Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Địa vị pháp lý của thẩm phán trong luật tổ chức 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (0 B, 11 trang )

MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN.............3
CHƯƠNG II: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG LUẬT TỔ CHỨC
2014............................................................................................................................ 4
1. Thẩm phán được phân định theo ngạch............................................................6
2. Quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán.............................................................7
3. Chế độ, chính sách đối với Thẩm phán.............................................................7
4. Một số điểm mới liên quan đến chức năng, quyền hạn của thẩm phán.............8
C. PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................10
Danh mục tài liệu tham khảo....................................................................................11


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn học kỳ

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam đang thực hiện tiến trình cải cách tư pháp. Điều này tạo cho
ngành Toà án Việt Nam nhiều cơ hội song cũng đặt ra nhiều thách thức. Nghị
quyết 49-NQ/TW về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 do Bộ Chính trị
ban hành ngày 02/6/2005 xác định Tòa án giữ vai trò trung tâm trong hệ thống tư
pháp, hoạt động của Tòa án là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Quy định của
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp năm 2013) về Tòa
án nhân dân được thực hiện trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Cải cách tư pháp ở nước ta trong cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước. Gắn liền với hoạt động của Tòa án là Thẩm phán, thẩm phán là
một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then chốt trong q trình cải
cách tư pháp nói chung, đặc biệt là việc thực hiện các mục tiêu mà Nghị quyết đã đề


ra. Luật Tổ chức tòa án được Quốc hội thông qua vào cuối năm 2014 vừa qua là một
trong văn bản Luật được ban hành sớm nhất để cụ thể hóa các nguyên tắc, các qui
định của Hiến pháp năm 2013. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 có khá nhiều
điểm mới và đặt trong bối cảnh hiện tại cũng có thể được coi là những bước đột phá
đầu tiên hướng đến một hệ thống tòa án độc lập theo tinh thần của Hiến pháp 2013,
được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành các quy định của Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm
2002 và Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 nhằm khắc phục những hạn chế,
vướng mắc, bất cập, kế thừa những quy định còn phù hợp; đồng thời, tham khảo có
chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về tổ chức và hoạt động của Tòa
án, về chế định Thẩm phán. Trong đó, địa vị pháp lý của Thẩm phán là một mắt xích
khơng thể thiếu, khơng những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận
về hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của các chức danh tư pháp
nói riêng mà cịn góp phần xây dựng các văn bản pháp luật về Tòa án, về thẩm
phán cũng như việc hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của ngành Tòa án. Do
vậy, những quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong Luật tổ chức
2014 là nội dung cần thiết góp phần thực hiện thành công cuộc cải cách tư pháp
ở nước ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

2


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn học kỳ

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
Ở nước ta, thẩm phán được coi là một chức danh từ năm 2002 và được ghi
nhận bằng cơ sở pháp lý tại pháp lệnh thẩm phán và hội đồng nhân dân năm 2002:

Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét
xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án (Điều 1),
còn trở về trước thẩm phán chỉ được coi là một chức vụ. Công việc xét xử của
Thẩm phán được coi là một nghề, nghề xét xử. Thẩm phán còn được hiểu theo
nghĩa là một chức danh tư pháp. Trong các chức danh tư pháp thì Thẩm phán
được xác định là một chức danh tư pháp quan trọng và có ý nghĩa quyết định
đến việc thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm địa vị pháp lý
của Thẩm phán là tổng thể các quy định của pháp luật về vị trí, vai trị, quyền và
nghĩa vụ pháp lý của thẩm phán khi tiến hành các hành vi tố tụng được pháp luật
quy định. Từ khái niệm trên, chúng ta có thể nhận thấy, nội hàm địa vị pháp lý của
thẩm phán được phản ánh và thể hiện ở những phương diện:
 Các quy định của pháp luật về vị trí, vai trị của Thẩm phán
trong tố tụng nói chung.
 Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán trong tố tụng nói chung.
Thẩm phán là những người có vai trị chủ yếu trong cơng tác xét xử.
Khác với các công việc khác, để đưa ra được một phán quyết thấu tình đạt lý,
Thẩm phán phải huy động nhiều tố chất trong một con người. Đó là sự am hiểu về
pháp luật, sự hiểu biết về thực tế, tích luỹ kiến thức về xã hội, tâm sinh lý của
từng cá thể, lương tâm của người Thẩm phán. Thẩm phán luôn giữ vai trò trung
tâm trong hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của Thẩm phán là những yêu cầu cụ thể do
Nhà nước đặt ra đối với chức danh thẩm phán. Nhiệm vụ của Thẩm phán còn được
hiểu là trách nhiệm, là nghĩa vụ pháp lý mà Thẩm phán phải thực hiện trong hoạt
động xét xử
Công việc xét xử của Thẩm phán là một loại lao động đặc biệt, khi xét xử, Thẩm
phán không nhân danh cá nhân hay Hội đồng xét xử mà nhân danh Nhà nước để
định tội danh, hình phạt trong các vụ án hình sự, để phân định đúng, sai trong các vụ
việc, tranh chấp dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh thương mại, hơn nhân gia
đình. Khi xét xử, người Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc
nhất định, trong đó nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất là độc lập, chỉ tuân theo

pháp luật. Để bảo đảm cho Thẩm phán theo ngun tắc nêu trên địi hỏi phải có
những điều kiện nhất định khơng chỉ về trí tuệ, tâm lý mà cả về chế độ, chính sách

3


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn học kỳ

đối với họ.
CHƯƠNG II: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG LUẬT TỔ
CHỨC 2014
Ngày 28-11-2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 6 đã thơng qua Hiến pháp mới, trong đó quy định Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp; có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp, nhiều nội dung quan trọng về vị trí,
vai trị, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, về Thẩm
phán Tòa án nhân dân đã được bổ sung, sửa đổi tại khoản 3 Điều 88 1, các điều 102,
103, 104, 105 và 1062. Đây là những nội dung lớn, cần được cụ thể hóa trong Luật tổ
chức Tòa án nhân dân để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của Tòa án nhân dân xứng
1 Khoản 3 Điều 88 Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn

nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn
cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tịa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tịa án
khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào
nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá.

2 Điều 102 Hiến pháp quy định:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Điều 103 Hiến pháp quy định:
1. Việc xét xử sơ thẩm của Tịa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục
rút gọn.
2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
3. Tịa án nhân dân xét xử cơng khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong,
mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của
đương sự, Tịa án nhân dân có thể xét xử kín.
4. Tịa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.
Điều 104 Hiến pháp quy định:
1. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định.
3. Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp
luật trong xét xử.
Điều 105 Hiến pháp quy định:
4


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn học kỳ


tầm là cơ quan được giao thực hiện quyền tư pháp, thực sự là chỗ dựa của nhân dân
về công lý, góp phần tích cực vào việc bảo vệ và khơi phục những quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm.
Ngày 24/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 (Quốc hội khóa XIII). Quốc hội đã thơng
qua Luật Tổ chức Tịa án nhân dân 2014. Luật chính thức có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/6/2015 và thay thế cho Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002. Với 11
chương, 98 điều, luật cơ bản thay đổi một số nội dung như quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của TAND; về Thẩm phán, Hội thẩm và các
chức danh khác trong TAND; về bảo đảm hoạt động của TAND.
Chương VII của Luật Tổ chức tịa án nhân dân 2014 gồm có 19 điều, từ Điều
65 đến Điều 83, quy định về: Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán; Các ngạch Thẩm
phán; Tiêu chuẩn Thẩm phán; Điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán
trung cấp, Thẩm phán cao cấp; Điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao; Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia; Nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia; Thủ tục phê chuẩn, bổ nhiệm
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp,
Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp; Nhiệm kỳ của Thẩm phán; Chế độ, chính
sách đối với Thẩm phán; Trách nhiệm của Thẩm phán; Những việc Thẩm phán không
được làm; Điều động Thẩm phán; Luân chuyển Thẩm phán; Biệt phái Thẩm phán;
Miễn nhiệm Thẩm phán; Cách chức Thẩm phán; Thủ tục miễn nhiệm, cách chức
Thẩm phán.
Trong Chương này, các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán;
tiêu chuẩn, điều kiện và trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán đã được bổ sung, sửa
đổi để đáp ứng yêu cầu nâng cao tiêu chuẩn, trách nhiệm, quyền hạn của Thẩm phán
nhằm xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh theo yêu cầu cải cách tư
pháp và phù hợp với quy định của Hiến pháp mới về việc Tòa án nhân dân được giao
thực hiện quyền tư pháp; Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn
và Chủ tịch nước bổ nhiệm; Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán các Tòa án khác;
kéo dài hơn nhiệm kỳ của Thẩm phán để khắc phục những hạn chế, bất cập của quy

1. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định.
2. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời
gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo cơng tác của Chánh án các Tịa án khác do luật định.
3. Việc bổ nhiệm, phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc bầu, nhiệm kỳ
của Hội thẩm do luật định.
Điều 106 Hiến pháp quy định:
Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

5


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn học kỳ

định về nhiệm kỳ Thẩm phán hiện nay. Bên cạnh đó, Luật quy định chỉ thành lập một
Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán do Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm
Chủ tịch Hội đồng để bảo đảm chất lượng đồng đều giữa các ứng viên được tuyển
chọn, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm
phán, đáp ứng yêu cầu luân chuyển, điều động, biệt phái Thẩm phán giữa các địa
phương, khu vực trong cả nước; đồng thời, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, tư cách
đạo đức, lối sống của Thẩm phán để bảo đảm các Thẩm phán thực sự là chỗ dựa của
nhân dân về công lý; kịp thời phát hiện những Thẩm phán thối hóa, biến chất, vi
phạm đạo đức, không làm đúng trách nhiệm của Thẩm phán để kiến nghị xem xét
miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán. Cụ thể như sau:
1. Thẩm phán được phân định theo ngạch
Luật quy định có 4 ngạch Thẩm phán (Điều 66) gồm: (i) thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao; (ii) thẩm phán cao cấp; (iii) thẩm phán trung cấp và (iv) thẩm phán sơ
cấp. Việc phân định này thực sự sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc thay đổi cách hiểu
máy móc về vai trị và vị trí của thẩm phán. Cách gọi và cách hiểu có phần mặc
định như trước đây là thẩm phán tỉnh, thẩm phán huyện vơ hình trung đã địa
phương hóa chức danh này. Thẩm phán dù ở địa phương nào, thẩm phán cấp nào
đều là những người nhân danh nhà nước, phán quyết của họ đều phải được mọi cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân tôn trọng và nếu có liên quan thì phải
có nghĩa vụ thi hành. Họ là những người được bổ nhiệm để thực hiện quyền lực tư
pháp và khơng thể là viên chức của chính quyền tỉnh, huyện và tuyệt nhiên không
thể áp dụng các chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật áp dụng dành cho công chức
nhà nước thông thường.
Thẩm phán được bổ nhiệm phải là người được đào tạo, rèn luyện có đủ trình độ,
năng lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm cơng tác, bảo đảm để có đủ ý chí, bản
lĩnh và quyết tâm thực hiện quyền tư pháp và độc lập khi xét xử. Trong Luật tổ
chức Toà án nhân dân, các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện và trình tự, thủ tục bổ
nhiệm Thẩm phán đã có nhiều nội dung mới nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
Thẩm phán và phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm; Thẩm
phán các Tòa án khác do Chủ tịch nước bổ nhiệm; người muốn được bổ nhiệm làm
Thẩm phán ngồi những điều kiện như trước đây cịn phải có thêm điều kiện đã
trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán, có thời gian làm cơng tác pháp luật từ 05
năm trở lên (thay vì 04 năm như trước đây); Thẩm phán sơ cấp muốn được bổ
nhiệm vào ngạch Thẩm phán trung cấp phải trải qua kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán
trung cấp, Thẩm phán trung cấp muốn được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán cao
cấp phải trải qua kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán cao cấp. Bên cạnh các nội dung
nêu trên, Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định chỉ thành lập một Hội đồng tuyển
6


Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập lớn học kỳ

chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia để bảo đảm chất lượng đồng đều giữa các ứng
viên được tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán; quy định thành lập Hội
đồng thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp
để tổ chức các kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán, kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán.
2. Quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán
Nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng được kéo dài hơn theo định hướng đã được xác
định trong các văn kiện của Đảng; cụ thể: “Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05
năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán
khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.” (Điều 74). Rất nhiều nhà khoa học khi góp
ý dự thảo Luật Tổ chức tịa án cho rằng cần qui định nhiệm kỳ của thẩm phán là 10
năm hoặc trọn đời, tránh cho thẩm phán đầu phải chịu áp lực của việc tái bổ nhiệm.
Qui định mới của Luật Tổ chức tịa án có sự dung hịa giữa những đề xuất mới và
qui định của Luật Tổ chức tòa án năm 2002. Việc bổ nhiệm thẩm phán với nhiệm
kỳ đầu tiên là 5 năm và các nhiệm kỳ sau nếu được tái bổ nhiệm là 10 năm cũng
chứa đựng sự hợp lý nhất định. Mặc dù chưa giống như nhiều quốc gia trên thế giới
thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời, qui định tái bổ nhiệm với nhiệm kỳ 10 năm
cũng giải tỏa phần nào áp lực của thẩm phán trước vị trí của mình, giúp họ trở nên
bản lĩnh hơn trong xét xử. Thực tế cho thấy việc bổ nhiệm thẩm phán theo Luật Tổ
chức TAND năm 2002 khiến cho rất nhiều thẩm phán trước thời tái bổ nhiệm gần
như trở nên thiếu tự tin, lo lắng. Việc bổ nhiệm suốt đời hoặc bổ nhiệm với nhiệm
kỳ dài bắt nguồn từ tính chất hoạt động của thẩm phán. Lao động của Thẩm phán là
lao động đặc biệt, lao động được nhà nước trực tiếp phân công (Chủ tịch nước bổ
nhiệm). Khi xét xử, thẩm phán nhân danh công lý, nhân danh quốc gia, thực thi
công lý theo sự ủy thác của nhân dân. Khi xét xử, người Thẩm phán phải tuân thủ
nghiêm ngặt những nguyên tắc nhất định, trong đó nguyên tắc cơ bản và quan
trọng nhất là độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Thẩm phán cùng lúc phải tuân thủ
các nguyên tắc hết sức khắt khe như: "Không làm oan người vô tội, không bỏ lọt

tội phạm" hay "xét xử tập thể và tuân theo đa số" nhưng lại phải "độc lập xét xử và
chỉ tuân theo pháp luật". Thẩm phán chỉ làm tốt những điều này nếu có những điều
kiện phù hợp với tính chất của nghề nghiệp mà họ đảm nhiệm. Việc tích lũy kiến
thức, kinh nghiệm, bản lĩnh theo thời gian cũng là một trong những điều kiện then
chốt đó.
3. Chế độ, chính sách đối với Thẩm phán
Chế độ, chính sách đối với Thẩm phán được quy định tại Điều 75 của Luật này,
theo đó: Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán;
Thẩm phán được cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để làm nhiệm vụ;
Thẩm phán được bảo đảm tôn trọng danh dự, uy tín; được bảo vệ khi thi hành công
7


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn học kỳ

vụ và trong trường hợp cần thiết; Thẩm phán được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao
trình độ và nghiệp vụ Tòa án; nghiêm cấm các hành vi cản trở, đe dọa, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của Thẩm phán và thân nhân của Thẩm
phán; Thẩm phán được tôn vinh và khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi
đua, khen thưởng. Quy định này sẽ góp phần bảo đảm Thẩm phán yên tâm cho
cuộc sống cá nhân và gia đình, đủ niềm tin nghị lực, ý chí để giữ gìn phẩm chất đạo
đức, kiên định thực hiện quyền tư pháp, độc lập khi xét xử, không bị can thiệp, chi
phối, tác động bởi các quyền lực, thế lực, tác động, ảnh hưởng tiêu cực khác làm
lệch cán cân công lý.
4. Một số điểm mới liên quan đến chức năng, quyền hạn của thẩm phán
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND trong lĩnh vực tố tụng hình sự được
mở rộng và phản ánh tốt hơn bản chất của quyền lực tư pháp. Một số điểm mới liên
quan đến chức năng, quyền hạn của thẩm phán được thể hiện khá rõ nét trong Điều

2 của Luật Tổ chức tòa án năm 2014. Đáng chú ý là những điểm mới sau: (i) xem
xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; (ii) Xem xét, kết
luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập, do Luật sư, bị can, bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác cung cấp; (iii) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện
kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc
Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự; (iv) Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác
trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; (vi) khởi tố vụ án hình
sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.
Các quy định mới này hướng tới sự kiểm sốt của tịa án đối với hoạt động điều tra,
truy tố. Quyền lực của cơ quan điều tra, công tố cần được kiểm sốt và khơng ai có
thể kiểm sốt tốt hơn so với thẩm phán thơng qua thủ tục tố tụng cơng khai, dân
chủ tại phiên tồ, nơi tập trung những người tiến hành và người tham gia tố tụng và
nơi mà các thành tố này chỉ được phép tìm tới sự thật khách quan của vụ việc bằng
công cụ pháp luật. Việc trao cho thẩm phán xem xét tính hợp pháp của chứng cứ,
tài liệu do có quan điều tra, truy tố thu thập, do luật sư và bị cáo cung cấp thông
qua thủ tục tố tụng rất phù hợp với yêu cầu của thực tiễn tư pháp ở nước ta. Việc
giao quyền đánh giá chứng cứ cho Thẩm phán là điều kiện cần, điều kiện đủ là phải
hình thành các quy định để đảm bảo cho việc thẩm phán hồn tồn độc lập và bình
đẳng trong việc đánh giá chứng cứ cho dù đó là chứng cứ của cơ quan nhà nước
hay của luật sư, bị can hay người khác đưa ra.
Quyền của thẩm phán trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu
Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập,
8


Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập lớn học kỳ

bổ sung chứng cứ cũng là một điểm gây tranh luận về học thuật. Một số ý kiến cho
rằng việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, yêu cầu bổ sung tài liệu trong quá
trình xét xử về bản chất khơng khác gì sự phối hợp giữa cơ quan truy tố và thẩm
phán để buộc tội cho bằng được bị cáo. Thực tiễn hoạt động xét xử cho thấy khơng
ít trường hợp khi tịa án u cầu điều tra lại, cơ quan công tố, cơ quan điều tra
không thực hiện và yêu cầu tòa án xử theo những chứng cứ đã có. Trong trường
hợp này, thẩm phán phải xử mặc dù thấy chứng cứ không thỏa đáng. Thẩm phán
cũng chỉ có thể xử theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn chứ không được xử theo
tội danh nặng hơn so với truy tố của cáo trạng. Trường hợp này thực tiễn cịn tồn
tại hướng dẫn là tồ án phải trã hồ sơ cho Viện kiểm sát để đề nghị truy tố về tội
nặng hơn, nếu Viện kiểm sát không truy tố theo tội danh nặng hơn thì tồ vẫn xét
xử theo tội danh đã truy tố và báo cáo lên toà án cấp trên. Quy định này rõ ràng là
không nhất quán nguyên tắc Hiến định là khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Việc trả hồ sơ yêu cầu bổ sung thực sự sẽ trở thành vấn đề nếu
trong Bộ luật tố tụng hình sự sắp tới khơng có những điều chỉnh thích hợp. Quan
điểm cần ủng hộ là Bộ luật tố tụng hình sự cần qui định việc trả hồ sơ yêu cầu bổ
sung chỉ trong những trường hợp rất hạn chế và với những điều kiện chặt chẽ. Nhìn
chung, cần trao cho thẩm phán quyền tuyên bố bị cáo vô tội nếu hội đồng xét xử
thấy chứng cứ không đủ để buộc tội bị cáo. Qui định này sẽ buộc cơ quan điều tra,
truy tố đặc biệt cẩn trọng khi chuẩn bị hồ sơ, chứng cứ và giúp tránh được những
vụ án oan. Đồng thời, quy định này cũng hạn chế được việc thẩm phán thiếu bản
lĩnh, sợ trách nhiệm, không dám phán quyết theo đúng tình trạng hồ sơ và kết quả
tranh tụng, trã hồ sơ cho an toàn, làm kéo dài vụ án, ảnh hưởng quyền lợi của
người tham gia tố tụng.

9



Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn học kỳ

C. PHẦN KẾT LUẬN
Sự tham gia vào quá trình liên kết và hợp tác khu vực và quốc tế đã đặt ra u cầu
cấp thiết đối với ngành tịa án, đó là cần sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm
pháp luật trong nước để đảm bảo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Thẩm phán có địa vị pháp lý quan trọng trong tố tụng nói chung, xét
trên các phương diện lý luận và thực tiễn. Các quy định pháp luật về vai trị của
Thẩm phán đang ngày càng được hồn thiện theo hướng chặt chẽ, bảo đảm tính độc
lập khi xét xử, dân chủ trong tố tụng, chỉ tuân theo pháp luật. Luật Tổ chức Tịa án
nhân dân 2014 có khá nhiều điểm mới và đặt trong bối cảnh hiện tại cũng có thể
được coi là những bước đột phá đầu tiên hướng đến một hệ thống tòa án độc lập
theo tinh thần của Hiến pháp 2013. Thông qua Luật Tổ chức Tịa án năm 2014, thẩm
phán đã có tương đối đầy đủ quyền hạn cần thiết khi giải quyết một vụ án và tạo
những điều kiện nhất định không chỉ về trí tuệ, tâm lý mà cả về chế độ, chính sách
đối với họ. Các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán; tiêu chuẩn, điều
kiện và trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán đã được bổ sung, sửa đổi để đáp ứng
yêu cầu nâng cao tiêu chuẩn, trách nhiệm, quyền hạn của Thẩm phán nhằm xây
dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh theo yêu cầu cải cách tư pháp và
phù hợp với quy định của Hiến pháp mới. Những điểm mới trên có ý nghĩa rất lớn
đối với việc góp phần nâng cao vai trò của tòa án, biến tòa án thành một biểu tượng
của quyền lực nhà nước và công lý. Bản thân các Thẩm phán cần nhận thức rõ vai
trị, vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của mình đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.

10



Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn học kỳ

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Luật tổ chức tòa án nhân dân số: 62/2014/QH13 ban hành ngày 24 tháng 11
năm 2014.
2. Đề cương giới thiệu Luật tổ chức 2014.
3. Bài viết “ Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 - Những điểm mới và yêu
cầu đặt ra đối với việc thực thi” của đồng chí Lê Hồng Quang - Tỉnh ủy viên,
Chánh án TAND tỉnh Quảng Trị . Bài viết được đăng trên mục "Nghiên cứu - lý
luận" của tạp chí Pháp luật và Phát triển số tháng 3 năm 2015.

11



×