Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

bài tập nhóm ưu thế của pháp luật so với các loại công cụ khác để điều chỉnh quan hệ xã hội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.26 KB, 6 trang )

MỤC LỤC


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

LỜI MỞ ĐẦU
Khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, các công cụ quản lý
xã hội khác như tập quán, đạo đức, tín điều tơn giáo,… khơng cịn đủ khả năng
duy trì được trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong điều
kiện như vậy, để xã hội tồn tại và phát triển, nhà nước cần sử dụng một công cụ
điều chỉnh xã hội khác để quản lí xã hội một cách hiệu quả hơn. Bằng những ưu
thế vượt trội so với các công cụ điều chỉnh xã hội khác, pháp luât được nhà nước
chọn nhằm duy trì và bảo vệ trật tự xã hội.
Trong bài tiểu luận này, nhóm chúng em xin được đề cập đến vấn đề “Ưu
thế của pháp luật so với các loại công cụ khác để điều chỉnh quan hệ xã hội”.

NỘI DUNG
1.

Hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội.

Các quan hệ xã hội rất phong phú và phức tạp, bởi vậy để điều chỉnh
chúng một cách hiệu quả cần có hệ thống cơng cụ điều chỉnh quan hệ xã hội. Hệ
thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội là tổng thể các loại qui phạm xã hội
được hình thành do nhu cầu của đời sống để điều chỉnh hành vi con người, điều
chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì và bảo vệ trật tự xã hội. Các công cụ điều
chỉnh quan hệ xã hội bao gồm: pháp luật, đạo đức, phong tục tập qn, tín
điều tơn giáo, luật tục, hương ước, quy định các tổ chức xã hội ...


Pháp luật là hệ thống qui tắc xử sự chung mang tính bắt buộc do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã
hội theo mục đích, định hướng của nhà nước.
Đạo đức: Trong khoa học đạo đức được hiểu là tổng thể những quan
niệm, quan điểm về chân, thiện, mỹ, nghĩa vụ, danh dự… (trong đó cốt lõi là
điều thiện) cùng những qui tắc xử sự được hình thành trên cơ sở những quan
niệm, quan điểm đó nhằm điều chỉnh hành vi, ứng xử của con người, chúng
được bảo đảm thực hiện bởi lương tâm, tình cảm cá nhân và sức mạnh của dư
luận xã hội. Đạo đức không chỉ là những qui tắc đối nhân, xử thế, nó cịn là các
chuẩn mực để mỗi người tự tu thân, dưỡng tâm, rèn luyện tính cách theo những
định hướng giá trị nhất định. Ví dụ: Lễ phép chào hỏi người lớn tuổi, con cái có
hiếu với cha mẹ, anh em hòa thuận, yêu thương nhau.
Phong tục, tập quán: Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa, “phong tục” là
thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội được mọi người công nhận và làm theo,
“tập quán” là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và

2


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

sinh hoạt thường ngày, được mọi người cơng nhận và làm theo. Ví dụ: phong tục
thờ cúng ông bà, tổ tiên, phong tục tập quán về cưới hỏi, ma chay, …
Hương ước là những giao kèo, thỏa thuận, qui ước của cộng đồng thôn,
làng. Nói cách khác, hương ước là tổng thể các qui tắc xử sự điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong phạm vi một thôn, làng.
Luật tục: “Luật tục” là tất cả những qui tắc xử sự mang tính chất dân

gian, đó là luật của dân gian, là hình thức sơ khai, tiền thân của luật pháp và chỉ
có ở các tộc người thiểu số trong xã hội tiền giai cấp. Luật tục là những phong
tục có dáng dấp của pháp luật vì vậy luật tục cịn được gọi là tập qn pháp.
Tín điều tơn giáo là một khái niệm chung dùng để chỉ giáo lý, giáo luật
của các tôn giáo, tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư. Mỗi tơn giáo có thể có
tên gọi riêng để chỉ hệ thống qui định của mình. Ví dụ: Kito giáo gọi là Giáo
luật, Phật giáo gọi là Giới Luật, Hồi giáo gọi là Luật Hồi giáo (Shariah).
Kỉ luật của một tổ chức là tổng thể những qui định có tính chất bắt buộc
đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức, để đảm bảo tính chặt
chẽ của tổ chức đó. Ví dụ: Điều lệ Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nội
quy của trường học, …
2. Ưu thế của pháp luật so với các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác.
Trong xã hội hiện nay, pháp luật trở thành công cụ gần như tốt nhất, quan
trọng và có hiệu quả nhât dùng để điểu chỉnh các mối quan hệ xã hội cũng như
quản lý xã hội. Đặc biệt, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền thì vị trí, vai trị pháp luật càng chiếm vị trí đứng đầu trong hệ thống
các cơng cụ điểu chỉnh quan hệ xã hội. Cho nên pháp luật có những ưu thế vượt
trội hơn so với các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác là:
Một là, pháp luật mang tính quyền lực nhà nước. Đây là đặc trưng duy
nhất chỉ có ở pháp luật mà khơng có ở bất kì cơng cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
nào khác, do pháp luật được hình thành bằng con đường nhà nước và pháp luật
thể hiện ý chí của nhà nước: “Thực hiện pháp luật được xem là hình thức để Nhà
nước thể hiện quyền lực của mình và Nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của mình, quản lý và bảo vệ xã hội” 1. Trong điều kiện xã hội có sự khác biệt,
thậm chí là mâu thuẫn về lợi ích thì đạo đức, phong tục tập qn, tín điều tơn
giáo,… khơng thể điều chỉnh một cách có hiệu quả. Trong điều kiện đó, phải
dùng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước mới có thể thiết lập được trật
tự, mới duy trì được sự ổn định của đời sống: Pháp luật được nhà nước bảo đảm
1 Nguyễn Minh Đoan (2010), “Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
13.


3


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

thực hiện bằng chính sức mạnh của mình với các biện pháp mang tính quyền lực
nhà nước, đặc biệt là biện pháp cưỡng chế. Nhà nước có riêng một bộ máy để
chuyên thực thi biện pháp này (như cảnh sát, quân đội, nhà tù, tồ án…). Trong
khi đó, nhiều thể chế phi quan phương khơng có thiết chế chun nghiệp để đảm
bảo thực hiện hoặc nếu có thì một mặt, bản thân các thiết chế đó khơng thể có
sức mạnh như nhà nước, mặt khác, các biện pháp cưỡng chế của nó cũng khơng
nghiêm khắc như cưỡng chế nhà nước. Ví dụ: Một người khi vi phạm pháp luật
sẽ bị phạt hành chính hoặc phạt tù thậm chí là tử hình nhưng nếu người đó vi
phạm đạo đức sẽ chỉ bị lên án, phê phán bởi dư luận xã hội, lương tâm, …
Hai là, pháp luật có tính quy phạm phổ biến hơn những công cụ điều
chỉnh khác, không chỉ tới mọi tổ chức, cá nhân còn tới mọi miền lãnh thổ, mọi
địa phương trên toàn quốc. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong hầu hết các lĩnh vực cơ bản của đời sống. Trong khi đó, các cơng cụ điều
chỉnh quan hệ xã hội khác chỉ có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối
với một bộ phận dân cư hoặc tác động tới một khu vực lãnh thổ nhất định và
điều chỉnh các quan hệ trong một lĩnh vực nhất định.Ví dụ trong Bộ luật hình sự:
"Điều 5:Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên nước
CHXHCN Việt Nam: 1.Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm
tội thực hiện trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam. 2.Đối với người nước
ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam được hưởng các quyền
miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự trên pháp luật Việt

Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam kí kết hoặc tham
gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải
quyết bằng con đường ngoại giao”. Ngoài ra, pháp luật tham gia điều chỉnh các
quan hệ xã hội một cách thường xuyên liên tục, hàng ngày, hàng giờ. Còn các
loại quy phạm xã hội khác chỉ tham gia điều chỉnh quan hệ xã hội trong những
dịp hoặc thời điểm nhất định.
Ba là, pháp luật tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách thường
xuyên, liên tục, hàng ngày, hàng giờ. Còn các loại quy phạm xã hội khác chỉ
tham gia điều chỉnh quan hệ xã hội trong những dịp hoặc thời điểm nhất định.
Ví dụ pháp luật điều chỉnh hành vi con người tham gia giao thơng qua cột đèn
tín hiệu giao thông. Khi tham gia giao thông đường bộ đến ngã ba ngã tư, đến
đấy ai cũng phải quan sát, đèn xanh thì đi tiếp, đèn đỏ thì dừng lại, đèn vàng thì
đi chậm lại.
Bốn là, pháp luật có tính hình thức xác định chặt chẽ nhất. Pháp luật được
thể hiện trong những hình thức xác định: tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản
4


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

quy phạm pháp luật. Ngôn ngữ pháp luật thể hiện trong văn bản thường một
nghĩa, rõ ràng, cụ thể, không trừu tượng, chung chung. Do đó, thơng qua pháp
luật, các cá nhân, tổ chức trong xã hội nắm bắt được một cách đầy đủ nhất,
chính xác nhất, rõ ràng nhất các hành vi được phép, các hành vi bắt buộc, các
hành vi bị cấm cũng như cách thức, trình tự, thủ tục thực hiện các hành vi, …từ
đó có đầy đủ cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi. Ngược lại, các thể chế phi
quan phương thường khơng có sự xác định về hình thức. Phong tục tập quán thể

hiện dưới dạng hành vi mẫu; đạo đức, tín ngưỡng dân gian chủ yếu được truyền
miệng dưới dạng tục ngữ, ca dao, … Chính vì vậy, để nhận thức và thực hiện
những quy tắc đó một cách chính xác, thống nhất là một khó khăn rất lớn đối với
mọi người.
Năm là, pháp luật có cơ chế điều chỉnh, hình thành và phát triển xuất phát
từ nhu cầu quản lý xã hội, là sự kết hợp giữa các khách quan (do nhu cầu điều
chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội) và cái chủ quan (phụ thuộc vào
ý chí nhà nước, ý chí của các chủ thể pháp luật). Do vậy, cơ chế điều chỉnh pháp
luật là cơ chế sống động, nó ln biến đổi cùng với sự phát triển của đời sống xã
hội và nhu cầu hoàn thiện, nâng cao hiệu quả việc điều chỉnh bằng pháp luật đối
với các quan hệ xã hội. Ngược lại, đạo đức, phong tục tập qn, tín điều tơn
giáo, …thường có q trình hình thành và biến đổi khá chậm chạp, là tư tưởng
trong xã hội nên khó thay đổi. Nhiều tín điều tơn giáo đã hình thành cách đây
hàng nghìn năm nhưng khơng hề có sự thay đổi, thậm chí là bất di bất dịch.
Sáu là, pháp luật mang tính hệ thống. Đây là một đặc điểm khơng chỉ có ở
pháp luật, tuy nhiên tính hệ thống của pháp luật có ưu thế hơn cả.
-Tính hệ thống trước hết được hiểu theo khía cạnh của sự rành mạch:
pháp luật hệ thống ở chỗ các quy định pháp luật được chia và sắp xếp rất rõ ràng
và chi tiết theo các đơn vị cấu tạo từ trên xuống như ngành luật, bộ luật, luật,
phần, chương, điều, khoản… Nếu hiểu theo khía cạnh này thì một số cơng cụ
khác cũng có tính hệ thống, tuy nhiên, tính hệ thống của pháp luật vượt trội hơn
ở chỗ nó có phạm vị hệ thống rộng và mức độ hệ thống cao hơn cả.
Ví dụ: Các tín điều tôn giáo cũng được hệ thống rất chặt chẽ theo cấu tạo
từ trên xuống dưới thành các hệ thống kinh điển, tín điều đồ sộ, đầy đủ tuy nhiên
trong một đất nước thường có rất nhiều tơn giáo và các tơn giáo này khơng hề có
sự thống nhất, thậm chí cịn có thể xung đột lẫn nhau. Cịn pháp luật chỉ có một
và thống nhất hồn tồn trên phạm vi cả quốc gia -> pháp luật được hệ thống
trên phạm vi lớn hơn cả
5



Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

-Tính hệ thống dưới khía cạnh về sự thống nhất và có mối liên hệ chặt
chẽ:
+Tất cả các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp dưới đều
phải phù hợp với văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên và khơng
trái với Hiến Pháp. Do đó, giữa các điều luật, các văn bản pháp luật và các
ngành luật không xuất hiện sự mâu thuẫn. Chúng luôn được thống nhất từ trên
xuống dưới
+Mặc dù bản thân pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự chung, các
nguyên tắc, các định hướng…để điều chỉnh nhiều loại quan hệ xã hội phát sinh
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống như dân sự, kinh tế, lao động đất đai,
…, song các quy định pháp luật không hề có hề có sự biệt lập. Ngược lại, giữa
chúng ln tồn tại một mối liên hệ nội tại, mật thiết, thống nhất, thúc đẩy chúng
kết hợp, cộng hưởng với nhau để cùng tạo nên và phát triển hệ thống pháp luật.
Cịn các cơng cụ điều chỉnh khác cũng điều chỉnh rất nhiều mặt của đời
sống xã hội, tuy nhiên, giữa các quy định trên từng lĩnh vực khơng có mối liên
kết với nhau. Ví dụ: Các phong tục tập quán trong việc cưới hỏi và việc ma chay
không hề liên quan đến nhau.

KẾT LUẬN
Pháp luật không phải công cụ vạn năng, công cụ duy nhất để điều chỉnh
quan hệ xã hội mà cịn có những cơng cụ khác. Tuy nhiên, pháp luật tỏ ra là một
công cụ điều chỉnh xã hội ưu thế hơn cả. Do đó, cho đến thời điểm hiện tại thì
pháp luật là cơng cụ hiệu quả nhất và là công cụ không thể thay thế để tổ chức
và quản lý xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh của đời

sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới.

6



×