ĐẠI HỌC QUOC GIA TP. HO CHI MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TÉ - LUẬT
NGUYEN DUY HOANG
ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG VIỆC HIỆN TẠI
ĐÉN Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP CỦA NGƯỜI TRẺ:
VAI TRÒ TRƯNG GIAN CỦA
Sư HÀI LỊNG CƠNG VIÊC HIÊN TAI
Ngành: QUAN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 8340101
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ HÒNG LIÊN
TP. HỊ CHÍ MINH - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi tên: Nguyễn Duy Hồng, là học viên cao học khóa 19 của ngành Quản trị kinh
doanh, Truờng Đại học Kinh tể - Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
Tơi xin cam đoan nghiên cứu “ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG VIỆC HIỆN TẠI ĐẾN
Q TRÌNH KHỞI NGHIỆP CỦA NGƯỜI TRẺ: VAI TRỊ TRUNG GIAN CỦA sự HÀI
LỊNG CƠNG VIỆC HIỆN TẠI” là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu khoa học độc
lập và nghiêm túc. Các số liệu trong luận văn được thu thập từ thực tế có nguồn gốc rõ
ràng, đáng tin cậy. Dừ liệu được xử lý dựa trên căn cứ khoa học, trung thực và khách quan.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ
NGUYỄN DUY HOÀNG
MUC LUC
2.1.
2.3.1.
tại 22
•
2.3.2.
Mối liên hệ giữa nhận thức về các đặc điểm cơng việc và sự hài lịng cơng việc hiện
Mối liên hệ giữa sụ’ hài lịng cơng việc hiện tại và ý định khởi nghiệp của người trẻ:
PHỤ LỤC............................................................................................................................................
DANH MỤC HÌNH
5
DANH MỤC CHỪ VIẾT TẲT
Chữ viết
tắt
Tên tiếng Anh
Tên tiếng Việt
Provincial Competitiveness Index
Vietnam Chamber of
Commerce and Industry
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tinh
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp
Viêt Nam
EEM
Entrepreneur Event Model
Mơ hình sự kiện khởi nghiệp
TPB
Theory of Planned Behaviour
Lý thuyết hành vi dự định
EFA
Exploratory factor analysis
Phân tích nhân tố khám phá
SEM
Structural Equation Modeling
Mơ hình cấu trúc tuyến tính
EAO
Entrepreneur Attitude Orientation
Định hướng thái độ khởi nghiệp
CFA
Confirmatory Factor Analysis
Phân tích nhân tố khẳng định
EVA
Avarage Variance Extracted
Phương sai trích trung bình
MSV
Maximum Shared Variance
Phương sai chung lớn nhất
GOF
Goodness-of-Fit
Chỉ số độ phù hợp
CR
Composite Reliability
Độ tin cậy tổng hợp
PCI
VCCI
6
CHƯƠNG 1
TỐNG QUAN VÈ ĐÈ TÀI
Trong chương này, tác giả trĩnh bày các số liệu liên quan đến tình hình khởi nghiệp
cũng như sự hài lịng trong cơng việc của những người trẻ tại Việt Nam. Bên cạnh đó, tác
giả lược khảo các hướng nghiên cứu liên quan đến khởi nghiệp. Từ đó cho thấy khống
trống nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu này. Ngoài ra, mục tiêu, đối
tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu của đề tài cũng được trình bày trong chương
này.
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, khởi nghiệp đang là xu hướng trên toàn cầu với sự tham gia của nhiều tầng
lóp, độ tuối và đa dạng ở nhiều ngành nghề khác nhau. Theo báo cáo về hệ sinh thái khởi
nghiệp toàn cầu 2020 của Start-up Genome (GEN, 2020), một tổ chức tư vấn và nghiên cứu
chính sách đồi mới, nền kinh tế khởi nghiệp trên toàn thế giới tạo ra giá trị gần 3 nghìn tỷ
USD, bằng với GDP của một nước trong nhóm G7. Đã có gần 300 tỷ USD được các công
ty, quỳ đầu tư và nhà đầu tư cá nhân rót vốn vào các cơng ty khởi nghiệp trên toàn cầu vào
năm 2020. Cho đến năm 2019, trên phạm vi tồn cầu, có 84 hệ sinh thái khởi nghiệp hiện
hữu đã sản sinh ra ít nhất một kì lân (cơng ty tư nhân có định giá hơn 1 tỷ USD) trong lĩnh
vực khởi nghiệp. Hầu hết các trung tâm khởi nghiệp lớn này tập trung ở Mỹ và các nước
trong khối EU. Có thể thấy, hoạt động khởi nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình
thành một nền kinh tế đa dạng và năng động cũng như tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn và
đóng góp quan trọng vào thương mại quốc tế (OECD, 1998).
Khơng nằm ngoài xu hướng toàn cầu, khởi nghiệp tại Việt Nam đang được khuyến
khích phát triển và nhân rộng. Làn sóng khởi nghiệp tại Việt Nam đã nhen nhóm từ những
năm đầu cùa thế kỷ 21 và thực sự bùng nổ trong vòng 5 năm trở lại đây. Năm 2018, Việt
Nam xếp thứ 3 về tổng giá trị đầu tư start-up trong khu vực Đông Nam Á. Số lượng giao
dịch đầu tư vào các cơng ty startup có sự tăng trưởng vượt bậc trong năm 2019, chứng tở
7
răng sô lượng công ty khởi nghiệp đang gia tăng lên với tôc độ đáng kinh ngạc. Theo điều
tra thống kê Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI 2016 của Phịng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam VCCI, 72% chủ doanh nghiệp đang hoạt động lúc bấy giờ khởi sự kinh
doanh trong độ tuồi 30 (VCCI, 2016). Nghiên cứu trên các doanh nghiệp tại Mỹ bởi
Azoulay và cộng sự (2020) cũng cho thấy rằng độ tuổi 30 và 40 là những độ tuồi có hoạt
động khới nghiệp mạnh mẽ và mang lại nhiều thành công nhất, đánh giá trên tăng trưởng
của cơng ty. Tuy nhiên, để có được sự chín muồi trong việc dẫn đắt cơng ty của chính mình
đi đến thành cơng thì những người khởi nghiệp phải trải qua những lần khởi sự thất bại và
rút ra những bài học xương máu. Chính vì vậy, độ tuồi dưới 30 chính là thời điếm tốt nhất
để trải nghiệm việc khởi nghiệp. Lực lượng người trẻ có độ tuổi từ 25 - 30 tuổi là lực lượng
tiềm năng cho khởi nghiệp bởi họ có những kiến thức chuyên mơn vẫn cịn khá tươi mới,
có thể nhanh chóng áp dụng vào thực tế cơng việc; đồng thời họ cịn sở hữu trải nghiệm
làm việc trong các công ty, tố chức, có cơ hội tiếp cận với các hệ thống quản trị, điều hành
doanh nghiệp chuyên nghiệp. Ngoài ra, lựa chọn sự nghiệp của những người trẻ cũng đang
có sự chuyển dịch từ tập trung vào các tổ chức, công ty sang quan tâm về các nhu cầu cá
nhân liên quan đến cơng việc. Trong đó, khởi nghiệp là một lựa chọn để đáp ứng nhu cầu
cao về tự quán trị sự nghiệp và khả năng lao động của bản thân.
Ke từ khi khái niệm khởi nghiệp (entrepreneurship) được hình thành, đã có nhiều
nghiên cứu về hoạt động này trên nhiều phương diện khác nhau. Trong đó, đáng lưu ý là
những nghiên cứu về người tham gia khởi nghiệp. Các nghiên cứu này tập trung vào những
đặc điểm cũng như các yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến ý định và hành vi thực hiện hoạt
động khởi nghiệp của một cá nhân. Nghiên cứu của Athayde đã tổng kết các đặc điểm cá
nhân ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp qua kết quả cúa các nghiên cứu trước đây
(Athayde, 2009). Các đặc điềm này bao gồm: định hướng cao về thành tựu, sự sáng tạo,
nhu cầu về tự chủ, sự kiểm soát cá nhân và chấp nhận rủi ro. Bên cạnh đó, nghiên cứu của
Scott cho thấy ý định khởi nghiệp bị ảnh hưởng lớn hoặc phụ thuộc vào những điêu kiện
hoàn cảnh hiện hữu (Scott, 2008). Những điêu kiện mang tính bơi cảnh này có thể ở tầm vĩ
8
mô bao gồm hệ tư tưởng giáo dục về thái độ đối với khởi nghiệp, hệ thống luật pháp, chính
sách về khởi nghiệp cùa từng quốc gia hay nhận thức về văn hóa cũng như các sự ràng
buộc, kỳ vọng của xã hội hoặc đơn giản hơn ở tầm vi mơ là sự hài lịng với cơng việc được
trả lương hiện tại. Những yếu tố này thường ổn định theo thời gian và góp phần vào việc
hình thành nên những yếu tố mang tính cá nhân liên quan đến khởi nghiệp (Audretsch &
Caiazza, 2016). Theo cách tiếp cận liên quan đến sự phù hợp của cá nhân với môi trường
làm việc, nghiên cứu của Lee và cộng sự (2011) cho thấy các đặc điểm cơng việc hiện tại
có ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp và các đặc điểm cá nhân sẽ điều tiết mối quan hệ này.
Tuy nhiên, hầu hết những nghiên cứu về ý định khởi nghiệp hiện nay đều tập trung ở
đối tượng sinh viên để khai thác những nhân tố tiềm ẩn ảnh hưởng đến ý định lựa chọn con
đường khởi nghiệp kinh doanh. Với nhóm nhân khẩu này, việc chưa có kinh nghiệm trên thị
trường lao động cũng như hiếu biết thực tế về môi trường kinh doanh chính là một điểm
hạn chế khiến cho việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng bị hạn hẹp, chưa đi sâu vào bản chất
vấn đề. Trong khi đó, đối tượng khởi nghiệp tiềm năng hơn, những người có kinh nghiệm
trên thị trường lao động và có tiếp xúc thực tế với môi trường kinh doanh, dường như bị
“bỏ quên” trong các nghiên cứu về ý định khởi nghiệp. Trên thế giới, những nghiên cứu
trên nhóm nhân khẩu này vẫn có; tuy nhiên, đa phần những nghiên cứu này chỉ tập trung
khai thác nhận thức cúa cá nhân về những đặc điểm phù hợp với công việc khởi nghiệp như
là những nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp một cách riêng lẻ, cô lập với điều kiện
bên ngồi (ví dụ: cơng việc trả lương hiện tại, v.v). Khi đó, việc tìm hiểu về ý định khởi
nghiệp sẽ bị hạn chế về mặt ý nghĩa do những yếu tố ảnh hưởng chỉ mang tính chủ quan mà
khơng xét đến điều kiện khách quan, điều này khiến cho việc chuyển hóa từ ý định sang
hành vi trở nên thiếu cơ sở.
Tóm lại, những người trẻ ở độ tuổi từ 25-30, những người lao động đã có trải nghiệm
thực tế và đánh giá chính xác về năng lực, nhu cầu và giá trị bàn thân hướng tới, đang đứng
trước nhiêu sự lựa chọn trên con đường sự nghiệp, bao gôm tiêp tục công việc hiện tại hoặc
lựa chọn công việc được trả lương khác hoặc đi theo con đường tự làm chủ, khởi sự kinh
9
doanh. Nhóm nhân khấu này chính là đối tượng khởi nghiệp tiềm năng cần được tập trung
nghiên cứu do họ đã học được nhiều kỳ năng giá trị và hình thành được mạng lưới mối
quan hệ cần thiết để có thể có một sự nghiệp khởi nghiệp thành cơng (Ensher và cộng sự,
2002; Terjesen, 2005). Tuy nhiên, việc nghiên cứu ý định khởi nghiệp cua nhóm đối tượng
này nên kết hợp giữa những yếu tố khách quan và chủ quan để có thể xác định bản chất của
những yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp trong bổi cảnh họ vẫn đang làm một cơng
việc được trả lương. Chính vì vậy, đề tài “Anh hưởng của cơng việc hiện tại đến ý đinh
khởi nghiệp của người trẻ: Vai trò trung gian của sự hài lịng cơng việc hiện tại” được
chọn đế nghiên cứu.
Với đề tài này, tác giả nghiên cứu nhận thức chủ quan về những đặc điểm công việc
hiện tại tạo ra động lực nội tại như là những nhân tố tác động đến ỷ định khởi nghiệp thông
qua trung gian là điều kiện bối cảnh về sự hài lịng cơng việc hiện tại. Việc kết hợp những
yếu tố chủ quan trong điều kiện khách quan trên đối tượng khởi nghiệp tiềm năng (25-30
tuổi) đã khỏa lấp những khoảng trống trong nghiên cứu trước đây. Tác giả hy vọng rằng với
kết quả nghiên cứu của đề tài này, tác động điều tiết cúa thái độ đối với hoạt động khởi
nghiệp lên mối quan hệ giữa sự hài lòng cơng việc và ý định khởi nghiệp sẽ được nhìn nhận
đầy đủ. Dựa vào đó, những hàm ý quản trị sẽ được đưa ra để kích thích ý định khởi nghiệp
của lực lượng người trẻ tại Việt Nam.
1.2. Tổng quan nghiên cứu về ý định khỏi nghiệp
Những nghiên cứu về ý định khởi nghiệp thường dựa trên ba mơ hình chính: Mơ hình
Bild (Bird, 1988); Mơ hình sự kiện khởi nghiệp (Entrepreneurial event model - EEM)
(Shapero & Sokol, 1982) và Lý thuyết về Hành vi dự định (Theory of Planned Behaviour TPB) (Ajzen, 1991). Trong đó, mơ hình sự kiện khởi nghiệp và lý thuyết hành vi dự định
được sứ dụng phổ biến do có nhiều điểm tương đồng. Trong mơ hình EEM, hai yếu tố cơ
bản hình thành nên hành vi có chủ đích là nhận thức về mong muốn và nhận thức vê khả
năng thực hiện hành vi. Mơ hình TPB thê hiện u tơ vê thái độ và chuẩn chủ quan có ý
nghĩa tương tự như nhận thức về mong muốn thực hiện hành vi trong mô hình EEM. Trong
10
khi đó, yếu tố khả năng thực hiện hành vi được Kruger và cộng sự diễn giải tương tự như
yếu tố nhận thức về sự kiểm soát hành vi trong mơ hình TPB (Krueger Jr và cộng sự, 2000;
Krueger, 1993).
Dựa trên hai mơ hình này có năm nhóm nghiên cứu chính: Kiểm định mơ hình; tập
trung vào các biến tiềm ẩn; tác động giáo dục; tác động về bổi cảnh và văn hóa tố chức;
mối liên hệ giữa ý định và hành vi. Nhóm nghiên cứu thứ nhất thực hiện kiềm định mơ hình
ý định khởi nghiệp trên nhiều ngành nghề và đối tượng khác nhau (Linán & Chen, 2009).
Nhóm thứ hai tập trung khai thác các biến tiềm ẩn như giới tính, vai trị của gia đình, nguồn
lực xã hội và các đặc điểm tính cách (Carr & Sequeira, 2007; Segal và cộng sự, 2005;
Wilson và cộng sự, 2007). Trong khi đó, nhóm nghiên cứu thứ ba tập trung vào ảnh hưởng
của giáo dục nói chung và giáo dục khởi nghiệp nói riêng lên ý định và hành vi khởi nghiệp
(Đoàn Xuân Toàn & Phan Thị Thu Hiền, 2020; Henderson & Robertson, 1999). Nhóm
nghiên cứu về bối cánh và văn hóa tổ chức tập trung vào phân tích sự khác biệt trong mối
liên hệ giữa các biến tiềm ấn với ý định khởi nghiệp tạo ra bởi sự khác biệt về văn hóa dân
tộc (Engle Robert và cộng sự, 2010; Martinez-Gonzalez và cộng sự, 2019). Cuối cùng, mổi
liên hệ giữa ý định và hành vi khởi nghiệp cũng được nghiên cứu và cho kết quả về khả
năng dự đoán tốt cúa ý định lên hành vi khởi nghiệp (Koe và cộng sự, 2014).
Đã có nhiều nghiên cứu dựa trên lý thuyết đẩy (Push theory) cho kết quả về mối liên hệ
giữa mức độ hài lịng thấp đối với cơng việc hiện tại và mong muốn thành lập doanh nghiệp
(Brockhaus, 1980; Cromie & Hayes, 1991; Henley, 2007). Trong đó, sự khơng hài lịng với
cơng việc hiện tại được xem là nhân tổ bối cánh tiêu cực đã “đẩy” cá nhân vào các hoạt
động khởi nghiệp như là lựa chọn nghề nghiệp thay thế. Tuy nhiên, đối tượng của những
nghiên cứu này chỉ dừng lại ở ảnh hưởng của sự hài lòng đơn thuần lên ý định khởi nghiệp
dựa trên so sánh mức độ hài lịng trong cơng việc hiện tại với kỳ vọng về sự hài lòng do
khởi nghiệp mang lại. Hầu như có rất ít nghiên cứu đi sâu vào nghiên cứu nhũng tác nhân
đến từ bản chất công việc hiện tại ảnh hưởng đến sự hài lịng cơng việc và thúc đẩy ý định
khởi nghiệp của cá nhân. Một vài nghiên cứu dựa trên sự phù hợp cá nhân - môi trường
11
cũng đã xem xét đến các đặc điểm trong công việc hiện tại trong mối quan hệ với ý định
khới nghiệp thơng qua trung gian là sự hài lịng cơng việc (Lee và cộng sự, 2011). Tuy
nhiên, những nhân tố được nghiên cứu chưa thật sự đầy đủ hoặc chỉ đặc trưng cho bối cảnh
ngành nghề cụ thể mà thiếu tính bao qt.
Ngồi ra, thái độ đối với khởi nghiệp từ lâu đã được đề cập trong các nghiên cứu về ý
định khởi nghiệp với vai trò trung gian trong mối liên hệ giữa ý định khởi nghiệp và nhận
thức về các giá trị bản thân hướng tới (Yang và cộng sự, 2015). Thái độ thề hiện tình cảm,
nhận thức và mong muốn của bản thân đối với đối tượng cụ thể và sẽ điều chỉnh hành vi và
ý định liên quan đến đối tượng đó của bản thân. Chính vì vậy, khi đứng trước những sự lựa
chọn, nếu cá nhân có thái độ tích cực với đối tượng nào thì sẽ thúc đẩy hành vi lựa chọn đó,
đó chính là tác động điều tiết của thái độ. Tuy nhiên có khá ít nghiên cứu kiềm định tác
động này của thái độ lên ý định khởi nghiệp. Nghiên cửu của Lee và cộng sự (2011) có xác
nhận sự điều tiết của thái độ đối với khởi nghiệp lên mối quan hệ giữa sự khơng hài lịng
cơng việc và ý định khởi nghiệp nhưng chỉ sử dụng yếu tố nhận thức về hiệu quả bản thân,
một trong những nhân tố ảnh hưởng mạnh lên thái độ đối với khởi nghiệp.
Những nghiên cứu về ý định khởi nghiệp tại Việt Nam tập trung chủ yếu ở đối tượng
sinh viên. Trong đó, ảnh hưởng của giáo dục khởi nghiệp lên ý định khởi nghiệp là mối
quan hệ được quan tâm và lý thuyết hành vi dự định TPB được sử dụng nhiều nhất. Nghiên
cứu của Nguyễn Anh Tuấn và cộng sự (2019) dựa trên lý thuyết hành vi dự định TPB có
phạm vi trên sinh viên độ tuối từ 18-24 ở sáu tinh thành lớn tại Việt Nam, cho thấy tác động
tích cực của thái độ đối với khởi nghiệp và nhận thức khả năng thực hiện lên ý định khởi
nghiệp. Nghiên cứu của Nguyễn Cường (2015) trên sinh viên ngành quản trị kinh doanh
của 3 trường đại học tại TP.HCM cũng cho kết quả tương tự. Ngoài tác động trực tiếp lên ý
định khởi nghiệp, thái độ đối với khởi nghiệp còn là trung gian cua tác động giữa nhận thức
khả năng khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp của các sinh viên (Mai Ngọc Khương &
Nguyễn Hữu An, 2016). Nguyễn Xuân Trường (2020) nghiên cứu về những yếu tố ảnh
hưởng đến ỷ định khởi nghiệp cúa những nhà khởi nghiệp non trẻ thuộc thế hệ Y. Trong
12
nghiên cứu này, các nhân tố nhận thức về khả năng, cơ hội có ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp lên ý định khởi nghiệp thông qua trung gian thái độ đối với khởi nghiệp. Có thể thấy,
hầu như có rất ít nghiên cứu được thực hiện trên nhóm đối tượng đang làm việc trả lương,
có cái nhìn thực tế về thị trường lao động và năng lực bản thân. Bên cạnh đó, những yếu tố
đặc điềm trong cơng việc trả lương tiềm ẩn khả năng thúc đẩy ý định khởi nghiệp vẫn chưa
được quan tâm nghiên cứu.
1.3. Mục tiêu nghiên cú-u
Mục tiêu chính của nghiên cứu là xác định vai trị trung gian cúa sự hài lịng cơng việc
trong mối quan hệ giữa các đặc điểm công việc hiện tại với ý định khởi nghiệp của người
trẻ; đồng thời kiểm tra tác động điều tiết của thái độ đối với hoạt động khởi nghiệp lên mối
quan hệ giữa sự hài lịng cơng việc hiện tại và ý định khởi nghiệp.
Đe đạt được những mục tiêu nghiên cứu chính này, đề tài cần làm rõ những mục tiêu
cụ thể sau:
- Xác định và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trong đặc điểm công việc hiện
tại lên sự hài lịng cơng việc.
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của sự hài lịng cơng việc hiện tại lên ý định khởi nghiệp.
Kiểmvà
định
và giải
tác động điều tiết của thái độ đổi với hoạt động khởi nghiệp lên mối quan hệ giữa sự hài lịng cơng việc hiện
tại
ý định
khớithích
nghiệp.
- Đưa ra hàm ý quản trị liên quan đên việc thúc đây ý định khởi nghiệp của người tré
thông qua kết quả nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu cùa đề tài cần trả lời được những câu hói nghiêu cứu sau:
- Nhận thức về các yếu tố trong đặc điểm công việc hiện tại ảnh hường như thế nào đến
sự hài lịng cơng việc của một cá nhân?
- Sự hài lịng cơng việc có phải là trung gian chuyền hóa các nhận thức đặc điểm công
việc hiện tại thành ý định khởi nghiệp hay không?
- Thái độ đối với hoạt động khởi nghiệp có thúc đẩy sự chuyển hóa cùa sự khơng hài lịng
cơng việc hiện tại thành ý định khởi nghiệp của một cá nhân hay không?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là mối quan hệ giữa đặc điểm công việc, sự hài
lịng trong cơng việc và ý định khởi nghiệp của người trẻ, đang làm việc tại các công ty, tổ
chức với sự điều tiết của thái độ đối với khởi nghiệp.
Nghiên cứu thực hiện khảo sát giới hạn trong địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đối
tượng tham gia khảo sát được chọn lựa theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện là cơng dân
Việt Nam có độ tuổi giới hạn trong khoảng 25-30 tuổi, đang là nhân viên tồn thời gian tại
các cơng ty, tồ chức và chưa từng tham gia khởi nghiệp trước đây trên địa bàn Thành phồ
Hồ Chí Minh.
1.5. Phuong pháp nghiên cún
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng: Nghiên cứu chính thức là nghiên
cứu định lượng với dữ liệu được thu thập qua bảng câu hỏi đóng được trả lời dựa trên quan
điếm, ý kiến đánh giá của 272 nhân viên cùa các cơng ty, tập đồn trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh. Tồn bộ dữ liệu hồi đáp hợp lệ sẽ được xử lý với sự hỗ trợ của phần mềm
SPSS 23.0 và AMOS 20.0. Sau đó, thang đo được đánh giá bằng phương pháp hệ số tin cậy
Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA nhằm kiểm định độ tin cậy. Phân
tích mơ hình cẩu trúc tuyến tính SEM thơng qua phần mềm
SmartPLS 3 được sử dụng đê kiêm định sự phù họp của mơ hình với dữ liệu thu được, cũng
như kiểm định các giả thuyết đề xuất trong mơ hình nghiên cứu.
Trước khi chính thức thực hiện khảo sát, tác giả thực hiện chuẩn bị nghiên cứu bằng
cách phỏng vấn các chuyên gia. Những người nhận phỏng vấn là các thầy cơ có kinh
nghiệm nghiên cứu về hoạt động khới nghiệp đề rà sốt và góp ý về các nhân tố có khá
năng ảnh hưởng lên ý định khởi nghiệp của người trẻ để đi đến mơ hình nghiên cứu cho đề
tài này. Ngoài ra, 10 nhà sáng lập của các công ty khởi nghiệp, những người này đã từng
làm những công việc được trả lương trước khi rẽ hướng sang con đường khởi nghiệp. Việc
phỏng vấn 10 nhà sáng lập này sẽ giúp tác giả làm rõ hơn về mối quan hệ giữa sự hài lịng
với cơng việc được trả lương với ý định khởi nghiệp của những người trẻ. Bên cạnh đó,
những người được phỏng vấn sẽ đóng góp ý kiến về thang đo cũng như bảng hỏi đế giúp
cơng tác thu thập diễn ra chính xác và thuận tiện hơn.
1.6. Bố cục đề tài
Đề tài nghiên cứu cùa luận văn tốt nghiệp được chia thành 5 chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mơ hình nghiên cứu
Chương 3: Thiết kế nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu Chương 5: Kết luận và hàm
ý quản trị
Kốt luận chương 1
Do khởi nghiệp mang lại nhiều lợi ích cho kinh tế và xã hội, cần thiết phủi có những
nghiên cứu về ỷ định khởi nghiệp của nhóm người trẻ để có thể thúc đẩy những cá nhân có
khả năng thực hiện khởi sự kinh doanh. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu trong và
ngồi nước tập trung vào sự chuyến đôi từ công việc trả lương sang lựa chọn khởi nghiệp.
Chính vì vậy, tác giả thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu xem xét liệu rằng có phải sự
thiếu vắng đặc điểm tạo ra động lực làm việc nội tại trong công việc hiện tại sẽ ảnh hưởng
đến ý định khởi nghiệp cùa người trẻ thông qua trung gian sự hài lịng cơng việc, cũng như
kiếm tra sự hiện diện của tác động điều tiết của thái độ đối với hoạt động khởi nghiệp của
một cá nhân lên sự chun hóa từ sự khơng hài lịng công việc hiện tại thành ý định khởi
nghiệp của người đó.
CHƯƠNG 2
Cơ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MƠ HÌNH NGHIÊN cúư
Trong chương này, tác giả sẽ giải thích các khái niệm: Lựa chọn sự nghiệp, ỷ định
khởi nghiệp, sự hài lòng công việc, thái độ đối với khởi nghiệp trong mô hình nghiên
cứu .Đồng thời trĩnh bày các lý thuyết nền táng đế xây dựng nên mơ hình, bao gồm: Mơ
hình đặc điểm cơng việc JDM và mơ hình sự kiện khởi nghiệp EEM. Dựa trên những
nghiên cứu trước đây, tác giá sẽ lập luận để thiết lập nên các giả thuyết của mơ hình
nghiên cứu.
2.1. Các khái niệm
2.1.1.
Lựa chọn sự nghiệp (Career choice)
Lựa chọn nghề nghiệp hay sự nghiệp là một trong những lựa chọn có ảnh hướng sâu
sắc đến cuộc sống của mồi người. Sự ảnh hưởng này không chỉ đến từ việc con người dành
nhiều thời gian cho công việc hơn nhiều so với các hoạt động khác trong cuộc sống, mà cịn
bởi vì lựa chọn nghề nghiệp ảnh hưởng đến phong cách sống và việc điều chỉnh cơng việc
có liên quan mật thiết đến sức khỏe tinh thần và thậm chí thể chất (Levi, 1990; Osipow,
1986). Đã có nhiều nghiên cứu đưa ra các mơ hình lý thuyết về lựa chọn và phát triển sự
nghiệp của mồi cá nhân. Trong đó, khởi đầu và được sử dụng nhiều nhất là hướng tiếp cận
liên quan đến tính cách và các yếu tố trong công việc. Các lý thuyết theo hướng tiếp cận
này nhấn mạnh tầm ảnh hưởng của sự hịa hợp giữa u cầu cơng việc và đặc điểm cá nhân
(sở thích, năng lực, tính cách) đến lựa chọn nghề nghiệp và sự hài lịng với cơng việc.
Hướng tiếp cận thứ hai bao gồm các lý thuyêt về sự học tập (learning theory), trong đó
sở thích, giá trị công việc và các kỳ năng ra quyết định lựa chọn sự nghiệp được phát triển
theo thời gian nhờ vào các các trải nghiệm mang tính cơng cụ, liên kết và học tập gián tiếp.
Các lý thuyết này cho thấy q trình phát triển sự nghiệp có thể được học tập và thay đối
theo thời gian.
Liên quan đên các lý thuyêt vê nhận thức, đặc biệt là thuyêt hiệu quả bản thân (Self-
efficacy theory) (Bandura, 1977), hướng tiếp cận của Hackett và Betz (1981) cho rằng cảm
nhận về năng lực bản thân có khả năng dự đốn hành vi lựa chọn nghề nghiệp tốt hơn nhiều
so với các biến năng lực khách quan hay được sử dụng. Tổng kết lại, lựa chọn nghề nghiệp
có thể bị ảnh hưởng bởi ba nhóm yếu tố: cá nhân (nhân khẩu học, các yếu tố tâm lý); xã hội
(hình mẫu lý tưởng, sự úng hộ của gia đình, văn hóa) và kinh tế (cơ hội việc làm, mạng lưới
nguồn lực) (Dyer Jr, 1995).
Một chuồi các lựa chọn nghề nghiệp sẽ tạo nên con đường sự nghiệp của mồi cá nhân.
Theo đề xuất của Super (1954), một cá nhân có thể trải nghiệm con đường sự nghiệp theo
bốn kiểu mẫu, bao gồm: ổn định (stable), khi cá nhân lựa chọn và tham gia nghề nghiệp
sớm và cố định; nhiều lần thử nghiệm (multiple trial), chuyển từ nghề nghiệp ổn định này
sang nghề nghiệp ổn định khác; truyền thống (conventional), thử sức với nhiều lựa chọn
trước khi chọn một nghề nghiệp cố định; và không ổn định (unstable), gồm một chuồi
những lựa chọn mang tính thử nghiệm mà khơng có khái niệm về sự cố định. Trong đó,
những người thay đổi nghề nghiệp, biểu hiện của kiểu hình với nhiều lần thử nghiệm, được
thúc đẩy bởi động lực nội tại để tìm kiếm sự nghiệp hàm chứa nhiều hoạt động nghề nghiệp
có ý nghĩa và phù hợp với các giá trị cá nhân (Shamir & Arthur, 1989). Con đường sự
nghiệp theo dạng này thường được hình thành bởi những người trưởng thành, ở độ tuổi từ
25-30 tuồi, với nhiều khái niệm thực tế được định hình rõ ràng hơn nhờ vào kinh nghiệm
cuộc sống dồi dào. Ngoài ra, người trưởng thành cịn có thế sử dụng những trải nghiệm về
sự thành công trong công việc đề làm cơ sở lên kế hoạch cho những sự chuyển tiếp trong sự
nghiệp (Gianakos, 1999).
Sự nghiệp có thể được định nghĩa là một chuồi các lựa chọn cá nhân trong suốt quãng
đời liên quan đến những khả năng nghề nghiệp khác nhau (Costa và cộng sự, 2016). Những
khả năng nghề nghiệp mà một người có thể lựa chọn trên con đường sự nghiệp có thể được
chia làm hai loại chính: cơng việc được trả lương (organizational/dependent employment),
bao gồm các công việc trong các cơng ty, tố chức, có phân cơng cơng việc cụ thê dưới hệ
thông vận hành theo câp bậc, vị trí việc làm; tự làm chủ (selfemployment), liên quan đến
các hoạt động khởi nghiệp, tự xây dựng doanh nghiệp của riêng mình. Lựa chọn cơng việc
được trả lương ln là lựa chọn phố biến hơn có ít rủi ro và đơn giản hơn lựa chọn khởi
nghiệp.
Bên cạnh đó, lựa chọn này thường xuất hiện ở quãng đầu của con đường sự nghiệp do
sự giới hạn lựa chọn tạo ra do thiếu thơng tin hoặc thơng tin thiếu chính xác về nhu cầu,
năng lực và giá trị cá nhân. Sau vài năm tham gia vào thị trường lao động, những cá nhân
đã phát triển các đánh giá chính xác hơn về khả năng, nhu cầu cá nhân và giá trị bản thân
hướng tới. Từ đó, hình thành nên các “mỏ neo sự nghiệp”, làm cơ sở để lựa chọn ngã rẽ
tiếp theo trên con đường sự nghiệp (Schein, 1978; 1990). Trong đó, lựa chọn khởi nghiệp
được đặc trưng bởi sự hiện diện của ba “mỏ neo” liên quan đến: sự sáng tạo; sự tự chủ và tự
do; sự bất ổn và rủi ro.
2.1.2.
Ý định khởi nghiệp (Entrepreneurship Intention)
Ý định khởi nghiệp là một trạng thái tinh thần dẫn dắt đến việc lựa chọn sự nghiệp của
một cá nhân, trong đó cá nhân có xu hướng chọn lựa làm việc cho chính bản thân mình hay
tự làm chủ hơn là làm việc cho một ai đó hoặc một tồ chức nào đó. Nếu như khởi nghiệp
được định nghĩa là một quy trình hình thành nên một tồ chức doanh nghiệp, thì ý định khởi
nghiệp là tối quan trọng để bắt đầu bắt đầu quy trình đó. Ý định khởi nghiệp là điểm khởi
nguồn và là chỉ báo cho hàng loạt các hành vi tiếp nối liên quan đến việc thành lập một
doanh nghiệp (Fishbein & Ajzen, 1977).
về góc độ tâm lý, ý định khởi nghiệp, cũng như các ý định trong các bối cảnh khác, đều
là nhân tố dự đoán tốt nhất cho hành vi dự định mà cụ thể ở đây là hành vi khởi nghiệp
(Bagozzi & Bluedorn, 1989). Một người có tiềm năng khởi nghiệp do có những tổ chất về
sự hiệu quả và khả năng cá nhân nhưng lại khơng thể chuyển đổi tiềm năng đó thành những
hoạt động khởi nghiệp do thiếu vắng ý định khởi nghiệp (Krueger Jr và cộng sự, 2000).
Những yêu tô ảnh hưởng đên ý định khởi nghiệp của một người có thê chia làm ba
nhóm chính: đặc điểm cá nhân, động lực bên ngoài và yếu tố về bối cảnh. Đã có nhiều
nghiên cứu về những đặc điếm về tính cách đặc trung, dự đốn ý định khởi nghiệp cua một
người, những đặc điếm tính cách này được tồng hợp thành lý thuyết Năm nhân tố tính cách
(Big Five Personality Factors), bao gồm: Định hướng về thành tựu (achievement-oriented),
sáng tạo (innovative), tự chú (autonomy), nhu cầu kiếm soát (locus of control) và chấp
nhận rủi ro (risk tolerance) (Athayde, 2009). Những nhân tố tính cách này khơng chỉ đến từ
tự nhiên mà cũng có thể đến từ việc giáo dục. Ngoài ra, một người lựa chọn khởi nghiệp là
để tìm kiếm các động lực làm việc bên ngồi như nhu cầu vể tài chính, địa vị... về yếu tố
bối cảnh, một cá nhân sẽ có ỷ định khởi nghiệp cao hơn tại nơi có mơi trường kinh doanh
tạo nhiều điều kiện cho các đơn vị khởi nghiệp (về luật pháp, giấy tờ hành chính, ưu đãi
thuế...) hoặc sâu xa hơn là nền văn hóa - xã hội khuyến khích việc khởi nghiệp và tiếp cận
với giáo dục khởi nghiệp từ sớm thơng qua trường lóp hoặc gia đình (Kuratko, 2005;
Schmitt-Rodermund, 2004). Các yếu tố vi mô xuất phát trong đời sống cũng là những nhân
tố tiềm năng dự đốn ý định khởi nghiệp, ví dụ như sự khơng hài lịng cơng việc, sự khơng
hài lịng trong cuộc sống...
Các hành vi thường khó được dự đốn chỉ bàng thái độ hoặc chỉ bằng các yếu tố ngoại
lai về bối cảnh hay đặc điếm cá nhân (nhân khấu học hay tính cách). Theo các nghiên cứu
về hành vi dự định của Ajzen, từ ý định có thể dự đốn hành vi và các yếu tố về thái độ sẽ
dự đoán những ý định đó (Jeno & Diseth, 2014). Chính vì vậy, ý định khởi nghiệp đóng vai
trị trung gian trong mối quan hệ giữa các yếu tố ngoại lai tiềm ấn với hoạt động khởi sự
kinh doanh. Tuy nhiên, ảnh hưởng cùa các yếu tố ngoại lai đến ý định và hành vi khởi
nghiệp cũng chỉ là gián tiếp, thông qua sự thay đổi thái độ đối với đối tượng, cụ thể ở đây là
các hoạt động khởi nghiệp. Vì lý do đó, các mơ hình về ý định khởi nghiệp cung cấp góc
nhìn chi tiết hon đế dự đốn và giải thích hoạt động khởi nghiệp. Tiêu biểu cho mơ hình
nghiên cứu về ý định khởi nghiệp là mơ hình hành vi dự định cùa Ajzen (1991) và mơ hình
sự kiện khởi nghiệp cúa Shapero và Sokol (1982).
2.1.3.
Sự hài lịng cơng việc (Job Satisfaction)
Sự hài lịng cơng việc là sự kết hợp của bất kỳ những nhân tố tâm lý, vật chất và môi
trường làm cho một cá nhân cảm thấy thật sự hài lịng với cơng việc cúa họ (Hoppock,
1935). Có thể nói rằng, sự hài lịng cơng việc là mức độ tương thích của những “phần
thưởng” trong công việc thực tế với kỳ vọng của người lao động về chúng (Singh &
Onahring, 2019). Những “phần thưởng” trong công việc không nhất thiết phải là yếu tố tài
chính (lương, thưởng) hay vật chất mà cịn có thể là các động lực nội tại như môi trường tốt
để phát triển kỳ năng, để chứng minh năng lực hoặc đơn giản là được đóng góp cho cộng
đồng, cho xã hội (Statt, 2004).
Sự hài lịng cơng việc chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tâm lý xã hội như các yếu tố về
tổ chức doanh nghiệp (lãnh đạo, thiết kế công việc...) và các yếu tố liên quan đến tính cách
của người nhân viên. Tựu chung lại, sự hài lịng cơng việc là kết quả của sự phù hợp giữa
các thuộc tính cơ bán cúa cơng việc và định hướng giá trị cá nhân của người lao động. Mối
quan hệ này được khái qt hóa trong mơ hình Đặc điểm công việc (Job characteristic
model) của Hackman và cộng sự (1980). Trong đó, các đặc điểm cơng việc (sự đa dạng kỳ
năng, nhận diện công việc, tầm ảnh hưởng công việc, sự tự chủ và phản hồi trong công
việc) phù hợp với định hướng giá trị cá nhân sẽ thóa mãn các trạng thái tâm lý quan trọng
(nhận thức về ý nghĩa công việc, trách nhiệm trong công việc và kết quả cơng việc); từ đó,
thúc đẩy sự hài lịng trong cơng việc.
Ngồi ra, sự hài lịng cơng việc có liên quan mật thiết đến các hành vi của người nhân
viên tại nơi làm việc, đặc biệt là sự gắn kết hay rời bỏ tố chức. Hơn thế nữa, sự hài lịng
cơng việc cịn là nhân tố tiềm ẩn để dự đốn về cam kết gắn bó với cơng việc cùa cá nhân
nếu xem xét trên góc độ sự phù hợp của bản thân người đó với bản chất của cơng việc. Từ
đó, cam kểt gắn bó với cơng việc sẽ ảnh hưởng lên lựa chọn sự nghiệp của cá nhân đó. Một
người lựa chọn rời bỏ cơng việc này đề tim đến cơng việc khác nhằm tìm kiếm sự hài lịng
cơng việc cao hơn dựa trên nền tảng sự phù hợp giữa các giá trị cá nhân và đặc điểm cơng
việc. Ví dụ như trong nghiên cứu của Douglas và Shepherd (2000), lựa chọn khởi nghiệp
của một cá nhân là sự so sánh lợi ích vê sự hài lịng cơng việc giữa khởi nghiệp và lựa chọn
cơng việc tốt nhất, trong đó khởi nghiệp được cá nhân cảm nhận mang đến nhiều sự hài
lòng hơn dựa vào sự kết hợp các yếu tố về thu nhập, rủi ro, yêu cầu về nồ lực và mức độ tự
do. Nhiều nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự về khả năng dự đoán ý định khởi
nghiệp của sự hài lịng cơng việc bằng cách nghiên cứu ý định cá nhân về việc rời bỏ công
việc hiện tại để khởi sự kinh doanh (Eisenhauer, 1995; Lee và cộng sự, 2011; Watson và
cộng sự, 1998).
2.1.4.
Thái độ đối vói khỏi nghiệp (Entrepreneurial Attitude)
Với quan điểm cho rằng thái độ dự đoán về hành vi khởi nghiệp tốt hơn các cách tiếp
cận thông qua đặc điểm cá nhân hoặc nhân khẩu học, Robison và đồng sự đã xây dựng
thang đo định hướng thái độ khởi nghiệp (Entrepreneurial Attitude Orientation - EAO)
(Robinson và cộng sự, 1991). Thơng thường, có hai cách tiếp cận liên quan đến bản chất
của thái độ. Cách tiếp cận thứ nhất cho rằng thái độ là một khía cạnh đơn hướng và được
thể hiện đầy đủ chi bàng phản ứng tình cảm (Fishbein & Ajzen, 1977). Thang đo EAO
được xây dựng theo cách tiếp cận thứ hai, cho rằng thái độ là sự kết hợp của phản ứng của
con người với mọi thứ, bao gồm: tình cảm; nhận thức và mong muốn thực hiện. Thành
phần về nhận thức bao gồm niềm tin và suy nghĩ của cá nhân về đối tượng. Yếu tố tình cảm
bao gồm cảm xúc tích cực hay tiêu cực về đối tượng. Trong khi đó, thành phần mong muốn
thực hiện bao gồm ý định thực hiện hành vi và khuynh hướng hành xử theo một cách thức
nhất định đối với đối tượng.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu về tính cách và khởi nghiệp, có thể thấy bốn đặc tính
tiêu biếu trong của người khởi nghiệp hoặc động lực đề khởi sự kinh doanh, bao gồm:
- Nhu cầu về thành tựu (McClelland, 1961; McClelland và cộng sự, 1953), liên quan
đến kỳ vọng về kết quả và sự tăng trưởng của doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Sự sáng tạo trong kinh doanh (Kirton, 1976, 1978) cho thây nhận thức và hành động
trong khởi nghiệp phải được thực hiện theo cách mới và độc đáo.
- Nhận thức về sự kiếm soát (Levenson, 1973; Rotter, 1966) liên quan đến cảm nhận của
cá nhân về sự kiềm soát và ảnh hưởng của bản thân lên kết quả kinh doanh.
- Nhận thức về sự tự tin (Crandall, 1973) liên quan đến cảm nhận bản thân đủ năng lực
thực hiện các công việc liên quan đến khởi nghiệp.
Trong thang đo EAO, mồi đặc tính này đi kèm với ba thành phần về thái độ sẽ tạo ra
thái độ chung của cá nhân về việc khởi nghiệp. Thái độ chung này sẽ là cơ sở để dự đoán ý
định và hành vi khởi nghiệp của một cá nhân. Thái độ khởi nghiệp cũng giống như thái độ
đối với các lựa chọn khởi nghiệp khác có thể thay đối theo thời gian, phụ thuộc vào mức độ
cảm nhận của cá nhân về các yếu tố liên quan đến hoạt động khởi nghiệp dựa trên kinh
nghiệm công việc và trải nghiệm cá nhân (Lee & Wilbur, 1985).
2.2. Các lý thuyết liên quan
2.2.1.
Mơ hình sự kiện khỏi nghiệp (Entrepreneurship Event Model - EEM)
Trong nghiên cứu của Shapero và Sokol (1982), ông đã đề ra mơ hình sự kiện khởi
nghiệp (Entrepreneurship Event Model - EEM), là một mơ hình về ý định đặc trưng riêng
cho lĩnh vực khởi nghiệp. Shapero cho rằng “quán tính” dẫn dắt hành vi của con người cho
đến khi có một sự kiện nào đó can thiệp vào hoặc thay thế “qn tính” đó. Trong trường
hợp những người khởi nghiệp, những sự kiện đó gọi là “sự kiện khởi nghiệp”. Những sự
kiện quan trọng trong cuộc đời như là nghỉ/thay đổi cơng việc, có gia đình, ly hơn, di cư...
có tiềm năng thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp của một cá nhân. Trong mơ hình EEM,
Shapero cho ràng khi “sự kiện khởi nghiệp” xảy ra, ý định khởi nghiệp sẽ được kết tinh từ
sự thay thể “qn tính” chỉ khi có sự tồn tại cùa tiềm năng khởi nghiệp, bao gồm yếu tố
nhận thức về sự mong muốn (perceived desirability), nhận thức về khả năng thực hiện
(perceived feasibility) và khuynh hướng hành động (prospensity to act).
Trong đó, nhận thức vê mong mn khởi nghiệp được Shapero mô tả là sự hâp dân của
việc khởi sự kinh doanh đối với một cá nhân, bao gồm cả các yếu tố từ bên trong lẫn bên
ngoài. Nhận thức về khả năng khới nghiệp được định nghĩa là mức độ cá nhân cảm nhân
bản thân có đủ khả năng bắt đầu cơng việc kinh doanh. Theo đó, nhận thức về khả năng
khởi nghiệp bị ảnh hưởng bởi nhận thức về hiệu quả bản thân (perceived self- efficacy).
Bằng các nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu, Bandura (1986) cho rằng nhận thức về hiệu
quả bản thân có liên quan đến việc bắt đầu và kiên trì với hành vi khi mức độ chắc chắn
thấp, đặt mục tiêu cao hơn, giảm thiểu rủi ro và tự tìm tịi học hỏi trong khởi nghiệp.
Khuynh hướng hành động được định nghĩa là định hướng cá nhân về việc sẽ hành động dựa
trên một quyết định nào đó. về mặt khái niệm, khuynh hướng hành động khi cơ hội xảy ra
sẽ phụ thuộc vào nhận thức về sự kiếm soát cùa mỗi cá nhân. Những cá nhân có mong
muốn kiểm sốt thơng qua hành động sẽ có khuynh hướng hành động cao hơn khi có cơ
hội. Khuynh hướng hành động khơng chỉ củng cố sự hình thành của ý định khởi nghiệp từ
sự thay thế “qn tính” mà cịn là yếu tố quan trọng trong sự chuyển hóa từ ý định đến hành
vi.
Hình 2.1. Mơ hình lý thuyết sự kiện khói nghiệp EEM
Nguồn: Shapero và Sokol (1982)
2.2.2.
Lý thuyết hành vi dự định (Theory of Planned Behaviour - TPB)
Lý thuyết hành vi dự định của Ajzen (1987) khai thác ba yếu tổ thái độ có ảnh hưởng
đến ý định thực hiện hành vi của con người, bao gồm: thái độ cá nhân về hệ quả của hành
vi, nhận thức vê chuân mực xã hội và nhận thức vê kiêm sốt hành vi. Hai u tơ về thái độ
đối với kết quả và chuẩn mực xã hội phản ánh nhận thức của cá nhân về mong muốn thực
hiện hành vi. Trong khi đó, nhận thức về kiềm sốt hành vi phản ánh mức độ cá nhân cảm
nhận về khả năng kiếm soát hành vi của bản thân.
Thái độ đối với kết quả (hay còn gọi là kỳ vọng về kết quả) phụ thuộc vào kỳ vọng và
niềm tin của bản thân về ảnh hưởng cúa mình lên kết quả thực hiện. Tống hợp các nghiên
cứu trước đó về hành vi khởi nghiệp, những khía cạnh về kết quả thường được kỳ vọng
mang lại bao gồm: sự giàu có, sự tự quyết và lợi ích cộng đồng (Jeno & Diseth, 2014).
Trong khi đó, nhận thức chuẩn mực xã hội khai thác những suy nghĩ về việc thực hiện hành
vi của một cá nhân bởi những người có ảnh hưởng đến cuộc sống cúa cá nhân đó. Những
niềm tin này thường gắn liền với những động lực nội tại liên quan đến tâm lý để thực hiện
hành vi. Chính vì vậy, yếu tố nhận thức này không quyết định nhiều đến ý định khởi nghiệp
đối với những chủ thể có đặc tính kiểm sốt cá nhân cao (Ajzen, 1987) hoặc định hướng
mạnh về thực hiện hành động (Bagozzi và cộng sự, 1992). Đẻ nghiên cứu về ảnh hưởng cùa
niềm tin xã hội đối với ý định thực hiện, cần xác định “mạng lưới xã hội” bao gồm: gia
đình, bạn bè, hình mẫu lý tưởng, người cố vấn và những người có tầm ảnh hưởng khác của
đối tượng nghiên cứu.
Hình 2.2. Mơ hình lý thuyết hành vi dự định TPB Nguồn: Ajzen (1987)
Nhận thức vê khả năng kiêm soát trùng lăp với quan điêm của Shapero vê nhận thức
khả năng thực hiện hành vi ở khía cạnh kiềm sốt. Sự kiểm sốt có ý nghĩa quan trọng khi
cân nhắc đến việc thực hiện các hành vi có mức độ khơng chắc chắn cao, thay đối thất
thường, ví dụ như khởi nghiệp. Thông thường, nhận thức về khả năng kiểm sốt nói riêng
và khả năng thực hiện hành vi nói chung chịu ảnh hưởng bởi nhận thức về hiệu quả bản
thân. Mối tương quan giữa hiệu quả bán thân và các ý định về nghề nghiệp dao động trong
khoảng 0,3 - 0,6, cho khả năng dự đoán tốt nhất so với các biến tiềm ấn khác trong nghiên
cứu về khởi nghiệp (Bandura, 1986; Brockhaus, 1986; Lent và cộng sự, 1994). Nghiên cứu
của Bandura (1986) cho rằng các cơ chế ảnh hưởng đến đánh giá hiệu quả bản thân bao
gồm thơng qua các kinh nghiệm sẵn có, trải nghiệm gián tiếp và sự khơi gợi bởi các yếu tố
vật lý/cảm xúc.
2.2.3.
Mơ hình đặc điểm cơng việc (Job Characteristic Model)
Mơ hình đặc điềm cơng việc bắt nguồn từ kết quả nghiên cứu của Turner và Lawrence
(1965) về mối quan hệ giữa những thuộc tính của cơng việc với phản ứng của những nhân
viên về công việc của họ. Nghiên cứu đưa ra sáu thuộc tính cơng việc quan trọng góp phần
vào sự hài lịng trong cơng việc của các nhân viên, bao gồm: sự đa dạng, tính tự chủ, yêu
cầu về sự tương tác, yêu cầu về kiến thức và kỳ năng, và trách nhiệm.
Dựa trên sự giải thích nhu cầu của cá nhân về sự phát triển, Hackman và Lawler (1971)
đã đưa ra những thay đổi cho mơ hình đặc điểm cơng việc với bốn khía cạnh cốt lõi về cơng
việc: sự đa dạng, tính tự chủ, nhận diện và phản hồi cơng việc và hai khía cạnh về mối quan
hệ: đối xử với người khác và cơ hội tạo lập các mối quan hệ bạn bè. Nghiên cứu cịn chỉ ra
rằng mức độ đáp ứng các khía cạnh cốt lõi về công việc cao sẽ mang lại động lực làm việc
nội tại cao, cũng đồng nghĩa với việc nhân viên có sự hài lịng thực sự với cơng việc.
Những đặc điểm chính yếu trong cơng việc này được cho rằng có ảnh hưởng trực tiếp đến
hành vi và thái độ cua nhân viên đối với công việc.