A. MỞ ĐẦU
Có thể nói trong lịch sử các học thuyết chính trị của nhân loại, các học
thuyết về Nhà nước ln giữ vị trí quan trọng nhất. Trong các học thuyết ấy
thì học thuyết về quyền lực Nhà nước, về việc tổ chức và thực hiện quyền lực
giữ vị trí cơ bản và trọng yếu, chúng bao giờ cũng để lại dấu ấn trong các thể
chế chính trị nhất định.
Vì vậy, nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị mang lại một ánh sáng cần
thiết cho việc nghiên cứu nền chính trị và các thể chế chính trị đương đại.
Học thuyết phân chia quyền lực Nhà nước có mầm mống xa xưa trong lịch
sử, từ thời cổ đại. Chúng ta có thể tìm thấy những nét đại cương của nó trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Hy Lạp, La Mã thời kỳ cổ đại,
trong các quan điểm chính trị của Aristote, Polybe... Sau đó, học thuyết này
được các nhà tư tưởng tư sản thế kỷ XVII – XVIII, điển hình là John Locke
và Montesquieu kế thừa, phát triển và hồn thiện nó, coi đó là cơ sở bảo đảm
quyền lực nhân dân và chống chế độ độc tài, chuyên chế. Montesquieu phát
triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền và sau này khi nhắc tới học
thuyết “tam quyền phân lập” là nhắc tới tên tuổi của ơng. Nó được áp dụng
trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước của nhiều nước trên thế giới ở các mức
độ khác nhau, được ghi nhận một cách trang trọng trong các bản Tuyên ngôn
và Hiến pháp của một số nước. Thậm chí, có nước đã coi phân quyền là
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy Nhà nước của mình. Đó chính là sự
thừa nhận và khẳng định giá trị của học thuyết “tam quyền phân lập” trong
thực tế.
1
B. NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT “TAM QUYỀN PHÂN
LẬP” VÀ SỰ VẬN DỤNG GIÁ TRỊ NỘI DUNG HỌC THUYẾT VÀO
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TƯ BẢN.
1.1 Giới thiệu chung về học thuyết “tam quyền phân lập”
Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền
lực nhà nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân. Chính đây là căn
nguyên cho mọi hành vi độc tài, chun chế của các cơng việc nhà nước. Vì
vậy, muốn chống chế độ này, một lý thuyết của nhiều học giả tư sản đã được
nêu ra, đó là thuyết phân chia quyền lực.
Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây
mà điển hình là nhà nước Athens và cộng hòa La Mã. Tư tưởng phân quyền
trong xã hội Hy Lạp cổ đại đã có mầm mống từ Aristotle. Ơng đã quan niệm
rằng trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải có những yếu tố bắt buộc: cơ
quan làm ra luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các cơ quan thực thi
pháp luật và các tịa án, từ đó ơng chia hoạt động nhà nước thành ba thành
tố: nghị luận, chấp hành và xét xử. Tuy nhiên, tư tưởng của Aristotle
mới chỉ dừng ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, chứ chưa
chỉ rõ phương thức vận hành cũng như mối quan hệ bên trong giữa các thành
tố đó. Những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển
thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ 17 – 18, gắn liền với hai nhà tư tưởng
lớn là John Locke và C.L. Montesquieu.
Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã lập luận tinh tế
và chặt chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và khẳng
định: “Trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền
thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều
trong luật dân sự.” Ta có thể nhận ra sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền
2
của Montesquieu so với tư tưởng của Locke, khi tách quyền lực xét xử –
quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền khác.
Từ đó, Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ
chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền khơng thể gây hại cho
người bị trị và đảm bảo quyền tự do cho nhân dân. Montesquieu đã viết: “Khi
mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện
Nguyên Lão, thì sẽ khơng có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ơng ta
hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng
khơng có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp
và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì
người ta sẽ độc đốn với quyền sống, quyền tự do của cơng dân; quan tịa sẽ
là
người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì
quan tịa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức
của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm ln cả ba thứ
quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết.”
Tóm lại, theo Montesquieu, cách thức tổ chức nhà nước của một quốc
gia là: “Cơ quan lập pháp trong chính thể ấy gồm có hai phần, phần này ràng
buộc phần kia do năng quyền ngăn cản hỗ tương. Cả hai phần sẽ bị quyền
hành pháp ràng buộc và quyền hành pháp sẽ bị quyền lập pháp ràng buộc.”
Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn còn điểm hạn chế là bảo thủ phong kiến,
đòi hỏi đặc quyền cho tầng lớp quý tộc. Nhưng nó vẫn là nền móng cho tư
tưởng phân chia quyền lực sau này, có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan
niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức của các nhà
nước tư bản. Ví dụ như đa số Hiến pháp của các nhà nước tư bản hiện nay đều
khẳng định nguyên tắc phân quyền như một nguyên tắc cơ bản của việc tổ
chức quyền lực nhà nước. Như điều 10 Hiến pháp liên bang Nga quy định:
“Quyền lực nhà nước ở Liên bang Nga được thực hiện dựa trên cơ sở của sự
3
phân quyền thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan của
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải độc lập.” Điều 1 của Hiến pháp
Ba Lan cũng trực tiếp khẳng định việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên
tắc phân chia quyền lực thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
1.2 Hoàn cảnh ra đời của học thuyết “tam quyền phân lập”.
Bắt đầu từ thế kỷ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất
nhỏ và các đạo luật hà khắc trung cổ bước vào thời kỳ tan rã. Xuất hiện nhiều
công trường thủ công, ban đầu ở các nước ven Địa Trung Hải, nhất là ở Italia,
sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác. Thay thế cho nền kinh tế tự
nhiên kém phát triển là nền sản xuất công trường thủ công đem lại năng suất
lao động cao hơn. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện nhằm
thúc đẩy sản xuất. Với việc sáng tạo ra máy tự kéo sợi và máy in làm cho
cơng nghiệp dệt, cơng nghệ ấn lốt đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự
khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người thời kỳ
này sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động.
Những phát kiến địa lý như việc tìm ra châu Mỹ và các đường biển đến
những miền đất mới… càng tạo điều kiện phát triển nền sản xuất theo hướng
TBCN. Nhờ đó, thị trường trao đổi hàng hóa giữa các nước được mở rộng.
Các cuộc giao du Đông - Tây được tăng cường.
Các nước TBCN sớm phát triển như Anh, Pháp, Tây Ban Nha… thi
nhau xâm chiếm thuộc địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước
kém phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của mình. “Giờ đây, lần
đầu tiên người ta đã thực sự phát hiện ra trái đất và đặt nền móng cho nền
thương nghiệp thế giới sau này và đại công nghiệp hiện đại”.Đồng thời với sự
phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu, thời kỳ này,
sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các chủ
xưởng công trường, xưởng thợ, chủ thuyền bn… vai trị và vị trí của họ
trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư
4
đến các thành phố, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ.
Họ là tiền thân của giai cấp công nhân sau này. Các tầng lớp xã hội trên đại
diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ
phong kiến đang suy tàn. Những mầm mống của nền sản xuất TBCN xuất
hiện trước tiên ở Italia, nước được coi là quốc gia tư bản sớm nhất ở Tây Âu.
Với nền văn hóa phục hưng phát triển rực rỡ trong suốt thế kỷ XIV - XV,
Italia trở thành trung tâm của vũ đài lịch sử thế giới, tiêu biểu cho nền văn
minh nhân loại thời kỳ này.
Tiếp sau đó, các cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) với việc xử
tử vua Lu - i XVI là một trong những đòn quyết định tiêu diệt chế độ phong
kiến ở châu Âu.Vào thế kỷ XVI - XVII thành phần kinh tế TBCN ngày càng
phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế của các nước Tây Âu. Sự lớn mạnh của
công nghiệp và thương mại cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học
kỹ thuật đã dẫn tới sự tiếp tục tan rã của chế độ phong kiến. Song, quyền sở
hữu ruộng đất của phong kiến, chế độ nông nô, chế độ đẳng cấp và sự bất
bình đẳng về pháp luật đặc trưng cho xã hội phong kiến đã ngăn cản sự phát
triển của kinh tế TBCN dựa trên sự cạnh tranh tự do và bóc lột lao động làm
thuê. Nền quân chủ chuyên chế với những thể chế bảo thủ can thiệp quan liêu
vào tồn bộ đời sống xã hội kìm hãm sự phát triển của các xí nghiệp thương
mại và công nghiệp. Giai cấp tư sản đang trưởng thành và lớn mạnh ở các
nước phát triển nhất không thể khoan nhượng với chế độ chuyên chế phong
kiến. Giai cấp tư sản địi xóa bỏ đẳng cấp và thiết lập sự bình đẳng pháp luật,
bảo đảm tự do và an ninh cá nhân và quyền sở hữu tư nhân bằng cách tạo ra
những sự đảm bảo cần thiết về mặt chính trị và pháp lý.Trong cuộc đấu tranh
chống nền quân chủ chuyên chế, giới quý tộc và nhà thờ, các nhà tư tưởng tư
sản muốn vứt bỏ vòng hào quang thiêng liêng bao trùm lên chế độ phong
kiến, tách các vấn đề Nhà nước và pháp quyền ra khỏi tôn giáo.Khuynh
hướng này được thể hiện rõ nét trong học thuyết về pháp quyền tự nhiên,về
chủ nghĩa tự do. Nội dung của các học thuyết này được truyền bá rộng rãi ở
5
Tây Âu đã tạo ra những quan niệm xây dựng nền tảng của thể chế chính trị
dân chủ tư sản. Nó cũng là nền móng của những hệ thống chính trị ở các nước
tư bản phát triển và các nền dân chủ tư bản hiện đại sau này. Tóm lại, hoàn
cảnh lịch sử Tây Âu thế kỷ XV - XVIII và nền tảng tư tưởng trên đây quy
định nội dung của những tư tưởng chính trị thời kỳ này, làm cho nó khơng chỉ
đơn thuần dừng lại ở việc tiếp thu và khôi phục các giá trị tư tưởng truyền
thống, mà còn phát triển với nhiều sắc thái riêng của một thời kỳ lịch sử. Ở
thời kỳ này, có rất nhiều nhà tư tưởng chính trị tiêu biểu và nổi tiếng, những
tư tưởng của họ về mặt chính trị để lại cho nhân loại nhiều giá trị trong đó có
thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết “tam quyền phân
lập”
Học thuyết này đã được các nhà tư tưởng tư sản thế kỷ XVII - XVIII
mà điển hình là John Locke và Montesquieu kế thừa, phát triển và hồn thiện
nó, coi đó là cơ sở để bảo đảm quyền lực của nhân dân và chống chế độ độc
tài chuyên chế. Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân
quyền và sau này khi nhắc tới học thuyết “tam quyền phân lập” là nhắc tới tên
tuổi của ơng. Nó đã được thể hiện và áp dụng trong việc tổ chức bộ máy Nhà
nước của nhiều nước trên thế giới ở các mức độ khác nhau, được ghi nhận
một cách trang trọng trong các bản Tuyên ngôn và Hiến pháp của một số
nước. Thậm chí, có nước đã coi phân quyền là ngun tắc cơ bản trong tổ
chức bộ máy Nhà nước của mình, là tiêu chuẩn và điều kiện của nền dân chủ.
Đó chính là sự thừa nhận và khẳng định giá trị của học thuyết “tam quyền
phân lập” trong thực tế.
Qua hai thế kỷ, loài người ngày càng hiểu biết hơn về giá trị của
nguyên tắc phân quyền của Montesquieu, đã góp phần đẩy nhanh việc kết
thúc chủ nghĩa cực quyền, ông được mệnh danh như là một người đặt nền
móng cho việc thiết lập một Chính phủ hiện đại. Hiện nay, dân chủ và tự do
6
đã trở thành một giá trị rõ ràng, chế độ độc tài dần dần được đẩy lùi, phân tích
của Montesquieu về việc phân quyền như là một trong những biện pháp quan
trọng để chống sự độc tài chuyên chế của nhiều Nhà nước trên thế giới hiện
nay. Thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu có ảnh hưởng sâu sắc
đến những quan niệm sau này về tổ chức Nhà nước cũng như thực tiễn tổ
chức Nhà nước của các Nhà nước tư bản. Học thuyết này là một nguồn quan
trọng của chủ nghĩa lập hiến. Đa số Hiến pháp của các nước tư bản hiện nay
đều tuyên bố phân quyền là một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền
lực Nhà nước.
7
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT “TAM QUYỀN
PHÂN LẬP” VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ
NƯỚC TRONG CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC
2.1 Khái niệm thuyết tam quyền phân lập
Quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được giao cho các cơ quan khác
nhau trong nhà nước: quyền lập pháp giao cho nghị viện, quyền hành pháp
giao cho chính phủ, quyền tư pháp giao cho tịa án.
Tam quyền phân lập là nhằm dùng quyền lực kiểm soát và kiểm chế
quyển lực. Theo mơ hình phân quyền của Môngtexkiơ không chấp nhận việc
một cơ quan nhà nước đứng trên hoặc nắm trọn vẹn cả 3 quyền.
2.2 Quá trình hình thành thuyết tam quyền phân lập
Thuyết tam quyền phân lập xuất hiện lần đầu tiên bởi nhà triết học vĩ
đại của Hy Lạp Aristote. Theo Aristote, nhà nước quản lý xã hội bằng 3
phương pháp: lập pháp, hành pháp và phân xử.
Ơng cho rằng, khơng có loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù
hợp với tất cả các thời đại và các quốc gia. Ông phân chính phủ theo tiêu
chuẩn số lượng (số người cầm quyền) và chất lượng (mục đích của sự cầm
quyền) – kết hợp 2 mặt đó, các chính phủ có thể xếp theo 2 loại: chân chính
(qn chủ, q tộc, cộng hồ) và biến chất (độc tài, quá đầu, dân trị)
Bên cạnh Aristote, bàn về thuyết ”tam quyền phân lập” cịn có John
Locke. Theo ông, quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân
dân nhường một phần quyền của mình cho nhà nước qua khế ước. Và để
chống độc tài phải thực hiện sự phân quyền. Kế thừa tư tưởng phân quyền
xcủa Aristote, Locke cho rằng, quyền lực phải phân chia theo 3 lĩnh vực: lập
pháp, hành pháp và liên hợp.
Từ thế kỷ 18, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu, đã phát
triển thuyết tam quyền phân lập trở thành một học thuyết độc lập. Tiếp thu và
phát triển tư tưởng về thể chế chính trị tự do, chống chuyên chế,
Mongtesquieu xây dựng học thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng những
thể chế chính trị đảm bảo tự do cho các công dân.
Theo ông, tự do chính trị của cơng dân là quyền mà người ta có thể làm
mọi cái mà pháp luật cho phép. Pháp luật là thước đo của tự do. Cũng như
Aristote và J. Locke, Mongtesquieu cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể
chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành 3 quyền : lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
+ Lập pháp: Biểu hiện ý chí chung của quốc gia. Nó thuộc về tồn thể
nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân – Quốc hội
+ Hành pháp: Là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập.
+ Tư pháp: là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các
cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp
luật.
Tư tưởng phân quyền của Mongtesquieu là đối thủ đáng sợ của chủ
nghĩa chuyên chế phong kiến và có thể khẳng định ơng là người đã phát triển
và hoàn thiện thuyết:”tam quyền phân lập”. Học thuyết về sự phân chia quyền
lực gắn liền với lí luận về pháp luật tự nhiên đã đóng vai trị quyết định trong
lịch sử đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của
nhà vua
Cùng với sự hình thành chế độ tư bản, nguyên tắc “phân chia quyền
lực” đã trở thành một trong những nguyên tắc chính của chủ nghĩa lập hiến tư
sản, lần đầu tiên được thể hiện trong các đạo luật mang tính hiến định của
cuộc Cách mạng Pháp và sau đó thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp Hoa Kỳ
1787. Học thuyết pháp luật – chính trị (thuyết “phân quyền”) với quyền lực
nhà nước được hiểu không phải là một thể thống nhất, mà là sự phân chia
thành 3 quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, các quyền này được
thực hiện độc lập với nhau, kiểm soát lẫn nhau, kiềm chế lẫn nhau. Trên thực
tế, việc phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước được áp dụng khác nhau
trong hệ thống các nước cộng hoà tổng thống, theo nguyên tắc “kiềm chế và
đối trọng”, tức là các quyền kiểm tra và giám sát lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng
giữa các quyền.
2.3 Nội dung về tính phân quyền trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước
Nội dung đầu tiên trong học thuyết phân quyền của Montesquieu là
quyền lực Nhà nước được cấu thành bởi ba hình thái cơ bản (tam quyền): lập
pháp, hành pháp và tư pháp: “Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực:
quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và
quyền thi hành những điều hợp với luật dân sự. Với quyền Thứ nhất, nhà vua
hay pháp quan làm ra các thứ luật cho một thời gian hay vĩnh viễn, và sửa đổi
hay hủy bỏ luật này. Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định hòa hay
chiến, gửi Đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược. Với
quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh
chấp giữa các cá nhân. Người ta gọi đây là quyền tư pháp, và trên kia là
quyền hành pháp quốc gia”. Nội dung tiếp theo là quyền lực Nhà nước phải
được tổ chức làm sao cho tự do của cơng dân được bảo đảm: “Tự do chính trị
của cơng dân là sự yên tâm vì mỗi người nghĩ rằng mình được an ninh. Muốn
đảm bảo tự do chính trị như vậy thì Chính phủ phải làm thế nào để mỗi công
dân không phải sợ một công dân khác”. Montesquieu kịch liệt lên án chế độ
quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ.
Chế độ quân chủ chuyên chế là tổ chức quyền lực phi lý. Chuyên chế là
hình thức cầm quyền của một người phủ nhận pháp luật, Nhà nước phụ thuộc
vào sự lộng quyền của người cầm quyền. Chế độ chuyên chế sở dĩ tồi tệ, phi
lý là vì: Nhà nước tồn tại vốn biểu hiện của ý chí chung nhưng trong chế độ
chun chế nó lại biểu hiện ý chí đặc thù; chế độ chuyên chế với bản chất vô
pháp luật và ý chí tùy tiện của nó lại trái với bản chất pháp luật và nhu cầu
pháp luật. Montesquieu nhận thấy pháp luật gồm nhiều lĩnh vực, phân nghành
rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy nhất là trái với bản chất của nó.
Gắn với bản chất của chế độ chuyên chế là tình trạng lạm quyền. Vì vậy, việc
thanh tốn hiện tượng lạm quyền chỉ có thể đồng thời là sự thanh tốn chế độ
chun chế.
Theo Montesquieu, một khi quyền lực được tập trung vào một mối, kể
cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chun chế vẫn cịn. Từ đó,
Montesquieu cho rằng tổ chức quyền lực Nhà nước theo phương thức phân
chia quyền lực Nhà nước để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn làm
quyền, bảo đảm quyền tự do của con người…
Montesquieu viết: “Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập
lại trong tay một người hay một Viện Ngun lão thì khơng cịn tự do nữa; vì
người ta sợ rằng chính ơng ta hay viện ấy sẽ đặt ra những luật độc tài để thi
hành một cách độc tài. Cũng khơng có gì là tự do nếu quyền tư pháp không
tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại
với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đốn với quyền sống và quyền tự do
của cơng dân; cơ quan tịa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại
với quyền hành pháp, thì ơng quan tịa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu
một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân
chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”.Chứng
nghiệm vào thực tế, nhận xét của Montesquieu rất đúng.
Tự do sẽ không có nếu quyền lập pháp và quyền hành pháp chập vào
một bàn tay. Vì người nắm quyền lực sẽ đặt ra những quy tắc thuận tiện cho
mình cai trị và sẽ không ban hành các quy tắc gây bất lợi cho mình. Quyền
lập pháp nhập với quyền tư pháp thì tự do cũng sẽ bị đe dọa. Nếu một người
vừa có quyền lập pháp vừa có quyền tư pháp thì sẽ: làm luật cho những
trường hợp hay cá nhân mà ông ta muốn hại, chẳng hạn một nhà độc tài làm
ra những đạo luật riêng nhằm bỏ tù những kẻ chống đối mình; sẽ đem thi
hành đạo luật cho những cá nhân mà ông ta bênh vực hay biệt đãi, chẳng hạn
một nhà độc tài đóng vai trị thẩm phán sẽ không phạt tù những kẻ thân thuộc
đã phạm tội. Như vậy, luật khơng cịn là luật nữa vì khơng có giá trị tổng quát
nữa mà thay đổi tùy theo ý muốn chủ quan của nhà cầm quyền.
Lạm quyền là thuộc tính của quyền lực Nhà nước. Một người càng có
nhiều quyền hành trong tay thì càng có khả năng lạm quyền. Nếu một người
hay một cơ quan nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì tự
do của dân chúng sẽ khơng cịn gì. Phân quyền có nghĩa là ba quyền đó được
giao cho những cơ quan khác nhau, độc lập với nhau có những phương thức
hình hành riêng, cách thức hoạt động, lĩnh vực hoạt động riêng.
Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước ln
có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trị của mình. Bất cứ ở đâu có
quyền lực là xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực
ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân,
ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà
nước thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt
nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và
cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia nó ra.
Muốn hạn chế quyền lực nhà nước thì trước hết phải phân quyền, và
sau đó phải làm cho các nhánh quyền lực đã được phân chỉ được phép hoạt
động trong phạm vi quy định của pháp luật. Sau này, trong một bức thư gửi
cho một người cùng thời, ông Samuel Kercheval, Thomas Jefferson – tổng
thống thứ 3 của Hoa Kỳ, đã chỉ rõ thêm của sự phân quyền không đơn thuần
chỉ diễn ra ở một chiều ngang, mà còn cần thiết ở cả chiều dọc, và ở bất cứ
lĩnh vực nào của nhà nước.
CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT TAM QUYỀN PHÂN LẬP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1 Ảnh hưởng của thuyết tam quyền phân lập trong giai đoạn hiện
nay.
Hiện nay, nguyên tắc phân quyền được áp dụng trong tổ chức bộ máy
nhà nước của một số nước trên thế giới nhưng mức độ áp dụng khơng hồn
tồn giống nhau. Những nước theo chế độ cộng hòa tổng thống thường áp
dụng triệt để nguyên tắc phân quyền theo quan điểm của tam quyền phân lập.
Trong khi đó các nước theo chính thể cộng hịa đại nghị hoặc quân chủ đại
nghị thường áp dụng nguyên tắc phân quyền mềm dẻo hơn. Theo đó, có sự
dung hợp quyền lực giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Mơ hình
tam quyền phân lập là kết quả của sự phát triển triết học về nhà nước từ trong
lịch sử châu Âu bắt đầu từ John Locke (1632-1704) và Charles de Secondat
Montesquieu (1689- 1755).
Mơ hình tam quyền phân lập ra đời, ban đầu nhìn chung, với chủ
trương phân quyền để chống lại chế độ phong kiến chuyên chế, thanh tốn
nạn lạm quyền, để chính quyền khơng thể gây hại cho người bị trị và bảo đảm
quyền tự do cho nhân dân. Tuy nhiên, mơ hình này mang tính lịch sử, xã hội
và sự vận dụng cịn phụ thuộc vào truyền thống văn hóa, điều kiện lịch sử;
quan hệ cũng như tương quan lực lượng giữa các giai cấp và trong từng giai
cấp trong xã hội.
3.2 Có nên áp dụng thuyết tam quyền phân lập vào Việt Nam
không?
Chưa nên và không nên vận dụng vào Việt Nam hiện nay, bởi các lý do
sau:
Thứ nhất, quyền lực nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thống nhất, mà quyền lực này thuộc về Nhân dân. Điều 2, Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 2013) ghi rõ:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm
sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”.
Khi quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân thì quyền lực
này về ngun tắc khơng chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác. Về bản
chất, các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền. Đại biểu Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân (2015) cũng do nhân dân bầu ra theo nguyên
tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ nhân dân, thực
hiện nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền. Điều 94, Hiến pháp 2013 quy định:
“Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành
của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công
tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Điều 102,
Hiến pháp 2013 quy định:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do
luật định.
3. Tịa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Điều 107, Hiến pháp 2013 quy định:
“1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp.
2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các
Viện kiểm sát khác do luật định.
3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Như vậy, ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước
Việt Nam đều có mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân. Trên thực tế, ba cơ
quan này đều thực hiện quyền lực của nhân dân ủy quyền. Hơn nữa, trong
Nhà nước Việt Nam có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều
69, Hiến pháp 2013 quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước. Như vậy, về bản chất quyền lực của nhân dân không
thể phân chia. Nhà nước Việt Nam không cần tới mơ hình tam quyền phân lập
bởi sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vì mục tiêu phục vụ Nhân
dân được bảo đảm và thực hiện tốt.
Thứ hai, như chúng ta đều rõ, lý luận phân quyền của J. Locke và Ch.S.
Montesquieu đều xuất phát từ khảo sát thực tế mơ hình chính thể qn chủ
lập hiến của nước Anh thế kỷ XVII - XVIII. Lý luận phân chia quyền lực của
J. Locke được tiến hành trong thời kỳ cách mạng của giai cấp tư sản Anh đạt
được thắng lợi, tạo ra sự thỏa hiệp giai cấp và phân quyền giai cấp. Từ đời
sống chính trị nước Anh, ơng quan sát đến cách thức củng cố quyền lực nhà
nước của giai cấp tư sản, phòng trừ việc phục hồi của thế lực phong kiến. Ông
phản đối chế độ quân chủ quyền lực vơ hạn, vì cho rằng nếu nhà vua có tồn
quyền thì quyền lợi của mọi người sẽ bị nhà vua xâm hại, khơng thể có được
sự xét xử cơng bằng. Tuy nhiên, ơng khơng chủ trương xóa bỏ triệt để chế độ
quân chủ vì cho rằng người dân Anh khơng dễ gì từ bỏ chế độ cũ, chỉ trong
trường hợp nghiêm trọng khi nhà vua lạm dụng quyền lực thì mới đặt vấn đề
phế truất nhà vua. Trong khi chế độ quân chủ lập hiến của nước Anh đã được
xác lập và chế độ dân chủ nghị viện đã bước đầu định hình thì nền chính trị
nước Pháp vẫn có xu hướng phản động, cụ thể là khi Luis XIV (1638-1715)
lên nắm quyền vẫn cho rằng “nhà nước chính là ta”. Để đấu tranh chống xu
hướng độc đoán, chuyên chế này, Ch.S. Montesquieu quyết tâm học tập chế
độ quân chủ lập hiến của nước Anh, đả kích chế độ chuyên chính của Pháp,
đưa ra nhiều sáng kiến cho việc cải cách chế độ chính trị của Pháp. Ông cũng
phản đối chuyên chế quân chủ, cho rằng trong các nhà nước chuyên chế
người ta chẳng khác gì một sinh vật phục tùng một sinh vật có ý chí khác,
sinh mệnh con người ở đâu cũng giống nhau. Ông cũng khơng chủ trương xóa
bỏ hồn tồn chế độ qn chủ, cho rằng nguyên tắc của chính thể quân chủ là
vinh dự, tự trọng mà vinh dự, tự trọng là động lực thúc đẩy các “bộ phận của
cơ thể chính trị”. Có nghĩa là cả J. Locke và Ch.S. Montesquieu đều nhận
định chế độ quân chủ lập hiến của Anh vừa bảo đảm được chế độ quân chủ
vừa hạn chế được quyền lực của vua. Do vậy đó là một thể chế chính trị lý
tưởng. Lý luận phân quyền của các ông mặc dù về nội dung và hình thức có
những điểm khơng giống nhau nhưng đều dựa trên chế độ quân chủ lập hiến
của Anh và đều là biểu hiện lý luận của chính thể này. Hơn nữa, phân quyền
mà cả hai ông cùng nghiên cứu là phân quyền giai cấp. Điều này cho thấy,
tính lịch sử và điều kiện lịch sử của sự ra đời cũng như của việc vận dụng mơ
hình tam quyền phân lập. Ở Việt Nam hiện tại khơng có những điều kiện lịch
sử giống như lịch sử nước Anh và Pháp thế kỷ XVII-XVIII, cũng khơng có
nhà nước chun chế phong kiến cần đánh đổ. Do vậy, không nhất thiết và
không cần phải vận dụng mơ hình tam quyền phân lập.
Thứ ba, như trên chúng ta đã rõ, phân quyền mà cả J. Locke và Ch.S.
Montesquieu cùng nghiên cứu là phân quyền giai cấp - phân chia quyền lực
giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến quý tộc đứng đầu là vua - đang
“lụi tàn”, nhưng còn rất mạnh và vẫn chiếm vị trí quan trọng trong lịng người
dân ở các nước này do truyền thống văn hóa và tâm lý dân tộc. Để dung hòa,
xoa dịu mâu thuẫn và để giải quyết tương quan lực lượng giữa hai giai cấp
này tốt nhất họ đã tìm thấy mơ hình nhà nước chính thể qn chủ lập hiến.
Mơ hình này giúp cho giai cấp tư sản lợi dụng được truyền thống của giới quý
tộc phong kiến trong việc khơi gợi tự hào dòng tộc, truyền thống quốc gia.
Trên cơ sở đó giúp giai cấp tư sản tập hợp được sự nhất trí của các giai tầng
vì một dân tộc quốc gia thống nhất. Mặt khác, về hình thức thì giai cấp phong
kiến q tộc vẫn cịn danh dự, vẫn có quyền lực mặc dầu chỉ là quyền lực
hình thức. Đối với Việt Nam, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp
trí thức,v.v.. mặc dù khác nhau về tính chất nghề nghiệp, cơng việc, đặc điểm
lao động, trình độ học vấn, v.v.. nhưng nếu xét về địa vị trong nền sản xuất xã
hội, xét về địa vị chính trị trong chế độ chính trị - xã hội thì các giai cấp này
thống nhất và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, kể cả đối với
quyền lực nhà nước. Hơn nữa, trong nội bộ mỗi giai cấp này cũng có sự thống
nhất. Cơ sở của sự thống nhất giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp
trí thức ở Việt Nam cũng như trong nội bộ từng giai cấp này là sự thống nhất
về lợi ích. Hơn nữa, lợi ích của các giai cấp này cũng thống nhất với lợi ích
của Nhà nước Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam. Tương quan giữa giai
cấp cơng nhân, nơng dân và tầng lớp trí thức cũng như tương quan trong nội
bộ từng giai cấp như vậy khơng địi hỏi phải phân chia quyền lực nhà nước!.
Thứ tư, chúng ta đều rõ ở phương Tây, chính phủ được thành lập bởi
nhóm thắng cử đa số và đủ số lượng phiếu theo luật định trong cuộc bầu cử.
Nếu thắng cử với đa số phiếu nhưng vẫn chưa đủ thắng áp đảo theo luật định
thì nhóm thắng cử phải liên minh với các nhóm chính trị khác để có đủ số
phiếu theo luật định thành lập chính phủ. Trong khi đó, có thể nhóm chính trị
khác lại thắng cử ở hạ viện hoặc thượng viện. Nói khác đi, ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp có thể thuộc về các nhóm chính trị khác nhau hoặc liên
minh của các nhóm chính trị khác nhau của các giai cấp. Các nhóm chính trị
này chỉ đại diện cho ý chí của các nhà tài trợ thuộc các tập đồn tài phiệt kinh
tế, các ngân hàng lớn, các cơng ty luật,v.v.. mà thơi. Trong giai cấp thống trị
có nhiều nhóm chính trị khác nhau (chẳng hạn ở Mỹ có tới 112 đảng, phái,
nhóm chính trị), nhưng nhóm thắng cử trong bầu cử chỉ đại diện cho ý chí của
những nhà tài trợ. Do vậy, nếu khơng kiểm sốt quyền lực bằng cách phân
chia (dù chỉ là hình thức) thì nguy cơ lạm quyền, độc quyền, chuyên quyền
bởi các nhóm chính trị này là khơng tránh khỏi. Nghĩa là từ tư tưởng phân
chia quyền lực nhà nước giữa các giai cấp trong xã hội của J. Locke và Ch.S.
Montesquieu thì ở phương Tây hiện đại, người ta đã vận dụng tư tưởng này
vào phân chia quyền lực nhà nước giữa các nhóm chính trị trong nội bộ các
giai cấp. Nghĩa là sự tương quan lực lượng giữa các giai cấp cũng như sự
tương quan lực lượng trong nội bộ từng giai cấp mất cân bằng và cần đến mơ
hình tam quyền phân lập để cân bằng quyền lực.
Ở Việt Nam, như trên chúng ta đã khẳng định, giai cấp cơng nhân, giai
cấp nơng dân, tầng lớp trí thức,v.v.. thống nhất và bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ như nhau, kể cả đối với quyền và nghĩa vụ trong thực hiện quyền lực
nhà nước. Các giai cấp này chỉ có một mục tiêu duy nhất là làm cho “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do vậy, khơng cần phải nói
tới việc phân chia quyền lực giữa các giai cấp này cũng như trong nội bộ từng
giai cấp này. Từ đây cho thấy, những người hơ hào phải vận dụng mơ hình
tam quyền phân lập vào nhà nước Việt Nam là những người ủng hộ đa đảng,
đa ngun chính trị. Mà điều này là khơng phù hợp thực tế Việt Nam cả về
mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn.
Thứ năm, tinh thần tam quyền phân lập của J. Locke và Ch.S. Montesquie rất
phù hợp trong điều kiện chống chế độ quân chủ phong kiến thế kỷ XVIIXVIII ở châu Âu nhưng vận dụng vào điều kiện hiện nay cần cân nhắc rất kỹ
lưỡng. Chưa kể, một số tư tưởng của họ còn hạn chế. Chẳng hạn, J. Locke
chưa phân định rõ ràng giới hạn quyền năng của các cơ quan nhà nước, quyền
đối ngoại mà ơng nói đến thực chất chỉ là một loại quyền hành pháp. Do đó,
ba quyền mà ơng đề cập trên thực tế chỉ là hai quyền lập pháp và hành pháp.
J. Locke chỉ nói về phân quyền nhưng chưa luận giải được nếu trong quá
trình thực hiện quyền lực phát sinh mâu thuẫn hoặc xung đột thì phải giải
quyết thế nào. Mặc dầu, Ch. S. Montesquieu có đề cập quan hệ chế ước và
cân bằng giữa ba quyền. Tuy nhiên, cũng chính Ch.S. Montesquieu đã máy
móc khẳng định rằng khí hậu ảnh hưởng đến luật pháp. Ơng viết: “Ở các
vùng khí hậu khác nhau, tính cách, tinh thần, tình cảm và dục vọng của con
người cũng rất khác nhau. Nếu như thế thì luật pháp cũng phải tương ứng với
sự khác nhau ấy”(1). Ơng cũng có hạn chế, thiên vị tầng lớp quý tộc khi cho
rằng cần ưu tiên cho những người có nguồn gốc từ quý tộc trong cơ chế bầu
cử. Do vậy, không nên tiếp thu và vận dụng mọi tinh thần, tư tưởng của J.
Locke và Ch.S. Montesquieu bất chấp sự khác biệt và hạn chế của họ. Có thể
chúng ta tiếp thu những luận điểm riêng biệt tiến bộ, phù hợp phong tục, tập
quán, văn hóa Việt Nam chứ khơng thể vận dụng một cách máy móc được.
Bởi lẽ, như đã nói ở trên điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cũng như phong
tục, tập quán, văn hóa của chúng ta khác với các nước khác. Hơn nữa, tương
quan giữa các giai cấp, cũng như tương quan trong mỗi giai cấp ở nước ta
cũng khác.
C. KẾT LUẬN
Tam quyền phân lập là nội dung học thuyết của Montesquieu, trong đó
phân chia quyền lực nhà nước cho ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Mục đích là để tạo cơ chế nội bộ giám sát, ngăn ngừa sự lạm quyền trong bộ
máy nhà nước. Trong thực tế, tư tưởng về việc phân chia quyền lực trong tổ
chức nhà nước đã được đề cập bởi một số nhà triết học khác, bao gồm John
Locke, và đã được áp dụng (ở mức độ nhất định) từ thời La Mã cổ đại. Tuy
nhiên, chỉ đến Montesquieu thì tư tưởng này mới được phát triển thành một
học thuyết độc lập, hoàn chỉnh. Học thuyết tam quyền phân lập được áp dụng
một cách phổ biến trong hiến pháp của các nước tư sản (mà điển hình là Hiến
pháp Hoa Kỳ). Dựa trên học thuyết này, hiến pháp của các nước tư sản giao
quyền lập pháp cho nghị viện (là cơ quan đại diện được bầu ra bằng tuyển cử,
được coi là biểu hiện ý chí chung của quốc gia), quyền hành pháp cho chính
phủ (là cơ quan có trách nhiệm thực thi luật pháp đã được nhà nước ban
hành), quyền tư pháp cho toà án (để phán xử những vi phạm pháp luật). Bên
cạnh đó, tuỳ quốc gia, hiến pháp cịn có nhiều quy định về mối quan hệ ràng
buộc giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ví dụ, theo Hiến pháp
Hoa Kỳ, Nghị viện có quyền thơng qua luật nhưng để có hiệu lực phải được
Tổng thống ký phê chuẩn. Ngược lại, Tổng thống có quyền ký kết các điều
ước quốc tế nhưng phải được Thượng viện phê chuẩn. Từ sau vụ Marbury
kiện Madison, nhánh tư pháp ở Hoa Kỳ có quyền xem xét các đạo luật đã
được ban hành liệu có vi hiến hay khơng?
Tính đến nay, sự phân quyền và ràng buộc theo học thuyết tam quyền
phân lập tạo ra cơ chế nội bộ hữu hiệu nhất để các nhánh quyền lực nhà nước
giám sát, kiềm chế và đối trọng nhau, ngăn ngừa sự lạm quyền; đồng thời vẫn
bảo đảm những mối liên hệ cần thiết giữa các nhánh quyền lực bị chia tách để
những cơ quan này có thể cộng tác với nhau vì lợi ích chung của đất nước…
Chính vì vậy, không chỉ hiến pháp các nước tư sản mà hiến pháp của hầu hết
quốc gia trên thế giới hiện nay đều được xây dựng dựa theo lý thuyết tam
quyền phân lập, dù mức độ và cách thức áp dụng ít.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lịch sử tư tưởng chính trị - xuất bản 2019
2. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật – nhà xuất bản chính trị
quốc gia sự thật
3. Link: thuyet-tam-quyen-phan-lap.aspx