn

hiệu cùng với việc dần chiếu các quy định liên quan trong các điều ước quốc tế, hiệp
định thương mại tự do và pháp luật của một số quốc gia, khu vực về bảo hộ nhãn hiệu,
tác giả sẽ đưa ra cái nhìn khái quát nhất về nhãn hiệu, bảo hộ nhãn hiệu. Đồng thời dựa
trên những phân tích, đánh giá việc bảo hộ nhãn hiệu trên thực tế, tác giả sẽ đưa ra các
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam, giúp pháp luật vê bảo hộ
nhãn hiệu tại Việt Nam được thơng nhât, hồn thiện và phù hợp với luật pháp quốc tế,
hướng tới việc tăng cường hiệu quả bảo hộ nhãn hiệu ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó,
đề tài chi đề cập đến các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu thông thường mà không trình
bày những nội dung liên quan đến nhãn hiệu nối tiếng.
4.

Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, tác giá sứ dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Trong

đó, phương pháp lịch sử đã được tận dụng để làm rõ các quan điểm khác nhau về nhãn



11

hiệu, nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu cũng như quá trình hình
thành và phát triển của các điều ước quốc tế hiệp định thương mại tự do. Song hành với
đó, tác giả áp dụng phương pháp phân tích, so sánh để đối chiếu các quy định về bảo hộ
nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành với các quy định trong các
điều ước quốc tế, hiệp định thương mại tự do và pháp luật của một số quốc gia, khu vực
để thấy được sự tương đồng và khác biệt đối với việc bảo hộ nhãn hiệu theo quy định
của pháp luật Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. Sau cùng, tác giả áp dụng
phương pháp tổng hợp những nội dung trình bày để đưa ra nhưng kết luận cũng như
kiến nghị các biện pháp cho đề tài.
5.

Kết quả nghiên cứu dự kiến
Với mong muốn từ những hàm lượng thơng tin khoa học trong luận văn sẽ góp

một phần nào đó để hồn thiện hơn các quy định pháp luật Việt Nam nói chung và pháp
luật SHTT về bảo hộ nhãn hiệu nói riêng với các quy định của các hiệp định thương mại
tự do và pháp luật của một số quốc gia, khu vực trong việc tạo ra con đường pháp lý
thống nhất, dề dàng hơn cho các chủ thể khi tham gia cũng như đề xuất các biện pháp
nhằm tăng cường công tác bảo hộ nhãn hiệu ở nước ta hiện nay.
6.

Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 2 chương:
Chuơng 1. Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam


12


•>

1.1.

Khái niệm, đặc điêm, chức năng, phân biệt nhãn hiệu

1.2.

Bảo hộ nhãn hiệu
Chưong 2. Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật một sô quôc gia nghiệm cho à kinh

Việt Nam.
2.1.

Pháp luật các quốc gia về bảo hộ nhãn hiệu

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu


CHƯƠNG 1
BẢO Hộ NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1.

Khái niệm, đặc điếm, chức năng và phân loại nhãn hiệu

1.1.1.

Khái niệm nhãn hiệu

Nhãn hiệu là một trong những đối tượng sở hữu công nghiệp phổ biến nhất trong

cuộc sống được sử dụng nhằm cá thể hoá một loại hàng hoá, một dịch vụ cụ thể giúp
người tiêu dùng phân biệt được hàng hoá, dịch vụ cùng loại. Đồng thời, qua đó thơng tin
cho người tiêu dùng biết được về sản phấm đó 3. Nhãn hiệu thế hiện lối bán hàng khiến
người mua lựa chọn những gì mà chính họ muốn hoặc những gì dẫn dắt họ để họ tin
rằng đó là thứ họ muốn. Chủ sở hữu nhãn hiệu khai thác thiên hướng này của con người
bằng cách cố gắng hết sức để truyền vào nhãn hiệu những hình vẽ hoặc biếu tượng riêng
và đặc biệt cho nhãn hiệu của họ4.
Theo từ điển Oxford, nhãn hiệu là một tên gọi, ký hiệu hoặc thiết kế mà một
công ty sử dụng cho sản phẩm của họ và không được các chủ thể khác sử dụng. 5 còn
trong từ điển luật học, nhãn hiệu là một từ, cụm từ, logo hoặc ký hiệu được sử dụng bởi
người sản xuất hoặc người bán để phân biệt hàng hóa cùa họ với hàng hóa của những
người khác. Vai trị chính của một nhãn hiệu là để nhận biết nguồn gốc của nhãn hiệu
hoặc dịch vụ.6
Trong lịch sử, khái niệm nhãn hiệu đã được sử dụng ở Anh năm 1777 và sau đó
lan rộng trên nhiều nước châu Âu7. Ngày nay pháp luật sở hữu trí tuệ của các nước nói
3Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ, trang 272
4Cohen, D. (Ì986). Trademark Strategy. Journal of Marketing, 50(1), trang 61. Nguyên văn: A
trademark is a merchandising short-cut which induces a purchaser to select what he wants, or what he has been
led to believe he wants. The owner of the mark exploits this human propensity by making every effort to
impregnate the atmosphere of the mark with the drawing power of a congenial symbol
5Hornby, A. s., & Cowie, A. p. (1995). Oxford advanced learner's dictionary (Vol. 1430). Oxford:
Oxford university press, page 1627
6Black, II. c. (1990). Black's Law Dictionary: Definitions of the Terms and Phrases of American.
Minnesota, page 1630
7 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ, trang 273


riêng cũng như pháp luật quốc tế nói chung đều đã xây dựng nên khái niệm nhãn hiệu.
Theo đó, nhãn hiệu, dưới góc độ chung nhất có thể hiểu là bất kì dấu hiệu nào có thể
nhận biết được bao gồm từ ngữ, tên gọi, chữ cái, con số, biểu tượng, thiết kế, hình vẽ

hay bẩt kỳ sự kết hợp nào của chúng, và kiểu dáng hay bao bì hàng hoá được sử dụng
hoặc sẽ được sử dụng trong thương mại để xác định và phân biệt hàng hoá hay dịch vụ
của chủ thề này với hàng hoá hay dịch vụ của chủ thể khác8.
Luật pháp Nhật Bản định nghĩa nhãn hiệu là "chữ cái, hình hoặc ký hiệu hoặc
hình dạng ba chiều hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của chúng bao gồm kết hợp với màu sắc
được một người sử dụng đối với hàng hóa mà họ sản xuất, chứng nhận hoặc bán như
một phần của hoạt động kinh doanh hoặc được một người sử dụng liên quan đến các
dịch vụ mà họ cung cấp hoặc chứng nhận như một phần hoạt động kinh doanh của họ.
Các nhãn hiệu dịch vụ ở Nhật Bản chi mới được bào hộ nhãn hiệu gần đây. Nhãn hiệu
ba chiều (rittaishohyo) chỉ trở thành đối tượng họp lệ của bảo hộ nhãn hiệu khi Luật về
Nhãn hiệu sửa đổi bổ sung năm 1996 có hiệu lực vào ngày 1 tháng 4 năm 1997. Sự
chậm trễ trong việc bảo hộ nhãn hiệu ba chiều ở Nhật Bản do lo ngại rằng việc bảo hộ
các nhãn hiệu này có thể dẫn đến tình trạng độc quyền đối với các mặt hàng thông
thường mà xã hội có thể cần phát triển và các doanh nghiệp cần phải có để cạnh tranh.9
Luật pháp Hoa Kỳ định nghĩa nhãn hiệu là bât kỳ từ ngữ, biêu tượng hoặc thiết
bị nào chỉ ra nguồn gốc hoặc xuất xứ cùa hàng hóa hoặc dịch vụ. Tịa án tối cao Hoa Kỳ
đã phát hiện ra rằng màu xanh lục-vàng được sứ dụng trên miếng ép trong ngành giặt
khơ là có thề được bào vệ bởi luật nhãn hiệu. Tòa án cũng nhận thấy trang trí bên trong
một nhà hàng Mexico có thể được bảo vệ bởi luật nhãn hiệu. Những trường hợp này thể
hiện sự mở rộng về quy định pháp luật về nhãn hiệu của tòa án. Trong các quyết định về
nhãn hiệu, các tòa án ở Hoa Kỳ tiếp tục "làm luật" chứ khơng chỉ "giải thích luật." Hiện

8

Phan Ngọc Tâm (2011), Bảo hộ nhãn hiệu nồi tiếng - Nghiên cứu so sánh giữa pháp luật Liên minh

châu Âu và Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM
9Kenneth L. Port, "Protection of Famous Trademarks in Japan and the United States," Wisconsin
International Law Journal 15, no. 2 (1996-1997): 260



tại, định nghía về nhãn hiệu của Nhật Bản hẹp hơn so với định nghĩa của Hoa Kỳ.10 11
Thuật ngữ nhãn hiệu không chỉ là từ ngữ thông thường chỉ dùng trong việc kinh
doanh, thương mại hay trong các hoạt động thường nhật mà với vai trò và ảnh hưởng
cua nó tới xã hội, thì khơng chỉ Việt Nam mà các điều ước quốc tế cũng đã có những
quy định cụ thề để điều chỉnh các vấn đề về nhãn hiệu.
Đây là một vấn đề tất yếu khi pháp luật luôn phải lường trước những vấn đề xã
hội và định hướng điều chỉnh đưa chúng vào một khuôn khổ nhất định. Từ các quy định
này, các vấn đề về nhãn hiệu được hiểu rộng hơn từ khái niệm đến chức năng, các khía
cạnh về quyền sở hữu.. .đồng thời nâng cao nhận thức cua mỗi người về vai trò của nhãn
hiệu trong đời sống.
Luật SHTT Việt Nam quy định “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng đế phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của các tô chức, cá nhăn khác nhau" xx. Khái niệm này được xây dựng dựa
trên chức năng quan trọng nhất của nhãn hiệu và nếu chỉ dựa trên quy định này thì bất
kỳ dấu hiệu nào như chữ viết, hình ảnh, màu sắc, âm thanh,...nếu chúng có khá năng
phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thế khác nhau đều có thể được xem là nhãn
hiệu. Nhưng thực tế, khái niệm này đã được giới hạn bởi các dấu hiệu liệt kê tại Khoản
1, Điều 72, Luật SHTT 2005 và theo đó chỉ những dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng
chữ cái, từ ngừ, hình vẽ, hình ảnh, kề cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó,
được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc mới được thừa nhận là nhãn hiệu.
1.1.2.

Đặc điếm của nhãn hiệu
Nhãn hiệu là một dạng tài sản và nhãn hiệu được coi là tài sản trí tuệ hơn là • • •
•••

tài sản thương mại, tuy vậy đây là loại tài sản có thế vơ cùng q giá đối với chú sở hữu
nhãn hiệu. Ví dụ, có ý kiến cho rằng nếu tất cả các nhà máy và hàng tồn kho của Cơng
ty Coca-Cola tan thành mây khói chỉ trong một đêm, cơng ty có thể thu được tiền để xây
dựng lại bằng cách sử dụng lợi thế thương mại vốn có trong nhãn hiệu của mình.12

10 Kenneth L. Port, ’’Protection of Famous Trademarks in Japan and the United States," Wisconsin
International Law Journal 15, no. 2 (1996-1997): 261
11 Khoan 16, Điều 4. Luật SHTT 2005 (sửa đôi, bổ sung 2009, 2019)
12 Cohen, D. (1986). Trademark Strategy. Journal of Marketing, 50(1), trang 61. Nguyên văn:


Trước tiên, có thể thấy nhãn hiệu là một tài sản trí tuệ. Đây là một trong những
tài sản vơ hình, sản phẩm của hoạt động trí tuệ, chứa đựng sự sáng tạo, đổi mới và mang
lại giá trị to lớn cho những chủ thể nắm giữ. Nhãn hiệu mang đầy đủ các đặc điểm
chung của một tài sản trí tuệ. Bên cạnh đó, chúng cũng có những đặc điếm riêng.
Cụ thể, nhãn hiệu phải là “dấu hiệu”, dấu hiệu này có thể là từ ngữ, chữ cái, chữ
số, hình ảnh, tổng họp màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố trên. Với đặc điểm này, pháp
luật Việt Nam dường như kế thừa trọn vẹn các quy định tại Điều 15 của Hiệp định
TRIPS đồng thời các dấu hiệu này phải là dấu hiệu nhìn thấy được cũng được thể hiện
một cách thống nhất theo tinh thần cứa hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, thực tế có nhiều
quốc gia xác định dấu hiệu có thể là những màu sắc đơn nhất hay việc cảm nhận dâu
hiệu thông qua các giác quan như khứu giác, thính giác hay vị giác - cụ thể như mùi, vị
hay âm thanh cũng có thể xác định là nhãn hiệu (Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên công nhận
việc đăng ký nhãn hiệu mùi - “mùi thơm tươi mát của nước hoa Plumeria” dùng cho chỉ
may và thêu ren vào năm 1990)13. Thực tể đặc điểm này sẽ tác động trực tiếp đối với đối
tượng quan tâm đến sản phẩm, dịch vụ như khách hàng, đối tác hay ngay cả đối với
những đổi thủ cạnh tranh của chủ sở hữu nhãn hiệu để kích thích nhu cầu sử dụng, việc
phân phối tiêu thụ hay chiến lược cạnh tranh để giành thị trường trong cùng lĩnh vực của
các đối thủ cạnh tranh với chủ thế sở hữu nhãn hiệu.
Ngồi ra, nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt, tức là dựa vào chúng, một chủ
thể có thể phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của tổ chức, cá nhân này với tổ chức, cá nhân
khác. Việc nhãn hiệu có khả năng phân biệt nếu đứng ở các góc độ khác nhau nó sẽ có ỷ
nghĩa và sự ảnh hưởng khác nhau. Cụ thể, đứng trên cương vị là những chủ thể sử dụng
đối với sản phẩm mang nhãn hiệu, họ có thể lựa chọn những sản phẩm mà họ cho rằng
TRADEMARKS are a form of property; they are considered intellectual rather than commercial property hut can

be extremely valuable to their owners. For example, it has been suggested that if all the plants and inventories of
the Coca-Cola Company were to go up in smoke overnight, the company could acquire funds to rebuild by using
the inherent goodwill in the marks alone as security.
13 Nguyền Trường Ngọc (Trích dẫn trong Trần Vãn Hải (2016)), “Cơ chế điều chỉnh về nhàn hiệu theo
tinh thần Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”> Hội thảo khoa học quốc tế Sở hữu trí tuệ và thương
mại: Luật và kinh nghiệm thực thi, trang 453


với sản phẩm này sẽ phục vụ, đáp ứng tốt nhất cho nhu cầu của họ mà không phải là
một sán phấm tương tự, cùng loại của một doanh nghiệp hay cơ sở kinh doanh nào khác.
Tất nhiên việc sử dụng nhãn hiệu này có thể thơng qua việc họ đã từng sử dụng hoặc
được giới thiệu sử dụng và nó đã đáp ứng được mong muốn khi sử dụng sản phẩm, dịch
vụ. Bên cạnh đó, đối với nhà nước việc quản lý, kiểm tra và đảm bảo trật tự trong xã hội
sẽ dễ dàng hơn.
Cùng với đó, bán thân những tồ chức, cá nhân sở hữu nhãn hiệu cũng có những
lợi thể nhất định bằng việc thơng qua nhãn hiệu họ sẽ định hình, khẳng định bản thân
trên thương trường và nếu sản phẩm, dịch vụ của họ được sử dụng nhiều sẽ gia tăng lợi
nhuận cũng như giá trị tài sản lên rất nhiều lần, vì khi khách hàng đã tin tưởng và tiêu
dùng sản phẩm, họ sẵn sàng bỏ ra chi phí có thể cao hơn đế được sử dụng sản phâm,
dịch vụ mà không muôn sử dụng, sản phâm dịch vụ khác dù có giá hấp dẫn hơn. Đồng
thời, chủ sở hữu nhãn hiệu cịn có thể làm tăng lợi nhuận thơng qua việc thu phí chuyển
giao quyền SHCN đối với nhãn hiệu đã đăng ký cho một chủ thể khác. Cũng xuất phát
từ lý do đó mà phát triền nhãn hiệu ln là một chiến lược quan trọng và luôn được chú
trọng hàng đầu trong các tổ chức trong xu thế hội nhập hiện nay.
1.1.3.

Chức năng của nhãn hiệu
1.1.3.1. Chức năng phân biệt
Như đã phân tích ở trên, khả năng phân biệt vừa là đặc điểm vừa là chức năng


quan trọng của nhãn hiệu. Thông qua những dấu hiệu như từ ngữ, hình ảnh, hoặc tổ hợp
các dấu hiệu có tính độc đáo, đặc sắc nhãn hiệu giúp người tiêu dùng phân biệt được
hàng hoá, dịch vụ của các chú thế kinh doanh, trên cơ sở đó lựa chọn những hàng hố
dịch vụ phù hợp với nhu cầu sở thích của mình. Nhãn hiệu giúp người tiêu dùng xác
định một sản phấm (là một hàng hố hoặc dịch vụ) của một cơng ty cụ thể nhằm phân
biệt sản phẩm đó với các sản phẩm giống hoặc tương tự do các công ty khách hàng cung
cấp. Một khi người tiêu dùng hài lòng với sản phẩm đó, có khả năng họ sẽ mua hoặc sừ
dụng trong tương lai.
Một khi hàng hoá trên thị trường càng phong phú thì chức năng phân biệt càng


trở nên quan trọng. Chức năng này một mặt giúp cho nhà sản xuất nhận biết và quản trị
việc sản xuất, lưu thơng hàng hố của mình, đồng thời giúp người tiêu dùng nhận biết và
phân biệt được hàng hoá của một doanh nghiệp với tập hợp các hàng hoá của các doanh
nghiệp khác được tung ra thị trường.
Đe thực hiện được chức năng này thì chính bản thân nhãn hiệu đó phải có khả
năng phân biệt tức là bản thân nhãn hiệu đó phải có tính độc đáo 14. Việc xem xét một
nhãn hiệu có độc đáo hay khơng phải được đánh giá trong môi quan hệ với hàng hố
dịch vụ gắn nhãn hiệu đó, đồng thời phụ thuộc vào hiểu biết của người tiêu dùng. Một
dấu hiệu được xem là độc đáo đối với hàng hoá mang dấu hiệu đó khi dấu hiệu này
được người tiêu dùng nhận ra như dấu hiệu nhận rằng hàng hố có nguồn gốc xuất phát
từ một cơ sở kinh doanh nhất định hoặc là dấu hiệu này được nhận biết như vậy15.
1.1.3.2. Chức năng thông tin và chỉ dần
Nhãn hiệu không chỉ đơn thuần là các dấu hiệu để phân biệt hàng hoá dịch vụ
của doanh nghiệp này với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp khác mà nó cịn ẩn chứa
các thơng tin và những chì dẫn về cơng dụng, giá trị sử dụng, đặc tính,... của hàng hố,
dịch vụ. thơng qua nhãn hiệu, người tiêu dùng có thể xác định được hàng hố, dịch vụ
đó là của ai, do ai sản xuất chẳng hạn khi nói đến nước uống Lavie là người tiêu dùng
nghĩ ngay đến Công ty TNHH nước khống Lavie. Thơng qua nhãn hiệu, người tiêu
dùng sẽ biết được đặc tính, cơng dụng của sản phấm, chẳng hạn khi nói đến Budweiser

người tiêu dùng sẽ biết ngay đây là một loại bia,... Đồng thời, nhãn hiệu còn cho người
tiêu dùng biết được vùng miền mà sản phẩm mang nhãn hiệu được tạo ra đặc biệt trong
trường hợp tên địa danh được sử dụng làm nhãn hiệu thì chức năng này càng thể hiện rõ
hơn. Thông tin và chỉ dẫn là một trong những chức năng quan trọng của nhãn hiệu, bởi
nhãn hiệu gắn trên mồi sản phẩm dịch vụ có tác dụng truyền tải thơng tin cho những
người kinh doanh hoặc tiêu dùng. Nhãn hiệu là một thông tin quan trọng được nhiều
người tiêu dùng quan tâm khi mua hàng hoá hoặc sử dụng dịch vụ.
141 ’Tố chức Sở hừu trí tuệ thế giới WIPO, cấm nang Sở hừu trí tuệ: Chính sách, pháp luật và áp dụng,
Bản dịch của Cục Sơ hữu trí tuệ, tr.69
15 Tồ chức Sờ hữu trí tuệ thế giới WIPO, cấm nang Sờ hừu trí tuệ: Chính sách, pháp luật và áp dụng,
Bản dịch cùa Cục Sở hữu trí tuệ, tr.7O


Trên cơ sở này, người tiêu dùng sẽ có điều kiện để lựa chọn những sản phấm,
dịch vụ phù hợp với mong muốn và khả năng kinh tế cùa mình vì họ biết được sản phẩm
đó là của nhà sản xuất nào và có niềm tin vào sản phẩm của nhà sản xuất đó.
1.1.4.

Phân loại nhãn hiệu

Trên thực tế có nhiều căn cứ để phân loại nhãn hiệu. Theo đó, sự phân loại này
có thể dựa trên dấu hiệu hình thành nên nhãn hiệu hay dựa trên chức năng hoặc mức độ
nổi tiếng của nhãn hiệu đề thấy được đặc tính và bản chất cùa từng loại nhãn hiệu.
Xuất phát từ việc nhãn hiệu là dấu hiệu, theo đặc điếm này nhãn hiệu sẽ bao gồm
nhãn hiệu là từ ngừ, nhãn hiệu là hình ảnh hay nhãn hiệu là sự kết hợp của cả từ ngừ và
hình ảnh trong tổng thể một tổ hợp màu sắc nhất định. Với cách phân loại này không thể
không đề cập đến nhãn hiệu là âm thanh hay nhãn hiệu là mùi, vị mà nhiều quốc gia trên
thế giới đã công nhận trong khi pháp luật Việt Nam vẫn chưa quy định trong hệ thống
pháp luật mà chỉ thừa nhận với các loại nhãn hiệu nhìn thấy được tương ứng đã được
liệt kê ở trên.

Dựa trên chức năng, nhãn hiệu bao gồm: nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng
nhận và nhãn hiệu liên kết. Theo đó:
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các
thành viên của tồ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá
nhân khác khơng phải là thành viên của tổ chức đó16. Như vậy, cá nhân khơng thề tự
mình đăng ký nhãn hiệu tập thể mà nó sẽ chỉ được cấp cho một tổ chức, tuy nhiên tổ
chức này lại không sử dụng nhãn hiệu đó mà chỉ có các thành viên của tổ chức mới
được sử dụng với điều kiện họ phải tuân thủ theo các quy định được ban hành trong quy
chế sử dụng nhãn hiệu tập thế, đây là một trong những nội dung quan trọng để tiến hành
việc đăng ký bảo hộ đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bản thân các thành viên
của tổ chức sở hữu nhãn hiệu tập thể có thể

16 Khoản 17, Điều 4 của luật SHTT 2005 (sửa đổi bổ sung 2009. 2019)


đồng thời sử dụng nhãn hiệu tập thể và sử dụng nhãn hiệu của chính mình cho hàng hóa,
dịch vụ mà mình sản xuất, kinh doanh.
Nhãn hiệu tập thể hình thành với mục đích đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn
chất lượng nhất định mà chính các thành viên phải nghiêm túc và thực hiện khắt khe,
nếu không đảm bảo được đúng tiêu chuẩn này nhãn hiệu tập thể sẽ bị chấm dứt hiệu lực
vì một trong các mục đích hình thành nhãn hiệu đã khơng đạt được, đó chính là việc bảo
hộ chống lại các hành vi gian dối đối với khách hàng với những cam kết về chất lượng
đã được thống nhất trong quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể.
Việc hình thành nhãn hiệu chứng nhận cũng xuất phát từ việc đảm bảo các tiêu
chuẩn, chất lượng đối với sản phẩm, dịch vụ nhằm tác động vào niềm tin người tiêu
dùng cũng như chống lại hành vi gian dối xuất phát từ nhà sản xuất, doanh nghiệp hay
chủ sở hữu có chức năng chứng nhận. Khác với nhãn hiệu tập thể, chủ sở hữu nhãn hiệu
cho phép tố chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tố chức, cá nhân đó
đế chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng
hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an tồn hoặc các đặc tính

khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Bên cạnh đó, bản thân chú sở hữu nhãn
hiệu chứng nhận phải có chức năng chứng nhận, họ khơng thề sử dụng nhãn hiệu chứng
nhận cho chính hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất hoặc cung ứng nhưng bất kỳ chủ thể
nào đáp ứng các tiêu chuẩn xác định tương ứng đều được sử dụng mà không giới hạn
đối tượng sử dụng như nhãn hiệu tập thế - chi có các thành viên của tồ chức là chù sở
hữu nhãn hiệu tập thế mới được sử dụng nhãn hiệu tập thể đó.
Dựa vào việc phân loại nhãn hiệu theo chức năng, ngoài nhãn hiệu tập thể và
nhãn hiệu chứng nhận, chúng ta không thể không đề cập đến một loại nhãn hiệu mà
cùng một chủ thể đăng ký, họ có thề đãng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tuông tự


nhau dùng cho sản phâm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan đến
nhau17, đó là nhãn hiệu liên kết.
Trên thực tế, có rất nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khơng chỉ một loại
hàng hóa hay một loại dịch vụ mà là đa sản phẩm, đa dịch vụ và giữa chúng có sự liên
quan hoặc tính chất tương tự nhau. Vì vậy, khi đưa ra những quy định pháp luật về nhãn
hiệu liên kết, mồi quốc gia trong đó có Việt Nam hướng tới việc tạo điều kiện cho chủ
sở hữu nhãn hiệu ngăn chặn được việc xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của mình mà
rõ ràng nhất là việc sản xuất hàng giả gắn với các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đã
được bảo hộ. Bên cạnh đó, chủ sở hữu nhãn hiệu cũng hạn chế được những chi phí trong
việc kinh doanh, quảng cáo và các chi phí khác vì các nhãn hiệu liên kết thực chất xuất
phát từ nhãn hiệu “gốc” đầu tiên và cũng vì thế khơng khó đề chiếm được lòng tin, sự
quen thuộc đối với người tiêu dùng nếu những nhãn hiệu liên kết trước đó đã đạt được
tin tưởng từ khách hàng.
Mức độ danh tiếng cúa nhãn hiệu cũng là một trong các tiêu chí để phân loại
nhãn hiệu. Cụ thể, với cách phân loại này, nhãn hiệu được phân chia thành nhãn hiệu nổi
tiếng và nhãn hiệu thơng thường (nhãn hiệu chưa nổi tiếng). Theo đó:
Khoản 20, Điều 4 Luật SHTT 2005 đã đưa ra khái niệm về nhãn hiệu nổi tiếng,
theo đó, nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên
toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo quy định trên, nhãn hiệu nổi tiếng cũng chính là nhãn hiệu

- là dấu hiệu dùng đề phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tố chức, cá nhân khác nhau.
Tuy nhiên, khác với các loại nhãn hiệu khác, nó phải được người tiêu dùng biết đến rộng
rãi trên cả nước và đồng thời đáp ứng các tiêu chí để xác định cũng như phân định ranh
giới giữa nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu thông thường tại Điều 75, Luật SHTT 2005.
Cụ thể là dựa trên số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua
việc mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ

17 Khoản 19, Điều 4 của luật SHTT 2005 (sừa đổi, bồ sung 2009, 2019)


mang nhãn hiệu hoặc thơng qua quảng cáo. Ngồi ra, phạm vi lãnh thơ mà hàng hóa,
dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành và doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc cung
cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã
được cung cấp cũng là tiêu chí để xác định nhãn hiệu nổi tiếng. Đồng thời, việc xác định
thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu, uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn
hiệu cũng được sử dụng để phân biệt giữa nhãn hiệu nồi tiếng với nhãn hiệu thơng
thường. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam còn căn cứ vào số lượng quốc gia bảo hộ nhãn
hiệu, số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng, giá chuyển nhượng, giá
chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu để có thêm cơ sở xác
định nhãn hiệu nồi tiếng.
Theo pháp luật Nhật Bản, nhãn hiệu nổi tiếng là các nhãn hiệu được người tiêu
dùng công nhận rộng rãi là nhãn hiệu chỉ hàng hố hoặc dịch vụ.18 Cịn tiêu chí xác định
tại Điều 75 uật SHTT 2005 đã kế thừa trọn vẹn quy định tương ứng của Công ước Paris
và Hiệp định TRIPS. Thế nhưng trên thực tế, các tiêu chí này ở mồi nước là khác nhau,
chưa có một bộ tiêu chuẩn chung thống nhất để cơng nhận nhãn hiệu nổi tiếng và vì thế
tổ chức SHTT thế giới (WIPO) đã họp và thông qua bản khuyến nghị chung trong việc
xác định và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cho các nước thành viên và Việt Nam cũng đã
xây dựng các tiêu chí tại điều 75 dựa trên sự thổng nhất cúa bản khuyến nghị chung này.
Kể từ khi Dự án “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng” được thực hiện theo Bản ghi nhớ
hợp tác được ký kết ngày 24/3/2015 giữa Bộ khoa học và Công nghệ và Hiệp hội Nhãn

hiệu quốc tế (INTA) đến nay đã có 06 nhãn hiệu được cơng bố là nhãn hiệu nổi tiếng
Việt Nam là: Vinamilk, IKEA, Vinacafe, Nike, Petrolimex, Phạm và Liên Danh.19
1.2.

Bảo hộ nhãn hiệu

1.2.1.

Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu

1.2.1.1.

Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên

Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (first to file) là nguyên tắc được hầu hết các nước
18 Điều 4-1-10, Luật Nhãn hiệu Nhật Bàn
19 Công bố 6 nhãn hiệu nôi tiếng Việt Nam, nam/2253.html xem ngày 2/5/2021


trên thế giới trong đó có Việt Nam áp dụng để xác lập việc bảo hộ quyền sở hữu đối với
các đối tượng SHCN: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu...Với nguyên tắc này,
trong trường hợp có nhiều đơn cùa nhiều người khác nhau đăng ký trùng hoặc tương tự
đến mức gây nhầm lẫn với nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ trùng hoặc tương tự với
nhau hoặc trường hợp có nhiều đơn của cùng một người đăng ký các nhãn hiệu trùng
dùng cho sản phẩm, dịch vụ trùng nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ được cấp cho nhãn hiệu
trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp
ứng các điều kiện để cấp văn bằng bảo hộ. Ngoài ra, pháp luật cũng dự liệu trường họp
có nhiều đơn đăng ký nhãn hiệu đáp ứng đủ các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ
và cùng có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thì văn bằng bảo hộ chỉ được cấp
cho đối tượng của một đơn duy nhất trong số các đon theo thỏa thuận của tất cả những

người nộp đơn, nếu không thỏa thuận được thì các đối tượng của đơn sẽ bị từ chối cấp
văn bằng bảo hộ. Theo quy định này, nhãn hiệu là các dấu hiệu do đó khơng ngoại trừ
trường hợp nhiều chủ thể cùng tạo ra những nhãn hiệu trùng hoặc tương tự nhau cho
cùng loại sản phẩm, dịch vụ, việc tạo ra các dấu hiệu này không phải là sự sao chép mà
được tạo ra một cách độc lập và do đó quy định trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
cơ quan nhà nước có thấm quyền giải quyết về bảo hộ nhãn hiệu sẽ dễ dàng thực hiện
những thú tục liên quan. Bên cạnh đó, về phía các chú thế đăng ký, quy định về ngày
nộp đơn đầu tiên sẽ thúc đẩy việc nộp đơn được tiến hành nhanh chóng và hiệu quả.
Điều này đồng nghĩa với việc đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Khơng
những vậy, ngun tắc cịn giúp nâng cao ý thức cúa chú thế nắm giữ các đối tượng
SHCN để bảo vệ tốt hơn quyền của mình, tránh trường họp bị người khác “cưóp mất ý
tưởng” hay do chậm trễ mà ý tưởng “thuộc về người khác”.
Việc bảo hộ đơi với các đơi tượng SHTT nói chung và với các đôi tượng SHCN
là việc bảo hộ sự độc quyền thông qua cơ chế bảo hộ của pháp luật cũng như thực thi
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, văn bằng báo hộ khơng thể cấp cho
nhiều chú thể cùng một thời điểm. Vì vậy nguyên tắc nộp đơn đầu tiên này sẽ đảm bảo
cho việc một đối tượng quyền SHCN chỉ được cấp cho một người duy nhất và tôn trọng
sự thỏa thuận cúa các chủ thế nộp đơn nếu là hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn


sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.
1.2.1.2.

Nguyên tắc quyền ưu tiên

Trong quy định của nguyên tắc nộp đơn đầu tiên có đề cập đến một nội dung đó
là ngày ưu tiên. Nội dung này đang hướng tới các quy định về việc áp dụng nguyên tắc
quyền ưu tiên.
Nguyên tắc này cũng nhằm mục đích giúp các cơ quan nhà nước dễ dàng xác
định chủ thể nào là chủ của văn bàng bảo hộ nếu có hai hay nhiều người nộp đơn đăng

ký nhãn hiệu trùng hoặc tương tự nhau. Tuy nhiên, quyền ưu tiên là quyền của người
nộp đơn trên cơ sở có một đơn họp lệ đầu tiên đã được nộp tại một quốc gia là thành
viên điều ước quốc tế có quy định về quyền ưu tiên, trong một thời hạn nhất định, người
nộp đơn có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu đó tại một quổc gia thành viên khác
và đơn nộp sau đó được coi như nộp cùng ngày với đơn đầu tiên. Ngày ưu tiên là ngày
nộp đơn của đơn đầu tiên, mà ngày nộp đơn của đơn đầu tiên lại được xác định theo
nguyên tắc nộp đơn đầu tiên. Với quy định trên, một ràng buộc khi muốn được hưởng
quyền ưu tiên đó thì người nộp đơn phải là người của quốc gia là thành viên cua điều
ước quốc tế và chi được công nhận quyền này nếu tiến hành đăng ký tại một hoặc tất các
các quốc gia cũng phải là thành viên cùa điều ước quốc tế đó đồng thời với quy định
phải có yêu cầu về hưởng quyền ưu tiên trong đơn đăng ký bảo hộ đầu tiên.
Quyền ưu tiên được xác định trong Công ước Paris là một trong 4 vấn đề lớn mà
Công ước hướng tới quy định cùng với nguyên tắc đối xử quốc gia, một số nguyên tăc
chung đôi với hệ thông bảo hộ quyên SHCN mà các nước thành viên phải tuân thủ và
các quy định về hành chính phục vụ cho việc thi hành Công ước. Cụ thế, quyền ưu tiên
đối với nhãn hiệu dựa trên cơ sở một đơn hợp lệ đầu tiên đã được nộp tại một trong số
các nước thành viên, trong một thời hạn nhất định là 06 tháng và người nộp đơn có thể
nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại bất cứ nước thành viên nào khác và các đơn nộp sau sẽ được
coi như đã được nộp vào cùng ngày với ngày nộp đơn đầu tiên 20. Ngoài ra, những đơn
nộp sau dựa trên cơ sở đơn nộp đầu tiên sẽ không bị ảnh hưởng bởi bất cứ sự kiện nào
20 Phần quyền ưu tiên cua Công ước Paris


có thể xảy ra trong khoảng thời gian ưu tiên. Việc rút hoặc từ chối đơn đầu tiên không
làm mất khả năng được hưởng quyền ưu tiên của người nộp đơn. Người nộp đơn có thể
yêu cầu hưởng quyền ưu tiên từ nhiều đơn cũng như có thể yêu cầu hưởng quyền ưu tiên
từ một phần của một đơn nộp trước. Nguyên tắc này sau đó tiếp tục được khẳng định
trong Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu.
Việt Nam là thành viên của các điều ước quốc tế trên nên vấn đề quyền ưu tiên
cũng được ghi nhận và kế thừa lại trong các quy định của pháp luật Việt Nam. Cụ thể,

nguyên tắc quyền ưu tiên được quy định tại Điều 91 Luật SHTT 2005 và được hướng
dẫn chi tiết tại Điều 10 Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của
Chính phú quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về
SHCN, đã được sửa đổi, bố sung. Theo đó, yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của người nộp
đơn đăng ký nhãn hiệu sẽ được chấp nhận nếu đáp ứng được các điều kiện sau:
- Người nộp đơn là công dân Việt Nam hoặc công dân của nước thành viên của Công
ước Paris hoặc cư trú, có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam hoặc tại nước
thành viên cùa công ước đó;
- Đơn đầu tiên đã được nộp tại Việt Nam hoặc tại nước thành viên của Công


×