Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học LS TTCT tư tưởng chính trị hồ chí minh và các giá trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.03 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
NỘI DUNG ......................................................................................................4
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH............................................................................ 4
1.1 Khái quát chung về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh .................................4
1.2. Nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh................................................. 5
CHƯƠNG II: Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH................................................................................ 12
2.1. Bối cảnh hình thành .................................................................................12
2.2. Nguồn gốc hình thành............................................................................. 13
2.3. Qúa trình hình thành và phát triển........................................................... 16
CHƯƠNG III: CÁC GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
HỒ CHÍ MINH............................................................................................... 25
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam ...................................25
3.2. Giá trị quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh............................................... 26
KẾT LUẬN ....................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 30


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vơ cùng kính u của dân tộc Việt
Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa lớn của thế giới. Cả cuộc
đời của Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, về phẩm chất,
phong cách của người chiến sỹ cộng sản, luôn lo trước nỗi lo của nhân dân,
vui sau niềm vui của nhân dân.
Di sản của Người - tư tưởng Hồ Chí Minh là kho tàng quý báu của
Đảng và dân tộc Việt Nam. Được hình thành và phát triển, đáp ứng đòi hỏi tất
yếu khách quan của dân tộc và thời đại, của với thực tiễn ngày nay, tư tưởng
Hồ Chí Minh vẫn ln có giá trị bền vững và đúng đắn.


Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính
thống của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được
chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Việt Nam cùng các quan điểm chính thống ở Việt Nam hiện nay đều
thống nhất đánh giá Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo
Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và coi tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng sản Việt
Nam và của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành
động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí
Minh ở tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Với tầm quan trọng như vậy, em xin lựa chọn đề tài “TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC GIÁ TRỊ” làm đề tài hết môn cho môn
học Lịch sử tư tưởng chính trị nhằm tìm hiểu thêm về quá trình hình thành và
phát triển cùng với nội dung của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

1


2.1. Mục đích nghiên cứu: Tiểu luận tìm hiểu, nghiên cứu về quá trình
hình thành và phát triển của nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh. Từ đó
thấy được giá trị, ý nghĩa của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đối với nhân
loại
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận có những nhiệm vụ chính sau:
+ Chỉ ra một số vấn đề lý luận chung va nội dung của tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh
+ Đưa ra q trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh

+ Thấy được ý nghĩa và giá trị mà tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
mang lại cho Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu trong các tài liệu, giáo
trình, văn bán,.. có thơng tin về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, văn bản
liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng
- Nghiên cứu tài liệu kinh điển.
- Nghiên cứu giáo trình, sách báo, các cơng trình có liên quan.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2


5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
5.1. Y nghĩa lý luận: Bài tiểu luận đưa ra những lý luận chung về tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh và nội dung, quá trình hình thành phát triển của
tư tưởng Hồ Chí Minh
5.2. ý nghĩa thực tiễn: Từ lý luận, bài tiểu luận chỉ ra được những giá trị

và ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đối với Việt Nam
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài mục lục, tài liệu tham khảo, mở đầu và kết luận thì bài tiểu luận
được chia làm 3 chương:
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG III: GIÁ TRỊ VÀ Ỹ NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
HỒ CHÍ MINH

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
1.1 Khái quát chung về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
1.1.1 Khái niệm tư tưởng chính trị
Theo các tài liệu ghi nhận tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý
thức, là những biểu hiện các mối quan hệ giữa con người với những vấn đề về
thế giới xung quanh. Trong những nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, khái
niệm tư tưởng được đề cập đến mang ý nghĩa khái quát triết học.
Tư tưởng là ý thức của một cá nhân, một cộng đồng. Nó chứa một hệ
thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền
tảng triết học. Các khái niệm mang tính nhất quán, những quan điểm đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của cá nhân, giai cấp, một dân tộc được hình thành
trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo
hiện thực. Quan điểm về tư tưởng xuất phát từ những ý tưởng của những nhà
tư tưởng có tầm nhìn cao. Khơng phải ai có ý tưởng đều được coi là nhà tư

tưởng, bởi lẽ theo nhà bác học Lênin cho rằng người đó phải biết cách giải
quyết được những vấn đề chính trị, sách lược, tổ chức.
Tư tưởng chính trị nằm ở trong tư tưởng. Là những tư tưởng để xây
dựng một đất nước n bình. Nó nằm trong các tư tưởng của những người đi
trước. Tư tưởng chính trị nó là sách lược để đất nước ta chống lại quân giặc.
Tư tưởng chính trị bị đốt, bị chơn nhưng vẫn sống trong lịng người dân.
1.1.2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ
Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam
tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,từ cách mạng dân tộc dân chủ

4


nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại.
“...Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung
chủ yếu sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời
đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam
trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên
xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội
chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
1.2. Nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
1.2.1. Tư tưởng về vấn đề dân tộc, mối quan hệ dân tộc - giai cấp và
cách mạng giải phóng dân tộc.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề
dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp
5


nhuần nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất
và tổng thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai
cấp thống nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai
cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và
trong tồn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp cơng
nhân. Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn
bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác
ngộ dân tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp cơng nhân
và dân tộc. Với Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh

đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh
công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện
bằng con đường bạo lực cách mạng.
1.2.2. Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, nhiều nhà tư tưởng
đã khơng nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội.
Thế hệ các nhà yêu nước mà hai cụ Phan là tiêu biểu đã nhận thức được điều
đó, song cái ý thức hệ tư sản mà các cụ tiếp thu đã trở nên lạc hậu ở phương
Tây. Hồ Chí Minh khơng chỉ nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của
việc thay đổi xã hội, mà còn tiếp thu được hệ tư tưởng vô sản làm nền tảng
cho việc xây dựng một xã hội mới của dân, do dân, vì dân và mang một nội
dung nhân văn sâu sắc. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa, vì theo Người, chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo vững chắc cho một nền độc lập thật sự và đưa
lại hạnh phúc, tự do thật sự cho nhân dân.

6


Hồ Chí Minh cịn nêu lên cách hiểu của mình về chủ nghĩa xã
hội, về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, một cách hiểu thật giản dị, phổ
cập, nhưng lại rất sâu sắc và thiết thực: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân
giầu nước mạnh"; “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy", "xây dựng chủ nghĩa
xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội khơng cịn
người bóc lột người, khơng cịn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh
phúc”. Người cịn nêu ra tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng
đối tượng xã hội, như "việc làm cho mọi người", "ốm đau có thuốc chữa",
"già yếu thì được nghỉ", "ai cũng được học hành", "những phong tục tập qn
khơng tốt dần dần được xóa bỏ",... Người khẳng định: "Cuộc cách mạng xã

hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta
phải xây dựng một xã hội hoàn tồn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử
dân tộc ta”. Do vậy, "không thể làm mau được mà phải làm dần dần". Thực tế
lịch sử cách mạng Việt Nam, từ những thập niên đầu thế kỷ XX cho đến nay,
đã chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đó là hồn tồn
đúng đắn.
1.2.3. Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc.
Từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn trong phong trào giải
phóng dân tộc và cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “ Đoàn
kết, đoàn kết, đại đồn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Tư
tưởng về đại đoàn kết của Người đã được phát huy cao độ trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam, từ trong nội bộ Đảng đến toàn thể dân tộc. Người chỉ
rõ: Nếu chỉ đồn kết trong Đảng thì chưa đủ, mà Đảng cịn phải đồn kết
xung quanh mình tồn thể dân tộc thì cách mạng mới thành cơng. Người chủ
trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân mà cốt lõi là liên minh công nông, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không phân biệt ai, miễn là
người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc. Người viết: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp
7


nhân dân..., phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng
tiến bộ..., phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc...,
phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào tôn giáo, cùng nhau
xây dựng đời sống hoà thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”. Hồ Chí Minh hiểu
rõ đồn kết dân tộc và đồn kết quốc tế có quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ
với nhau.
1.2.4. Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp
vơ sản, Hồ Chí Minh thường xun quan tâm xây dựng, củng cố liên minh

chiến đấu giữa phong trào cơng nhân chính quốc với phong trào giải phóng
dân tộc thuộc địa nhằm phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để
đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Với Người, “Quan sơn muôn dặm một nhà.
Bốn phương vô sản đều là anh em”. Mở rộng khối đại đồn kết quốc tế trên
cơ sở của tình hữu ái vơ sản, có lý, có tình, Người đã thực hiện quan điểm
thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Theo Người, mở rộng khối đồn kết là tìm thấy
những người bạn quốc tế dân chủ và tiến bộ của dân tộc. Có thể nói, tư tưởng
về sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính của dân tộc với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân đã trở thành một trong những
đặc điểm mới của tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung cho tư tưởng về độc lập
dân tộc của Người và đưa tư tưởng ấy lên ngang tầm thời đại.
1.2.5. Tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng
và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu
sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Người
khẳng định Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu để lãnh đạo nhân dân tiến
hành thắng lợi cơng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước
và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong
8


trào yêu nước Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân cũng đồng thời là
Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”
và phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai
cấp vô sản. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” thật trung
thành của nhân dân và do vậy, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi
mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức để xứng đáng là “Đảng của đạo đức và
văn minh”.
1.2.6. Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Theo Hồ Chí Minh, nếu vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng là vấn
đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ, nó thuộc về
ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. Chính vì vậy mà trên hành trình đi tìm một
mơ hình nhà nước tiến bộ cho dân tộc sau khi giành được độc lập, Người đã
khảo sát những mơ hình nhà nước ở các châu lục trên thế giới, vận dụng sáng
tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin và đi đến quyết định
lựa chọn mơ hình nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Trong nhà nước ấy, mọi lợi ích, quyền hạn, lực lượng đều ở nơi dân và
có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng nhân với tính nhân dân và tính
dân tộc.
1.2.7. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người khơng những đã để lại
những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn là hiện thân mẫu mực của những
hành vi đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống
đạo đức của dân tộc Việt Nam, những giá trị của tư tưởng đạo đức phương
Đông và phương Tây, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách
mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam. Nền đạo đức mới mang bản chất của
giai cấp công nhân được gọi là đạo đức cách mạng. Đạo đức là gốc, là nguồn,
là nền tảng, bởi người cách mạng phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp.
9


Đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đơi với nhau. Điều đó cho
thấy, theo Hồ Chí Minh, đạo đức là vấn đề mang tính tồn diện ở mọi con
người, biểu hiện tập trung thông qua ba mối quan hệ: đối với mình, đối với
người và đối với công việc. Người thường xuyên nhắc nhở chúng ta cần nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
1.2.8. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.

Với Hồ Chí Minh, “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng; Cay đắng chi
bằng mất tự do”. Từ nhận thức đó, Người quyết tâm ra đi tìm một hệ tư tưởng
mới đủ sức giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội Việt Nam. Tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa một cách sáng tạo
những giá trị nhân văn truyền thống, những giá trị nhân văn trong lịch sử
nhân loại, đặc biệt là tinh thần khoa học, cách mạng của chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản ở các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin. Với lòng yêu thương vô
hạn và sự cảm thông sâu sắc đối với mọi nỗi đau khổ của con người, Người
kiên quyết đấu tranh, tố cáo những tội ác gây ra cho con người và đặt niềm tin
mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá, vào khát vọng vươn tới Chân, Thiện, Mỹ
của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng. Trên cơ sở của niềm tin mãnh liệt vào con người, Hồ Chí
Minh nguyện phấn đấu suốt đời cho hạnh phúc của con người trong một xã
hội công bằng và coi chiến lược trồng người là chiến lược hàng đầu của cách
mạng.
1.2.9. Tư tưởng văn hố Hồ Chí Minh.
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng
tạo và phát minh ra những phương tiện và công cụ cho sinh hoạt hàng ngày
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống của họ. “Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hố”. Chính vì vậy, theo Người, văn hố có vị trí, vai
trị, tính chất và chức năng quan trọng, to lớn trong đời sống xã hội; văn hoá
phải soi đường cho quốc dân đi, phải làm cho ai cũng có lý tưởng độc lập, tự
10


chủ và có ý thức đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa
xỉ. Người chỉ rõ ba lĩnh vực chính của văn hố là văn hố giáo dục, văn hoá
văn nghệ và văn hoá đời sống. Mỗi lĩnh vực của văn hố lại có vị trí, chức
năng và nhiệm vụ riêng, song việc cải tạo, sửa đổi cái cũ và việc xây dựng,

sáng tạo, phát minh cái mới luôn là những vấn đề bức thiết, vấn đề thời sự của
cuộc sống.

11


CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Bối cảnh hình thành
2.1.1.Tình hình quốc tế
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chỉ chín nước
đế quốc đã chi phối tồn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á,
châu Phi và châu Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc của chúng.
Nhân dân các nước thuộc địa bị chủ nghĩa thực dân tước hết những giá trị văn
hoá, tinh thần, quyền lợi kinh tế và địa vị xã hội… Mạng sống của người dân
thuộc địa “không đáng một trinh”. Cùng với mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư
bản - mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh một
mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc
thực dân. Mâu thuẫn này ngày càng gay gắt. Vì vậy, từ đầu thế kỷ XX phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa ngày càng phát triển, nhưng
chưa ở đâu giành được thắng lợi.
Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác
thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin là một nhân tố
đặc biệt quan trọng đối với việc ra đời và phát triển của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Chủ nghĩa đế quốc và sự tranh chấp thuộc địa giữa chúng là nguyên
nhân gây ra cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Cuộc chiến
tranh hao người tốn của ấy đã khơi sâu, làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa các
nước tư bản chủ nghĩa, làm cho chủ nghĩa tư bản thế giới suy yếu, tạo điều

kiện cho Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga giành được thắng lợi.
Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, mở ra thời đại mới của lịch sử loài người thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế

12


giới. Đồng thời, Nhà nước Xôviết ra đời làm nảy sinh một mâu thuẫn mới
mang tính thời đại - mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Những nhân tố quốc tế nêu trên đã tạo những tiền đề và điều kiện cơ
bản thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt
Nam phát triển với xu hướng và tính chất mới.
2.1.2. Tình hình Việt Nam
Giữa thế kỷ XIX (1858), Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập
đã bị chủ nghĩa tư bản Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã
hội Việt Nam hai giai cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Dưới ách
thống trị của thực dân Pháp, bị mất độc lập tự do, nhân dân ta khơng ngừng
nổi lên chống lại chúng.
Kể từ khi triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt (6-6-1884) chịu
sự bảo hộ của đế quốc Pháp, trừ một số ít người cam tâm làm tay sai cho giặc,
còn đại đa số nhân dân vẫn nung nấu ý chí căm thù và chờ thời cơ vùng lên tự
giải phóng. Lớp lớp sĩ phu và đồng bào yêu nước đã liên tục đứng lên chiến
đấu giành lại độc lập. Song, những kinh nghiệm lịch sử chống ngoại xâm
không phát huy được tác dụng trước một kẻ thù mới - chủ nghĩa đế quốc. Các
phong trào kháng chiến đều bị dìm trong máu, lửa. Sau thất bại của phong
trào Cần Vương và các phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản, đất nước
lâm vào tình trạng khủng hoảng đường lối. Cả dân tộc chìm đắm trong đêm
dài nơ lệ, tưởng chừng như khơng có đường ra.
Từ những bối cảnh quốc tế và trong nước nêu trên, Hồ Chí Minh ra đi
tìm đường cứu nước và từng bước hình thành tư tưởng của mình, đáp ứng đòi

hỏi bức thiết của dân tộc và thời đại.
2.2. Nguồn gốc hình thành
2.2.1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam

13


Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh
dũng chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đồn kết, sống có
tình, có nghĩa, nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân
tộc.
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo
lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần
của con người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lịng
nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn
sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ
Chí Minh) đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy
nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó
cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa
phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”
2.2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại: phương Đông và phương Tây
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của
văn hố phương Đơng. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư
tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách
mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.

Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy
vốn là những nhà Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình
cảm của Người khơng phải là những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường”
nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến, mà tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu
thân”, sự ham học hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hồ nhã”, cách đối nhân xử thế
“có lý, có tình”. Những mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải giai
14


huynh đệ”, “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, phương châm “khắc
kỷ phục lễ”,... của các nhà hiền triết phương Đơng được Hồ Chí Minh hết sức
trân trọng. Trong khi tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo,
Người cũng đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của nó.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm
nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng
Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung
Quốc)... Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy
lên một trình độ mới phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ
Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hố phương Đơng phương Tây,
nâng lên một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận mácxít - lêninnít.
2.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến
nhiều nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian
đó, Hồ Chí Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn
dấu đằng sau các từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên
Người đã nghe. Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm
quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội của nước Pháp và nhiều nước
trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp (SFIO),
một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II.

Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và
trở thành người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản
trong tư tưởng của Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã
giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư
tưởng, đường lối các cuộc cách mạng một cách khoa học; cùng với kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con dường cách mạng giải
phóng dân tộc đứng đắn.

15


Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự
hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2.4. Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con
người sáng tạo ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Ngay từ khi
còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hồi bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lịng
nhân ái và sớm có chí cứu nước, tự tin vào mình.
Tư chất thơng minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và
nhạy bén với cái mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn
Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động,
giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống phức
tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái qt hình thành những
luận điểm đúng đắn và sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng
như mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh mới
chỉ được bắt đầu nghiên cứu, tuy vậy, đến nay đã có tới mấy chục khái niệm
về tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa
học căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng

Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước lao kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
2.3. Qúa trình hình thành và phát triển
2.3.1. Từ nhỏ đến khi ra đi tìm đường cứu nước trước tháng 6/1911
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh
nước mất, nhà tan. Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước từ thuở
nhỏ, Hồ Chí Minh đã hấp thụ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, nền
văn hiến của nước nhà và những tinh hoa văn hố phương Đơng, Người lại

16


được hưởng nền giáo huấn yêu nước, thương nòi của gia đình, truyền thống
đấu tranh bất khuất của đất Lam Hồng.
Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành nên ở người
thanh niên Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lịng u nước, nhân ái,
thương người, có hoài bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí độc
lập tự cường của dân tộc. Vốn có tư chất thơng minh, linh khiếu chính trị sắc
sảo, với ý chí lớn tìm đường cứu nước, cứu dân. Người khơng đi theo con
đường phong kiến, lối mịn của các bậc tiền bối. Người nói: “Vào trạc tuổi 13,
lần đầu tiên tơi nghe những tiếng Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”. Thế là tôi
muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau
những từ mĩ miều ấy. Vì thế tơi nảy ra ý muốn sang xem “Mẫu quốc” ra sao
và tôi tới Pari để học hỏi”.
Hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là tri thức ban đầu
rất quan trọng về văn hố Đơng - Tây và lịng u nước nhiệt thành với chí
hướng rõ rệt: trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà
yêu nước lớp trước.
2.3.2. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở
thành người cộng sản (1911 - 1920)

Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người cịn
đến nhiều nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế
quốc như Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi.
Cuộc hành trình vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn những khổ
đau của nhân loại là các nước đế quốc “chính quốc”.
Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối
năm 1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười nổ ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình
sâu sắc với cuộc cách mạng ấy và với lãnh tụ Lênin.
Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở
Vécxây (Pháp). Thực chất của hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc
17


địa được dấu dưới những lời lẽ “tự do”, “công bằng”, “nhân đạo”, theo
chương trình 14 điều của Uynxơn - Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ.
Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái
Quốc đã gửi đến hội nghị “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các cường
quốc thừa nhận quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Qua
hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: ““Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là
một trò bịp bợm lớn” ; các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào
sức lực của bản thân mình. Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn
lộn tìm đường cứu nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm
thấy những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình. Người
viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị
đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta”. Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con đường cứu nước của

mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vơ sản, gắn giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp vơ sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo
quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin
sáng lập (3-1919).
Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với
việc Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá
trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người - chủ
nghĩa yêu nước chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vơ sản chân chính.
2.3.3. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
Những năm bơn ba, lăn lộn trong phong trào yêu nước, phong trào công
nhân “chính quốc” và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ
xã hội và tri thức của mình. Nhờ thơng hiểu nhiều ngoại ngữ và giao tiếp rộng
với nhiều bạn bè quốc tế mà Người tiếp thu được kiến thức cổ, kim, đông, tây,
18


nắm được cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do tích cực tham gia các hoạt
động quốc tế và các buổi sinh hoạt lý luận bàn về chiến lược sách lược cách
mạng thế giới, qua thực tiễn công tác, tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách
mạng, Hồ Chí Minh đã tích lũy được nhiều tri thức cách mạng, dần dần trong
tư duy của Người hình thành nên một luận điểm đúng đắn: Giải phóng dân tộc
gắn liền với giải phóng giai cấp vơ sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng
nhân loại. Cũng từ đó, lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến, đã từng bước hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm
vụ của Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân…, Hồ
Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của mình về nước
chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng cộng sản ở Việt Nam. Các bài viết trên
báo Người cùng khổ (1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí
Cộng sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế, các tác phẩm Bản án chế

độ thực dân Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927),… của Hồ Chí Minh là
những cơng cụ quan trọng trong việc giáo dục những người Việt Nam yêu
nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền thống thành yêu nước theo lập
trường cách mạng vô sản.
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, do việc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin của Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng Việt Nam có những
chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng theo xu hướng tư tưởng tư sản
đã xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất của đội Việt
Nam cách mạng thanh niên (5-1929) ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời:
Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (9-1929) và
Đông Dương Cộng sản liên đồn (l-1930).
Trước tình hình ở Đơng Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày
28-11-1929, Quốc tế Cộng sản đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng
sản Đông Dương. Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã
chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1930.
19


Hội nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ
Chí Minh soạn thảo.
Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng. Trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận
định Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, “vì tư bản Pháp hết sức
ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thế mở mang được”…
“nông nghệ một ngày một tập trung... nông dân thất nghiệp nhiều”. Đánh giá
về giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp địa chủ, Chánh cương vắn tắt có sự phân
biệt rõ ràng: “Tư bản bản xứ khơng có thể lực gì ta khơng nên nói cho họ đi
về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe
đế quốc chủ nghĩa”. Đây là một sự đánh giá hết sức khách quan, chân thực,

không hề bị chi phối của tư tưởng giáo điều hay “tả” khuynh. Từ thực tế đó,
Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”.
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc
điểm của xã hội, sắp xếp đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá nhân
trong lực lượng cách mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn
quyền lãnh đạo cách mạng.
Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
2.3.4. Thời kỳ Hồ Chí Minh gặp những khó khăn, thử thách và sự kiên
định của Người về cách mạng Việt Nam (1930-1941)
Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện Việt Nam. Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn đề
thuộc lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng
như Quốc tế Cộng sản có đề cập nhưng chưa đi sâu. Hơn nữa, vào cuối những
20


năm 20, nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế bị chi phối bởi những sai lầm tả khuynh, tư tưởng biệt phái, hẹp
hịi. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Quốc tế
Cộng sản (9-1928).
Mặt khác, Quốc tế Cộng sản vì khơng sát tình hình các nước thuộc địa,
nên đã phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra.
Tuy bị phê phán, song đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh đã được
thực tiễn chứng minh là đúng đắn. Đó là cơ sở để Thường vụ Trung ương ra
chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh (18-l l-1930), tiếp đó là Chỉ thị về
vấn đề thanh Đảng ở Trung kỳ (20-5-1931). Những chỉ thị này đã uốn nắn

quan điểm xa rời thực tiễn Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy được sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế trong sứ mệnh đoàn
kết toàn dân đưa cách mạng đến thắng lợi.
Phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), trước nguy cơ
của chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã
nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm “tả” khuynh trong Nghị quyết Đại
hội VI của mình, thì những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam, về đoàn kết các lực lượng cách mạng chống đế quốc đã trình
bày trong Cương lĩnh mới được Quốc tế Cộng sản thừa nhận.
Cuối tháng 9-1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người
về công tác ở Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 Hồ
Chí Minh vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung về nước. Đây là
điều kiện thuận lợi để Hồ Chí Minh biến tư tưởng của mình thành sức mạnh
quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi.
2.3.5. Thời kỳ Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, thời kỳ phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh (1941-1969).
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của đảng về cơ bản
là thống nhất.

21


Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị trung ương
lần thứ 8 của Đảng. Quan điểm chủ đạo của hội nghị này là nêu cao vấn đề
giải phóng dân tộc coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu
gọi: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đảng cứu giống nịi rút
khỏi nước sơi lửa nóng”. Đồng thời, ngày 19-5-1941, Hồ Chí Minh sáng lập
ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, không phân
biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tơn giáo v.v... nhằm đồn kết mọi lực lượng

yêu nước chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Nghị quyết hội nghị Trung
ương lần thứ 8 và Chương trình của Việt Minh cùng với Kính cáo đồng bào
của Hồ Chí Minh ngày 6-6-1941, là những chủ trương, chính sách hợp lịng
dân đã quy tụ tồn dân dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa
Cách mạng tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc bản Tun ngơn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) tuyên bố
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Đó là nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đơng Nam Á. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền về nhà
nước của dân, do dân, vì dân có bước phát triển mới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự
chủ tự lập tự cường của dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư
tưởng Hồ Chí Minh ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhân dân ta hưởng độc lập chưa được bao ngày thì thù trong giặc ngồi
câu kết với nhau đẩy nước nhà lâm vào cảnh “nghìn cân treo sợi tóc”… Dưới
sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai với chủ trương vừa kháng chiến
vừa kiến quốc.
Tháng 2-1951, cuộc kháng chiến đang trên đà thắng lợi, Hồ Chí Minh
và Ban Chấp hành trung ương đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng. Đại hội khẳng định đường lối do Hồ Chí Minh vạch
22


ra từ ngày thành lập Đảng, tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng
chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”.
Đường lối đúng đắn mà Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng vạch ra
đã dắt dẫn nhân dân ta tiến lên làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động
địa cầu, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi tồn
thế giới. Hồ bình được lập lại nhưng đất nước bị chia cắt làm hai miền với

hai chế độ chính trị khác nhau. Nắm vững bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ
Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã sớm xác định kẻ thù chính của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là chủ nghĩa đế quốc Mỹ; đồng thời vạch
ra đường lối cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: miền Nam tiếp
tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ; miền Bắc đã được hồn tồn giải
phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử,
một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã
thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản. Trong điều
kiện ấy tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
Trước thất bại của chiến tranh đặc biệt, năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển
sang chiến lược chiến tranh cục bộ. Chúng ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào
miền Nam, tăng cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên
miền Bắc, hòng khuất phục quân và dân ta. Trước hành động leo thang xâm
lược hết sức tàn bạo của đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng có
thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến
tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy
bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay
chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt
Nam anh hùng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu
hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá,
song nhân dân Việt Nam quyết khơng sợ! Khơng có gì q hơn độc lập, tự do.
Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn” .
23


Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, đồng bào và chiến sĩ cả nước phát
huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng giữ vững lòng tin tưởng tuyệt đối
với Người và Trung ương Đảng, nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho tồn Đảng, tồn

dân, tồn quân ta bản Di chúc thiêng liêng. Trong Di chúc, Người đã nói lên
niềm tin tất thắng vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước; tổng kết sâu sắc những
bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời đề ra
những phương sách lớn để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực
hiện mục tiêu: “Xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới” .
Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy nhiệt huyết, thắm đượm
tình người của Chủ tịch Hồ Chí Minh; một di sản tư tưởng vô cùng quý báu
của dân tộc và nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát triển cùng chiều với quá trình
phát triển của xã hội Việt Nam và thời đại. Khi đã phát triển hoàn chỉnh về cơ
bản, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối
chính trị đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí
Minh là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc và nhân loại.

24


×