Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài tập lớn tìm hiểu thuật ngữ luật gia và luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.42 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Trang


A. MỞ ĐẦU
Pháp luật là một yếu tố không thể thiếu trong mỗi xã hội, mỗi nhà nước, việc
am hiểu pháp luật hay chỉ là biết về pháp luật cũng là một điều cần thiết vì vậy nghề
luật sư hình thành trên thế giới từ rất sớm. Ở Việt Nam, hoạt động luật sư đã có từ
trước Cách mạng tháng 8/1945. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, bộ máy tư
pháp được tổ chức lại. Chỉ hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ
chức đoàn thể luật sư. Nghề luật sư khơng cịn xa lạ đối với chúng ta nhưng đôi khi
nhầm giữa hai thuật ngữ: luật gia và luật sư. Vậy hai thuật ngữ này là gì? Lịch sử hình
thành nghề luật sư ở Việt Nam như thế nào? Vai trò của nghề này ở nước ta ra sao? Để
trả lời những câu hỏi này, em chọn đề tài số 04: “Tìm hiểu thuật ngữ luật gia và luật
sư. Lịch sử và vai trò của nghề luật sư ở Việt Nam” để nghiên cứu, giải đáp thắc mắc
trên.

2


NỘI DUNG
1. Phân biệt thuật ngữ “ Luật sư” và “Luật gia”
Hai thuật ngữ “luật gia” và “luật sư” hiện nay ở Việt Nam vẫn còn được hiểu
khác nhau và cịn có sự nhầm lẫn. Ngun nhân của hiện tượng này một mặt là do hệ
thống luật pháp nói chung và các nghề nghiệp về tư pháp ở Việt Nam nói riêng chưa
phát triển; mặt khác có hiện tượng này cũng một phần do việc dịch các thuật ngữ có
liên quan trong ngơn ngữ nước ngồi chưa chuẩn xác, chưa thống nhất.
“Luật sư” là “thành viên của một đoàn luật sư, làm nghề giúp đỡ về mặt pháp lý
cho cá nhân hoặc tổ chức theo hợp đồng hoặc theo chỉ định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong một số trường hợp. Luật sư tham gia tố tụng để bào chữa cho bị


can, để bênh vực bị cáo, các đương sự, thay mặt cho người bị hại trước tòa án và có
thể làm một số dịch vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. Công dân Việt Nam có
phẩm chất đạo đức và đủ các điều kiện về kiến thức pháp lý theo quy định của pháp
luật được một đồn luật sư kết nạp có thể trở thành luật sư sau một thời gian tập sự”.1
“Luật gia” là “người có kiến thức pháp lý, chuyên nghiên cứu về luật, luật học
hoặc làm các công tác pháp luật ở các cơ quan nhà nước, các tổ chức nghề nghiệp:
Luật gia tư vấn…(xt. Hội Luật gia Việt Nam)”2
Về điểm giống nhau thì Luật sư và Luật gia đều là những người có cơng việc
liên quan tới lĩnh vực pháp luật. Còn hai thuật ngữ này khác nhau ở những điểm sau:
1.1.
Về điều kiện trở thành Luật sư, Luật gia
- Đối với Luật sư: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo
nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành
nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư (Điều 10 Luật luật sư năm 2006).
- Đối với Luật gia: Theo Điều 4 Điều lệ Hội luật gia Việt Nam năm 2010 thì:
Cơng dân Việt Nam có phẩm chất đạo đức tốt, đã hoặc đang làm công tác pháp luật
trong cơ quan, tổ chức Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
B.

1 Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1999), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển

bách khoa, Hà Nội, tr. 294.
2 Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1999), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển

bách khoa, Hà Nội, tr. 286.

3



kinh tế, tổ chức văn hoá, tổ chức giáo dục, đơn vị vũ trang nhân dân với thời gian từ
ba năm trở lên, tán thành điều lệ Hội đều có thể được gia nhập Hội. Cơng dân Việt
Nam khơng có điều kiện hoặc không đủ tiêu chuẩn trở thành hội viên chính thức của
Hội, tán thành Điều lệ Hội, có cơng đóng góp cho Hội và tự nguyện xin vào Hội có
thể được cơng nhận là Hội viên danh dự.
Do đó điểm khác biệt chính giữa Luật sư và Luật gia trong nội dung này là:
- Luật gia có thể là người hiện đang làm cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước, cịn Luật sư thì khơng.
- Luật sư có thể là Luật gia nếu xin gia nhập Hội luật gia, nhưng Luật gia thì
chưa hẳn đã là Luật sư, nếu muốn phải trải qua quá trình đào tạo, trừ các trường hợp
đặc biệt được miễn theo quy định của Luật luật sư.
1.2.
Về tổ chức tham gia
- Đối với luật sư: 1. Đoàn luật sư là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tổ chức và hoạt động theo Luật này và Điều lệ
của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Đồn luật sư có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài
khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải bằng nguồn thu từ phí thành viên,
các khoản đóng góp của thành viên và các nguồn thu hợp pháp khác. 2. Tại mỗi tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có từ ba người có Chứng chỉ hành nghề luật sư trở
lên thì được thành lập Đồn luật sư. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương cho phép thành lập Đồn luật sư sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp. 3. Đồn luật sư khơng được ban hành nghị quyết, quyết định, nội quy, quy
định về phí, khoản thu và các quy định khác trái với quy định của pháp luật và Điều lệ
của Liên đoàn luật sư Việt Nam. 4. Thành viên của Đoàn luật sư là các luật sư. Quyền
và nghĩa vụ của thành viên Đoàn luật sư do Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam
quy định. ( Điều 60 Luật luật sư 2006 sửa đổi bổ sung 2012).
- Đối với luật gia: Hội luật gia là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp của
Luật gia do các Luật gia tự nguyện tham gia; nguồn thu tài chính của Hội từ: Hội phí,
Kinh phí do Nhà nước cấp và hỗ trợ theo quy định, Các khoản thu khác do hoạt động

của Hội mang lại, Các khoản tặng, tài trợ của cá nhân, tổ chức (Điều 24 Điều lệ Hội
luật gia Việt Nam năm 2010); Hội Luật gia được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở bao
gồm: Hội Luật gia Việt Nam; Hội Luật gia cấp tỉnh; Hội Luật gia cấp huyện; Chi hội
Luật gia cơ sở (Điều 8 Điều lệ Hội luật gia Việt Nam năm 2010).
4


Như vậy có thể thấy rõ sự khác biệt về tổ chức tham gia của Luật sư và Luật gia
là: Tổ chức tham gia của Luật sư là Đoàn luật sư hoạt động trên nguyên tắc tự trang
trải kinh phí, còn của Hội luật gia là do Nhà nước cấp hoặc hỗ trợ kinh phí hoạt động,
chủ yếu để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Nhà nước.
1.3.
Về quyền và nghĩa vụ trong hoạt động nghề nghiệp
- Đối với luật sư: Luật sư sau khi có chứng chỉ hành nghề có thể chủ động đăng
ký hành nghề với tư cách cá nhân, mở Văn phịng luật sư , Cơng ty luật (TNHH, hợp
danh) để hoạt động trong và ngoài nước hoặc làm việc theo dạng hợp đồng lao động
cho các cơ quan, tổ chức.
Luật sư là chủ thể được tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính, cung cấp dịch vụ pháp lý, tư vấn pháp luật cho khách hàng với tư cách Luật sư.
Được thỏa thuận thù lao với khách hàng trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý (trừ vụ
án hình sự phải theo quy định của Nhà nước).
Luật sư được khuyến khích đăng ký trợ giúp pháp lý khơng thu thù lao hoặc
làm cộng tác viên với Trung tâm trợ giúp pháp lý, Trung tâm tư vấn pháp luật.Do hoạt
động của Luật sư tuân theo Luật luật sư nên họ có quyền chủ động, độc lập trong hoạt
động nghề nghiệp của mình, tuy nhiên cũng bị ràng buộc bởi rất nhiều quy định về
nghĩa vụ và những việc không được làm. Luật sư hoạt động độc lập, tự chịu trách
nhiệm trong hành nghề, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất mà Luật
sư gây ra cho khách hàng; trách nhiệm vật chất của Luật sư là trách nhiệm vô hạn
( trừ trường hợp Luật sư đăng ký hoạt động theo hình thức Cơng ty Luật TNHH).
- Đối với Luật gia: Luật gia là tên gọi khi tham gia làm Hội viên Hội luật gia.

Luật gia khơng có chứng chỉ hành nghề, ngồi cơng việc chính tại các cơ quan, tổ
chức họ có thể tham gia hoạt động nghề nghiệp tại Trung tâm trợ giúp pháp lý với vai
trò cộng tác viên hoặc là tư vấn viên, cộng tác viên tại các Trung tâm tư vấn pháp luật.
Việc hoạt động nghề nghiệp này của Luật gia tuân theo Luật trợ giúp pháp lý và Nghị
định của Chính phủ về hoạt động tư vấn pháp luật.
Luật gia chỉ được tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, dân sự, hành chính,
cung cấp dịch vụ pháp lý, tư vấn pháp luật theo sự phân công của Trung tâm trợ giúp
pháp lý hoặc Trung tâm tư vấn pháp luật với tư cách là Bào chữa viên nhân dân, Trợ
giúp viên pháp lý, cộng tác viên Trợ giúp pháp lý hoặc Tư vấn viên pháp luật.
5


Luật gia không được thực hiện dịch vụ pháp lý có thu thù lao với tư cách cá
nhân. Mọi hoạt động của Luật gia phải thông qua nơi cộng tác hoặc tham gia là Trung
tâm trợ giúp pháp lý hoặc Trung tâm tư vấn pháp luật của Hội luật gia. Vì vậy trường
hợp những Hội viên mang danh nghĩa Luật gia để tự ý thực hiện các dịch vụ pháp lý
với khách hàng mà không thông qua Trung tâm là khơng đúng với quy định, có thể
ảnh hưởng tới uy tín, danh dự của Hội luật gia.
Tóm lại qua các nội dung trên, chúng ta có thể thấy rõ sự khác nhau giữa Luật
sư và Luật gia, đặc biệt là trong lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp của Luật sư và Luật
gia. Luật sư hồn tồn có quyền chủ động trong hoạt động nghề nghịêp của mình với
tư cách Luật sư cịn Luật gia phụ thuộc vào sự phân cơng của Trung tâm nơi mình là
cộng tác viên hoặc tham gia là tư vấn viên pháp luật. Chúng ta có thể nói Luật sư là
một nghề, cịn Luật gia là hoạt động chính trị - xã hội mang tính tự nguyện, kiêm
nhiệm của tất cả những ai có hiểu biết nhất định về pháp luật và sinh hoạt trong tổ
chức Hội luật gia.
2. Lịch sử của nghề luật sư tại Việt Nam
2.1.
Giai đoạn 1858 – 1945
Sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26/11/1876 người Pháp đã ban hành Nghị định

về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại Tịa án
Pháp. Từ đó nghề luật sư mới chính thức xuất hiện ở nước ta, cịn trước đây, việc xét
xử của chính quyền phong kiến Việt Nam do vua, quan phong kiến thực hiện mà
khơng có sự bào chữa, bảo vệ.
Năm 1884, sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, Toàn
quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội gồm các luật
sư người Pháp và người Việt đã nhập quốc tịch Pháp. Các luật sư chỉ biện hộ trước
Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp. Sau đó, với Sắc lệnh ngày
30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam khơng có quốc tịch
Pháp được làm luật sư. Tiến thêm một bước, nhà cầm quyền Pháp ký Sắc lệnh ngày
25/5//930 về tổ chức Luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Sắc lệnh này đã
mở rộng cho các luật sư không chỉ biện hộ ở tịa án Pháp mà cả trước Tồ án Việt
Nam; khơng chỉ bào chữa cho người có quốc tịch Pháp mà cả người khơng có quốc
tịch Pháp.
6


Giai đoạn 1930 - 1945 là thời kỳ bùng nổ nghề luật sư ở Việt Nam khi các luật
sư du học tại Pháp trở về nước, cùng với một số lượng đông đảo những người được
đào tạo ngành luật tại Trường Đại học Đông Dương, Hà Nội. Các luật sư tên tuổi thời
kỳ này có thể kể đến là Phan Văn Trường (1876-1933), Trịnh Đình Thảo (1901-1986),
Phan Anh (1912-1990), Trần Cơng Tường (1915-1990), Trương Đình Dzu (19171991), Vũ Trọng Khánh (1912-1996), Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996), Nguyễn Mạnh
Tường (1909-1997), Nguyễn Văn Hưởng (1910-2001);….
Trong thời gian gần 80 năm hình thành và phát triển, kể từ năm 1876 đến năm
1955, thiết chế luật sư và hệ thống pháp luật của Pháp đã du nhập vào Việt Nam với
những nguyên tắc pháp lý hoàn toàn mới mẻ so với quan niệm luật pháp truyền thống
của phương Đông vốn tồn tại hàng ngàn năm dưới ảnh hưởng của Khổng giáo qua các
triều đại phong kiến. Có thể nói rằng, việc Jean Baptiste Paul Beau cho phép mở
Trường Cao đẳng Luật và Pháp chính đã đặt viên gạch đầu tiên cho một nền luật học
dựa trên những nguyên tắc pháp lý theo quan niệm phương Tây, được hiểu bao gồm

các hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới lúc đó là hệ thống Luật Dân sự (Civil
Law) của khối châu Âu lục địa, hệ thống Thông luật (Common Law) của khối AngloSaxon và hệ thống Luật xã hội chủ nghĩa (Sovietique) của Liên Xô.3
2.2.
Giai đoạn 1945 – 1954
Khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân thì bộ máy
tư pháp nước ta cũng được tổ chức lại. Chỉ hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng đầu chính
quyền mới đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc
lệnh số 46/SL duy trì tổ chức luật sư cũ trong đó có sự vận dụng linh hoạt các quy
định pháp luật cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân
chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 khẳng định
quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, cụ thể Điều 67 của
Hiến Pháp quy định "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Do hoàn cảnh lịch sử với cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ kế tiếp
nhau, toàn dân ta đã phải tập trung sức người, sức của cho nhiệm vụ cứu nước. Với
điều kiện đó, tổ chức luật sư khơng thể duy trì. Nhiều luật gia, luật sư đã ra mặt trận,
3 Ngô Văn Hiệp (2014), “Lịch sử hình thành nghề luật sư”, Luật sư Việt Nam (7).

7


lên chiến khu hoặc tham gia vào hoạt động tư pháp tại các vùng do chính quyền ta
kiểm sốt, nghề luật sư giai đoạn này gặp mn vàn khó khăn. Nhưng sự coi trọng
việc bảo đảm quyền bào chữa trước Toà án của bị cáo đã được ghi trong Hiến pháp và
được cụ thể và mở rộng hơn chủ thể tham gia bào chữa được ghi nhận tại Sắc lệnh số
69/SL ngày 18/6/1949 quy định nguyên cáo, bị cáo có thể nhờ một công dân không
phải là luật sư bênh vực cho mình. Để cụ thể hóa Sắc lệnh này Bộ Tư pháp đã ban
hành Nghị định số 01/NĐ – VY ngày 12-01-1950 quy định về bào chữa viên để phù
hợp với điều kiện Việt Nam khi đó, thể hiện mục tiêu của nhà nước dân chủ cộng hòa
là xây dựng một nền tư pháp công bằng, dân chủ của chế độ mới. Thực hiện quy định

của pháp luật về bào chữa viên, trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đội ngũ bào chữa viên đã được
hình thành và ngày càng phát triển. Bên cạnh các luật sư đã tham gia kháng chiến, cịn
có nhiều luật sư, luật gia đã làm việc trong bộ máy chế độ cũ cũng hăng hái gia nhập
đội ngũ bào chữa viên của chế độ mới.
2.3.
Giai đoạn từ năm 1954 đến nay
Tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền bào chữa và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà năm 1959 (Điều 101) đã quy định "Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo
đảm"; tiếp đó Hiến pháp nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 ngoài
việc khẳng định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, còn quy định việc thành lập tổ
chức luật sư để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thực hiện quy định của Hiến pháp, ngày 31/10/1983 Bộ Tư pháp ban hành
Thông tư số 691/QLTPK về công tác bào chữa, trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn,
điều kiện làm bào chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thành lập một Đoàn bào chữa viên để tập hợp các luật sư đã được công nhận trước
đây và các bào chữa viên, đến cuối năm 1987 trên cả nước đã có 30 Đồn bào chữa
viên với gần 400 thành viên. Riêng Đoàn luật sư TP.Hà Nội thành lập năm 1984 và có
16 luật sư thành viên.
Năm 1986, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã tác động sâu rộng
đến mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng
được ban hành theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, tăng cường bảo đảm quyền
8


bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án và các cơ
quan tiến hành tố tụng khác.
Khi bước sang nửa cuối thập niên 90, đất nước ta bước vào giai đoạn quan
trọng của q trình đổi mới, trong đó nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ chế thị

trường, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế
ngày càng trở lên sâu sắc, ở mức độ cao hơn.
Để đáp ứng nhu cầu mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành. Nội
dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật
sư ở nước ta theo hướng chính quy hố, chun nghiệp hố đội ngũ luật sư, nghề luật
sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở
pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam. Chỉ sau 5 năm thi
hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc
biệt, trong 5 năm đó các luật sư đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn
phòng luật sư, các cơng ty luật hợp danh. Các Đồn luật sư được xây dựng lại và củng
cố để làm đúng chức năng của tổ chức xã hội-nghề nghiệp tự quản của các luật sư.
Hoạt động hành nghề của luật sư cũng được tăng lên đáng kể về phạm vi và chất
lượng. Có thể nói, Pháp lệnh luật sư năm 2001 là văn bản mở đầu cho q trình
chun nghiệp hố và hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam, đã tạo một bộ
mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư ở nước ta.
Không dừng lại ở đó, cùng với bước phát triển và những u cầu mới của xu
thế tồn cầu hố, cơng cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta đã có những
bước phát triển nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan trọng mang tính chất đột
phá. Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã tạo ra vị thế và những
cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ quan trọng là phải
chuyển đổi hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng cơ chế vận hành theo lộ trình phù
hợp với các cam kết khi gia nhập WTO. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Nhà nước
ta đã ban thành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật khơng
cịn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thơng qua ngày 29/6/2006 và
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007.
Sự kiện Luật Luật sư được ban hành và đi vào đời sống đã góp phần nâng cao
vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng một đội ngũ luật
sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với luật sư và nghề luật sư ở các
9



nước tiên tiến trên thế giới. Có thể nói, Luật Luật sư là mốc son đánh dấu một bước
phát triển vượt bậc của pháp luật về luật sư ở Việt Nam, và qua đó mở ra nhiều triển
vọng mới mẽ cho nghề luật sư.
Ngày 04/02/2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký
kết giữa 12 nước thành viên gồm: Hoa Kỳ, New Zealand, Nhật Bản, Canada, Úc,
Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, Peru, Singapore và Việt Nam. Hiệp định này sẽ tạo
ra khu vực tự do thương mại lớn nhất thế giới với 790 triệu dân, có quy mô kinh tế
chiếm 40% GDP thế giới và 33% thương mại toàn cầu. Đây là một hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới, được kỳ vọng trở thành hình mẫu cho phát triển thương mại khu
vực và thế giới với yêu cầu cao hơn trong bối cảnh lực lượng sản xuất phát triển rất
nhanh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Cùng với quá trình hội nhập, nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng tăng về số
lượng đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cao hơn về chất lượng. Một mặt, nhu cầu tăng do
có sự gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp trong các giao dịch của doanh nghiệp
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Mặt khác, nhu cầu cũng đến từ nhiều doanh
nghiệp trong nước do có sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp trong nước, sự
chuyển biến rõ rệt trong nhận thức chung về vai trò của luật sư và sự cần thiết của
dịch vụ pháp lý trong hoạt động kinh doanh. Ở cấp độ quốc gia, luật sư có thể đóng
góp vào q trình đàm phán các hiệp định, điều ước quốc tế, tham gia vào các vụ
tranh tụng quốc tế với chủ thể là các cơ quan nhà nước, các hiệp hội. Ở cấp độ doanh
nghiệp, nhu cầu về hoạt động của luật sư rất đa dạng, từ các dịch vụ tư vấn pháp lý
cho giao dịch quan trọng phức tạp của doanh nghiệp, đến các hoạt động tranh tụng tại
tịa án hoặc trọng tài quốc tế.
Chính sách và pháp luật về cải cách tư pháp và phát triển nghề luật sư trong
thời gian qua đã tạo cơ sở chính trị và pháp lý vững chắc và điều kiện thuận lợi cho
hoạt động hành nghề luật sư: Từ Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012). Tác động
quan trọng và dễ nhận thấy nhất đó là những chuyển biến của thị trường dịch vụ pháp
lý, thể hiện qua sự phát triển về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề, số lượng vụ

việc có luật sư tham gia. Đây là hệ quả từ những quy định rõ ràng và theo hướng mở
hơn của Luật Luật sư, về việc gia nhập đoàn luật sư, tập sự, hành nghề, đào tạo nghề
luật sư và hoạt động tham gia tranh tụng. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
10


Chiến lược phát triển luật sư đến năm 2020 và Đề án Phát triển đội ngũ luật sư phục
vụ hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2010 - 2020, đặt ra những mục tiêu, nhiệm vụ
và giải pháp cụ thể cho việc phát triển nghề luật sư nói chung và phát triển đội ngũ
luật sư phục vụ hội nhập.
Lấy phát triển đội ngũ luật sư hội nhập quốc tế làm trung tâm trong xây dựng
nghề luật sư ở Việt Nam trong bối cảnh nước ta sẵn sàng vươn ra làm bạn với tất cả
các nước trên thế giới. Nhanh chóng đưa hoạt động pháp lý của luật sư Việt Nam một nhu cầu thường xuyên trong đời sống chính trị, kinh tế, ngoại giao trở thành địa
chỉ tin cậy của cộng đồng xã hội và người nước ngồi, góp phần vào tiến trình cải
cách tư pháp, cải cách hành chính, phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc
tế.
3. Vai trò của nghề luật sư tại Việt Nam
Luật sư và nghề luật sư đang là một nghề trỗi dậy, trở thành một trong các yếu
tố không thể thiếu được trong phát triển kinh tế thị trường cũng như xây dựng Nhà
nước pháp quyền; ít có một nghề nghiệp nào lại có được vị trí và vai trò như vậy trong
xã hội. Đội ngũ luật sư ngày càng tham gia tích cực vào các vụ án chỉ định theo yêu
cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng; cũng như trợ giúp pháp lý miễn phí. Hoạt động
của luật sư dần mang tính chun nghiệp, hình thành đội ngũ luật sư tranh tụng các vụ
án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính; tham gia tư vấn cho doanh nghiệp,
xây dựng và tuyền truyền pháp luật. Đặc biệt là việc hình thành đội ngũ luật sư tham
gia tư vấn và tranh tụng quốc tế. Tính chun mơn hóa và chun nghiệp hóa của đội
ngũ luật sư đã được khẳng định và từng bước được củng cố, tạo lập sự uy tín trong
việc cung cấp dịch vụ pháp lý với cộng đồng xã hội.
Đội ngũ luật sư ở tất cả các cấp từ Trung ương tới địa phương cũng đã được tin
tưởng mời tham gia vào các ban soạn thảo và tổ biên tập để góp ý xây dựng các văn

bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Năm 2012, Liên đoàn luật sư Việt Nam cũng
đã đóng góp tích cực trong việc sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư 2006, Bộ Luật Tố tụng
Hình sự, Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự, Luật Hơn nhân và Gia đình, tham gia vào
Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn III với việc rà sốt thủ tục hành chính ở
3 lĩnh vực: chứng thực, quốc tịch, xuất nhập cảnh... Qua đó, góp phần tích cực vào sự
nghiệp bảo vệ công lý, xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế - xã hội,
hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
11


C.

KẾT LUẬN

Trên đây là phần trình bày của em về việc tìm hiểu về thuật ngữ “luật gia” và
“luật sư” cũng như lịch sử hình thành và vai trị của nghề luật sư trong xã hội Việt
Nam. Nghề luật sư có vai trị to lớn trong xã hội, khi xã hội ngày càng phát triển thì
nghề luật sư sẽ càng được coi trọng hơn. Việt Nam đang trong thời kì phát triển hội
nhập quốc tế chính vì thế luật sư sẽ trở thành yếu tố không thể thiếu trong xã hội
tương lai.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điều lệ Hội luật gia Việt Nam năm 2010.
2. Hiệp Ngô Văn Hiệp (2014), “Lịch sử hình thành nghề luật sư”, Luật sư Việt Nam
(7).
3. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1999), Từ điển
luật học, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

4. Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012.

13



×