Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

bài tập lý luân chung về nhà nước pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.58 KB, 101 trang )

Câu 1:Vai trò của khoa học Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đối với
các khoa học pháp lý chuyên nghành.
Trả lời
Lý luận chung về nhà nước và pháp luật là ngành khoa học thuộc các ngành
khoa học xã hội, bao gồm hệ thống tri thức chung, cơ bản về nhà nước và pháp
luật, được hình thành và phát triển trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, có tiếp thu và phát triển tinh hoa trí tuệ lồi người về nhà
nước và pháp luật.
Khoa học pháp lý chuyên nghành là một nhóm nghành thuộc hệ thống khoa
học pháp lý, bên cạnh các nhóm nghành khác là khoa học lý luận và lịch sử, khoa
học luật quốc tế và luật nước ngoài, khoa học ứng dụng và thực nghiệm. Khoa học
pháp lý chuyên nghành gồm luật Hiến pháp, luật Hành chính, luật Dân sự,….
Trong hệ thống khoa học pháp lý, Lý luận nhà nước và pháp luật thuộc
nhóm các khoa học pháp lý lý luận-lịch sử, tuy vậy nó lại có quan hệ mật thiết với
các khoa học pháp lý chuyên nghành và giữ vai trị quan trọng đối với nhóm khoa
học này.
LLNN&PL nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề chung, cơ bản nhất
của nhà nước và pháp luật dưới dạng khái niệm, kết luận, quan điểm, nguyên tắc,
…Các khoa học pháp lý chuyên nghành lại đi sâu nghiên cứu từng góc độ, khía
cạnh,vấn đề cụ thể của nhà nước và pháp luật như: đối tượng nghiên cứu của các
khoa học luật hành chính là hoạt động quản lý hành chính nhà nước, những quan
hệ hình thành trong q trình quản lý hành chính nhà nước và điều chỉnh những
qua hệ ấy; đối tượng nghiên cứu của khoa học luật hình sự là hệ thống tri thức về
tội phạm và hình phạt. Phạm vi nghiên cứu của LL rộng hơn, tồn diện hơn nhưng
ở mức độ khái qt, cịn phạm vi nghiên cứu của khoa học pháp lý khác lại hẹp
1


hơn nhưng đầy đủ và sâu sắc hơn. Chính vì thế, những tri thức của LL là cơ sở xuất
phát điểm để các khoa học pháp lý khác sử dụng để đi sâu tìm hiểu đối tượng
nghiên cứu của mình. Nhờ vào đó mà các khoa học pháp lý chuyên nghành bảo


đảm sự thống nhất với nhau để tạo thành hệ thống khoa học pháp lý. ( Lênin từng
nhấn mạnh, ng nào tiếp cận những vấn đề riêng mà trước đó chưa giải quyết những
vấn đề chung thì trong mỗi bước đi sẽ không thể tránh khỏi những vấn đề chung đó
một cách vơ thức.)
Ngược lại, những tri thức mà LL xây dựng lên sẽ được các khoa học pháp lý
chuyên nghành minh chứng, kiểm nghiệm, đánh giá tính khoa học và tính đúng đắn
của nó. Dựa trên đó cùng với những cơ sở nghiên cứu sâu sắc những vấn đề cụ thể
của NN&PL , LL được bổ sung, hoàn thiện để tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, phân
tích, đánh giá và đưa ra những kết luận, luận điểm khoa học mới, kịp thời chỉ đạo
và định hướng nghiên cứu cho các nghành khoa học pháp lý chuyên nghành.
Ví dụ, trên cơ sở khái niệm quy phạm pháp luật do LL cung cấp, Luật hiến
pháp xây dựng các quy phạm pháp luật Hiến pháp.
Như vậy, LLNN&PL là khoa học nghiên cứu một cách khái quát , toàn diện
về nhà nước và pháp luật. Những tri thức mang tính nền tảng của khoa học này
đóng vai trị quan trọng đối với các khoa học pháp lý chuyên nghành nói riêng và
cả hệ thống khoa học pháp lý nói chung.
Câu 2: Phân tích khái niệm nhà nước.
Trả lời
Nhà nước là một trong hai hiện tượng quan trọng của kiến trúc thượng tầng
xã hội. Đi nghiên cứu về hiện tượng này, có rất nhiều quan điểm khác nhau do có

2


sự khác nhau từ góc độ nghiên cứu, từ năng lực nhận thức và chụi sự chi phối bởi
các yếu tố lợi ích, quan điểm chính trị….
Một số quan điểm về nhà nước như:
Aristote cho rằng nhà nước là “ một cộng đồng hạnh phúc trong các gia đình
và sự kết hợp của các gia đình vì lợi ích của một cuộc sống hoàn hảo và độc lập”.
Xuất phát từ quan niệm về pháp luật và trật tự pháp luật, I.Kant cho rằng:

Nhà nước là sự liên kết của nhiều người phục tùng pháp luật”. Cũng xuất phát từ
quan niệm này, một số tác giả khác lại cho rằng: “Nhà nước hiểu theo nghĩa rộng là
một tập hợp các thể chế nắm giữ những phương tiện cưỡng chế hợp pháp, thi hành
trên một vùng lãnh thổ được xác định và ng dân sống trên lãnh thổ đó được đề cập
như một xã hội”.
Dựa trên những nghiên cứu về nguồn gốc nhà nước, Ăngghen cho rằng, nhà
nước là một sản phẩm của xã hội đã phát triển đến giai đoạn nhất định, khi xã hội
đã phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giai cấp là khơng thể điều hịa được. Nhà
nước là lực lượng “nảy sinh từ xã hội nhưng lại đứng trên xã hội”, “có nhiệm vụ
làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sư xung đột đó trong vòng trật tự”.
Trong tác phẩm “ Bàn về nhà nước”, Lênin cũng nghiên cứu nhà nước từ
nhiều góc độ. Khi xem xét nhà nước dưới góc độ nguồn gốc của nhà nước, khi xã
hội loài ng đã ở một trình độ phát triển nhất định, chế độ tư hữu xuất hiện, giai cấp
thống trị tồn tại chiếm thiểu số trong xã hội, ông cho rằng: Nhà nước là một một bộ
máy nhất định,nó tự tách ra khỏi xã hội, gồm một nhóm người chỉ chuyên hay gần
như chỉ chuyên hay chủ yếu chỉ chuyên làm công việc cai trị. Khi xem xet dưới
góc độ nghiên cứu cuộc đấu tranh giai cấp một mất một cịn giữa GC chủ nơ và GC
nô lệ, ông khẳng định nhà nước là “một bộ máy để duy trì sự thống trị của giai cấp
này đối với giai cấp khác”, “một bộ máy để cho giai cấp này áp bức giai cấp khác”.
3


Mỗi cách định nghĩa về khái niệm nhà nước cho ta những cách nhìn khác
nhau về hiện tượng nhà nước, Chúng đều có giá trị khoa học và tính lý luận cũng
như thực tiễn riêng.
Tuy nhiên, ta có thể định nghĩa nhà nước như sau: Nhà nước là một tổ chức
quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một nhóm người tách ra từ xã hội để
chuyên thực thi quyền lực nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung
của tồn xã hội cũng như của lực lượng cầm quyền trong xã hội.
Tổ chức là tập hợp của con người trong xã hội có phạm vi, chức năng, nhiệm

vụ, thẩm quyền, cơ cấu xác định; được hình thành và hoạt động theo những nguyên
tắc nhất định phù hợp với quy định pháp luật nhằm gắn kết con người với nhau bởi
những mục đích xác định và hành động để đạt đến mục tiêu chung. Nhà nước là
một tổ chức. Tính đặc biệt của tổ chức nhà nước thể hiện ở nhà nước khơng cịn
hịa nhập với dân cư như ở chế độ thị tộc nữa mà nó hầu như tách khỏi xã hội và
tựa hồ như đứng trên xã hội. Nó là người đại diện cho xã hội, nhân danh xã hội để
điều hành, quản lý, sai khiến xã hội. Nó là sự thể hiện một cách tập trung quyền
lực chính trị. Quyền lực chính trị là quyền quyết định, định đoạt những công việc
quan trọng về chính trị, được tổ chức và hoạt động để bảo đảm sức mạnh thực hiện
quyền lực ấy của một giai cấp, một chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh
đạo, cai quản xã hội. Thơng qua nhà nước, quyền lực chính trị vốn thuộc một bộ
phận dân cư trở thành một quyền lực cơng đối với tồn xã hội. Ta gọi đó là quyền
lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là khả năng áp đặt ý chí và buộc các cá nhân, tổ
chức khác phải phục tùng theo ý chí của nhà nước. Quyền lực nhà nước mang các
đặc điểm: luôn gắn liền với sự tồn tại của nhà nước; được phân chia thành các
quyền hành pháp, tư pháp,lập pháp; do giai cấp hoặc liên minh giai cấp thống trị tổ
chức và thực hiện; được bảo đảm thực hiện bằng sức cưỡng chế của nhà nước
thông qua các cơng cụ cưỡng chế: tịa án, cơng an,qn đội,nhà tù,...Tính đặc biệt
4


cịn thể hiện qua nhà nước nhân danh tồn xã hội ban hành pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc với tồn xã hội để điều chỉnh các quan
hệ xã hội theo một hướng nhất định. Nhà nước cịn có khả năng huy động nguồn
lực xã hội băng việc thu thuế, phát hành tiền và quản lý việc lưu thông tiền tệ , tạo
cơ sở tài chính cho hoạt động của nó trong việc thực hiện các chính sách chủ
trương và hoạt động chung của toàn xã hội. Nhà nước thuuwcj hiện nhiệm vụ quản
lý xã hội bằng việc quản lý dân cư theo lảnh thổ nhằm đảm bảo việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của họ trước nhà nước. Nhà nước có một lớp người đặc biệt
chuyên làm nhiệm vụ cho mình. Họ là những cá nhân khơng trực tiếp tham gia vào

hoạt động sản xuất của xã hội mà được tổ chức ra để quản lý xã hội, điều hành mọi
hoạt động của xã hội. Sự tổ chức các cá nhân này trong tổ chức nhà nước dẫn đến
sự hình thành các cơ quan nhà nước, từ đó, bộ máy của nhà nước ra đời. Nhà nước
là một hiện tượng của xã hội, ra đời là kết quả tất yếu của nhu cầu xã hội về việc
duy trì trật tự, ổn định xã hội, phòng chống thiên tai, ngoại xâm, bảo vệ lợi ích
chung của cộng đồng. Vì vậy, sự hoạt động của nó là vì lợi ích của cộng đồng. Tuy
nhiên, nhà nước bị chi phối bởi những kẻ mạnh. Lực lượng này sử dụng nhà nước
như một công cụ để quản lý xã hội, điều hành mọi hoạt động của xã hội, bảo vệ địa
vị và phục vụ lợi ích của mình.
Như vậy, đi tìm hiểu về khái niệm nhà nước đã giúp cho chúng ta có những
nhận thức cơ bản về nhà nước, từ đó giúp ta phân biệt nó với các tổ chức khác
trong xã hội để thấy được những đặc điểm, ưu thế của nó với các tổ chức xã hội
khác và điều đó góp phần lý giải tại sao nhà nước giữ vị trí trung tâm, trụ cột trong
hệ thống chính trị.

5


Câu 3: Phân biệt nhà nước với các tổ chức khác trong xã hội
Trả lời
Nhà nước

Tổ chức khác trong xã hội

Định nghĩa Là tổ chức quyền lực đặc biệt của Là tổ chức tự nguyện của những
xã hội, gồm một nhóm người tách người có cùng mục đích, chính
ra khỏi xã hội chuyên thực thi

kiến, lý tưởng, độ tuổi, giới tính,


quyền lực nhà nước nhằm tổ chức nghành nghề,… được thành lập
và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích và hoạt động nhằm đại diện và

Quyền lực

chung của toàn xã hội và lợi ích

bảo vệ các thành viên của mình.

của giai cấp cầm quyền.
Quyền lực nhà nước là quyền lực

Quyền lực của tổ chức là quyền

công đặc biệt:

lực công cộng nhưng nó chỉ hịa

 Nó tồn tại cơng khai trong

nhập với hội viên và khơng có

xã hội và mọi cá nhân

một bộ máy riêng để chuyên thực

trong xã hội đều phải phục

thi quyền lực.


tùng.
 Nó được tạo nên và được

Sự đảm bảo cho quyền lực của tổ
chức được thực hiện là ý thức tự

thực hiện bởi một nhóm ng giác cá nhân và các hình thức xử
nhất định, đại diện và bảo phạt nghiêm minh của tổ chức
vệ lợi ích cho giai cấp cầm
quyền.
Quyền lực nhà nước được bảo
đảm thực hiện bằng sức mạnh
nhà nước thông qua bộ máy
chuyên nghiệp của nó bao gồm
các cơ quan có thẩm quyền mà
6

đó.


chủ yếu là quân đội, cảnh sát, nhà
tù, tòa án…

Tổ chức quản lý dân cư theo lãnh Tổ chức quản lý thành viên theo
Quản lý

thổ, khơng lệ thuộc vào chính

độ tuổi, nghành nghề, giới tính,


thành viên

kiến, tơn giáo, tín ngưỡng, giới

chính kiến,….. Vì vậy mà cơ sở

tính, …..Vì vậy mà nó có cơ sở

xã hội hẹp hơn.

xã hội rộng lớn nhất và phạm vi
tác động rộng nhất.
Tính đại

Đại diện cho toàn xã hội thực

Đại diện cho thành viên của tổ

diện

hiện chủ quyền quốc gia. Chủ

chức. Sự tồn tại và hoạt động đều

quyền quốc gia là quyền tự quyết

phụ thuộc vào các quy định của

tối cao các vấn đề đối nội, đối


nhà nước. Khi tham gia các hoạt

ngoại mà không bị phụ thuộc vào động đối nội, đối ngoại thì chỉ
bất cứ yếu tố bên ngoài hay tổ

được phép nhân danh tổ chức đó.

chức quốc tế nào. Nhà nước
quyết định mọi đường lối, chủ
trương, chính sách để phát triển
xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
Nhà nước nhân danh quốc gia
trong quan hệ đối ngoại. Nó là
chủ thể của cơng pháp quốc tế.
Công cụ

Sử dụng pháp luật, công cụ sắc

quản lý

bén nhất để quản lý xã hội.
7

Sử dụng các điều lệ, nội quy,….
 Các điều lệ, nội quy phải


 Khái niệm pháp luật.
 Có giá trị bắt buộc với cả
xã hội, tính quy phạm phổ

biến cao nhất.
Nhà nước bảo đảm thực hiện
pháp luật bằng giáo duc, tuyên

phù hợp với pháp luật
 Chỉ có giá trị đối với thành
viên của tổ chức.
 Biện pháp đảm bảo dựa
trên ý thức của hội viên và
tính kỷ luật của tổ chức.

truyền, thuyết phục, đặc biệt là
cưỡng chế.

Tiềm lực

Có quyền thu thuế, phát hành

kinh tế

tiền, quản lý việc giao lưu tiền tệ.
 Thuế là khoản tiền hay
hiện vật mà người dân
buộc phải nộp cho nhà
nước theo quy định của
pháp luật.
 Chỉ có nhà nước có quyền
phát hành tiền.
Nhà nước là chủ sở hữu lớn nhất
của xã hội.

Vì vậy, nó có khả năng đảm bảo
cho hoạt động của nó, và hỗ trợ
cả hoạt động của các tổ chức
khác.

Câu 4: Phân tích khái niệm kiểu nhà nước
8

Nguồn kinh phí dựa trên sự đóng
góp của các thành viên và sự hỗ
trợ từ nhà nước.


Trả lời
Xã hội luôn là một cơ thể sống phát triển không ngừng. Trong những thời kỳ
khác nhau của lịch sử, bản chất nhà nước cũng có sự thay đổi. Để phân biệt chúng
và xác định đặc điểm của nhà nước trong mỗi thời kỳ khác nhau, lý luận MácLênin đưa ra khái niệm kiểu nhà nước.
Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm, đặc thù của một nhóm nhà nước,
qua đó phân biệt với nhóm nhà nước khác.
Có nhiều cơ sở để phân chia kiểu nhà nước.
 Phân chia theo sự phát triển của xã hội gồm xã hội cổ đại, xã hội trung
đại, xã hội cận đại, xã hội hiện đại có tương ứng các kiểu nhà nước là
nhà nước cổ đại, nhà nước trung đại, nhà nước cận đại, nhà nước hiện
đại,
 Phân chia dựa vào nền văn minh, có thể phân chia thành các kiểu nhà
nước: nhà nước trong nền văn minh nông nghiệp, nhà nước trog nền
văn minh công nghiệp, nhà nước trong nền văn minh hậu công nghiệp.
 Dựa vào yếu tố địa lý, có thể phân chia thành nhà nước phương đơng,
nhà nước phương tây
 Dựa vào cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, phân thành nhà nước

chuyên chế, nhà nước dân chủ.
 Dựa vào hình thái kinh tế xã hội, có thể chia ra thành kiểu nhà nước
chủ nơ,nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Đây là cách tiếp cận kiểu nhà nước của chủ nghĩa Mác-Lênin theo tiến trình lịch sử
của xã hội.

9


Tìm hiểu về khái niệm kiểu nhà nước giúp chúng ta nhận thức một cách loogic và
cụ thể về bản chất, ý nghĩa xã hội của các nhà nước được xếp vào cùng một kiểu,về
những điều kiện tồn tại của nó phát triển của các nhà nước đó từ đó tạo điều kiện
thuận lợi giúp ta nghiên cứu, nhận thức, đánh giá một cách chính xác về những
điểm cơ bản đặc thù của một nhóm nhà nước như bản chất, chức năng, vai trị, điều
kiện,…
Câu 4: Phân tích quan điểm Mác-Lênin về nguồn gốc cuả nhà nước.
Trả lời
Nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp. Nhằm có những
nhận thức đúng đắn về bản chất cũng như sự hoạt động và phát triển của nó trong
xã hội, vấn đề nguồn gốc của nhà nước cần được nghiên cứu và có sự lý giải một
cách hợp lý, đúng đắn.
Có nhiều kiến giải khác nhau về nguồn gốc nhà nước. Theo thuyết thần học,
nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung của xã hội. Thuyết
gia trưởng lại cho rằng, nhà nước là kết quả liên kết của nhiều gia đình, quyền lực
nhà nước về bản chất giống như quyền lực của người gia trưởng trong gia
đình.Thuyết khế ước xã hội lại cho rằng, nhà nước là sản phẩm của một khế ước do
con người sống trong trạng thái tự nhiên ký kết. Trên cơ sở đó, nhà nước phải phục
tùng xã hội, phục vụ lợi ích của tồn xã hội. Khế ước mà bị hủy bỏ thì nhà nước
cũng sẽ tiêu biến. Và khi có một bản khế ước mới ra đời thì nhà nước mới cũng ra

đời. Theo thuyết bạo lực, nhà nước là kết quả của việc sử dụng bạo lực của thị tộc
này đối với thị tộc kia. Thị tộc chiến thắng thiết lập bộ máy để nô dịch thị tộc chiến
bại. Nhà nước chính là bộ máy ấy.

10


Các lý giải trên về nguồn gốc nhà nước của các thuyết trên đều khơng chính
xác với thực tiễn lịch sử do đều mắc chung một sai lầm là không xuất phát từ
những tiền đề kinh tế-xã hội của xã hội công xã thị tộc để lý giải.
Chủ nghĩa Mác-Lênin giải thích sự ra đời của nhà nước theo quan niệm duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Nhà nước có q trình phát sinh, phát triển và
tiêu vong. Nó tiêu vong khi mà những điều kiện khách quan của nó mất đi.
Xã hội lồi người từng trải qua giai đoạn khơng có giai cấp và nhà nước.
Giai đoạn ấy là giai đoạn của chế độ cộng sản nguyên thủy. Và đây cũng chính là
hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên của loài người. Nguyên nhân phát sinh nhà nước
chủ yếu là bắt nguồn từ đây. Ăngghen nói: “ xã hội ngày một vượt quá phạm vi của
chế độ thị tộc”, “trong lúc đó, nhà nước phát triển một cách lặng lẽ”. Chính vì vậy,
phải tìm hiểu cơ sở kinh tế xã hội và cách thức tổ chức xã hội của chế độ cộng sản
nguyên thủy.
Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thủy là chế độ sở hữu chung về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động xã hội. Sở dĩ như vậy vì, trong chế độ cộng sản
nguyên thủy, trình độ phát triển về lực lượng sản xuất cịn thấp kém, cơng cụ lao
động cịn thơ sơ, tình trạng bất lực của con người trước thú dữ và các hiện tượng tự
nhiên, nên con ng để có thể kiếm sống và tự bảo vệ mình, họ buộc phải co cụm lại,
sống dựa vào nhau, cùng sinh hoạt và lao động, do đó cùng hưởng thụ thành quả
lao động. Hơn nữa, sản phẩm làm ra chỉ đủ ni sống con người, khơng có dư thừa
để tạo khả năng chiếm đoạt làm của riêng. Do đó, mọi tư liệu sản xuất và sản phẩm
lao động đều thuộc sở hữu chung của cộng đồng.
Cơ sở xã hội của xã hội cộng sản nguyên thủy là cộng đồng người ngun

thủy hồn tồn tự do, bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, khơng ai có đặc
quyền, đặc lợi. Bình đẳng chính là ngun tắc xử sự cao nhất lúc bấy giờ.
11


Cách thức tổ chức và quản lý xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thủy còn
hết sức đơn giản. Thị tộc là tế bào cơ sở của xã hội, được tổ chức theo huyết thống
(lúc đầu huyết thống được xác lập theo dòng mẹ, gọi là thị tộc mẫu hệ, sau được
xác lập theo dòng cha, gọi là thị tộc phụ hệ). Thị tộc là đơn vị kinh tế vừa sản xuất
vừa tiêu dùng. Nền tảng vật chất của thị tộc là kinh tế tập thể dựa trên hoạt động
sản xuất tập thể và quyền sở hữu chung, bình đẳng về tư liệu sản xuất và sản phẩm
lao động. Sự phân cơng lao động đã xuất hiện nhưng đó là sự phân công tự nhiên,
dựa trên khả năng và sự thích hợp đối với các thành viên. Thị tộc là hình thức tự
quản nhưng ở mức độ cịn thấp. Ở đó đã xuất hiện một hệ thống quản lý bao gồm:
-Hội đồng thị tộc: tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, gồm tất cả những
thành viên đã trưởng thành của thị tộc, có quyền quyết định những vấn đề quan
trọng của thị tộc, thể hiện ý chí của cả thị tộc
-Tù trưởng là người đứng đầu thị tộc, được bầu ra trong số người có nhiều
tuổi, nhiều kinh nghiệm và có uy tín lớn nhất; khơng có đặc quyền, cũng phải tham
gia hoạt động sản xuất, có nghĩa vụ và được hưởng lợi như những ng khác. Quyền
lực của họ được xây dựng bởi uy tín cá nhân và họ có thể bị bãi miễn nếu khơng
cịn sự uy tín, tín nhiệm.
Như vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã tồn tại quyền lực nhưng đó
là quyền lực xã hội: là quyền lực thuộc về xã hội, hòa nhập với xã hội, do xã hội tổ
chức ra; phục vụ lợi ích của tồn xã hội; khơng có bộ máy riêng để thực hiện
cưỡng chế. Đây chính là biểu hiện rõ nét nhất của chế độ tự quản hay coàn gọi là
nền dân chủ nguyên thủy.
Tổ chức xã hội cao hơn thị tộc là bào tộc ( do một số thị tộc có quan hệ hơn
nhân hợp thành). Các bào tộc liên kết với nhau thành bộ lạc và giai đoạn phát triển


12


cao nhất của chế độ cộng sản nguyên thủy là liên minh bộ lạc. Cách thwucs tổ chức
quyền lực của các tổ chức này cũng giống với thị tộc.
Như vậy, chế độ cộng sản nguyên thủy là chế độ “ khơng có nhà nước, lúc
đó các quan hệ xã hội và ngay cả xã hội nữa, kỷ luật, tổ chức lao động đều được
duy trì nhờ có sức mạnh của phong tục, tập qn, nhờ có uy tín và sự kính trọng
đối với những bơ lão thị tộc hoặc đối với phụ nữ”.( Lênin)
Các tiền đề vật chất cho sự xuất hiện của nhà nước được nảy sinh trong
chính lịng của xã hội thị tộc. Nguyên nhân làm tan rã xã hội cũng chính là nguyên
nhân làm xuất hiện nhà nước.
Đầu tiên, đó là những chuyển biến quan trọng trong đời sống kinh tế- xã hội.
-Kim loại xuất hiện làm cho khả năng lao động của con người phát triển
nhanh chóng, năng suất lao động khơng ngừng tăng lên
-Lực lượng sản xuất có sự phát triển kéo theo các hoạt động kinh tế, xã hội
ngày càng đa dạng, phong phú.
-Phân công lao động trong xã hội:




Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt
Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp
Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện

Q trình phân cơng lao động đã làm phát sinh khả năng chiếm đoạt sản
phẩm làm của cải riêng bởi sự dư thừa của cải rong xã hội khi đó.Một số tù trưởng
lợi dụng uy tín để chiếm đoạt sản phẩm dư thừa thành tài sản của riêng mình. Tù
binh trước kia bị giết, giờ được giữ lại để tăng cương sức lao động, tăng khả năng

tập trung tài sản vào tay những ng có địa vị trong xã hội.

13


-Hoạt động kinh tế chuyển dịch sang hướng chuyên môn hóa nên khơng địi
hỏi lao động tập thể.
- Chế độ hôn nhân một vợ một chồng dẫn đến cac gia đình nhỏ tách ra khỏi
gia đình phụ hệ lớn và trở thành đơn vị kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào thị
tộc nữa.
Từ những nguyên nhân kinh tế dẫn tới nguyên nhân xã hội: những người
chuyên đi chiếm đoạt tài sản của người khác trở thành giai cấp bóc lột, những ng
chuyên bị mất tài sản trở thành giai cấp bị bóc lột. Hai giai cấp này đối kháng với
nhau mâu thuẫn ngày càng trở nên gay gắt,quyết liệt.
Các tổ chức xã hội: thị tộc, bào tộc,…trở nên bất lực. Quyền lực xã hội của
chế độ cộng sản nguyên thủy khơng cịn phù hợp nữa. Để điều hịa và quản lý xã
hội mới, cần có một tổ chức mới khác về chất ra đời. Đó chính là nhà nước.
Như vậy, nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước theo quan điểm Mác-Lê nin:



Nguyên nhân kinh tế: sự xuất hiện về chế độ tư hữu tài sản.
Nguyên nhân xã hội: sự xuất hiện giai cấp và mâu thuẫn khơng

thể dung hịa được giữa các giai cấp.
Tuy nhiên, sự lý giải trên của Mác- Lê nin chưa bao quát hết toàn bộ tiến trình của
sự ra đời nhà nước. Giữa nguồn gốc của nhà nước phương Đơng có sự khác biệt
với nguồn gốc của nhà nước ở phương Tây . Do hạn chế về thời đại, Mác- Lê nin
chưa đưa ra nguồn gốc nhà nước ở phương Đông. Các nhà nước ở phương Đông ra
đời bởi nguyên nhân xuất phát từ hoạt động xã hội, cụ thể là: trị thủy và chống

ngoại xâm. Hình thức sản xuất chính ở phương Đơng là nền sản xuất nơng nghiệp
vì vậy mà con người phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt là nước.
Nhu cầu trị thủy để phục vụ sản xuất nông nghiệp xuất hiện, đặt ra hoạt động huy
14


động lực lượng người làm để thực hiện nhiệm vụ đó và cần có những cá nhân đứng
ra tổ chức hoạt động đó dẫn tới việc thành lập bộ máy quyền lực. Thêm vào đó,
hoạt động chống ngoại xâm cũng cần sức mạnh của cả một cộng đồng được chỉ
huy bởi một người uy tín, tài năng, xuất chúng nhằm bảo vệ con ng trong xã hội
đó. Sự tập trung con người lại với nhau nhằm thực hiện các hoạt động bảo đảm xã
hội dưới sự chỉ huy của những con ng uy tín được tơn lên, tạo cơ sở cho việc ra đời
nhà nước.
Câu 7:Phân tích tính giai cấp của nhà nước.
Trả lời
Tính giai cấp là một trong hai biểu hiện của bản chất nhà nước.
Nhà nước mang tính giai cấp bởi nó tồn tại và phát triển trong một xã hội có giai
cấp, là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp và luôn do một giai cấp nắm giữ.
Tính giai cấp của nhà nước thể hiện qua:
 Nhà nước là bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này lên giai cấp khác trong
xã hội
 Nhà nước là cơng cụ bạo lực để duy trì sự thống trị giai cấp
Nhà nước do giai cấp thống trị về kinh tế (nắm giữ toàn bộ tư liệu sản xuất chủ yếu
trong xã hội) trong xã hội nắm giữ và lợi dụng. Quyền lực chính trị của xã hội
thuộc về tay giai cấp nắm giữ tiềm lực kinh tế. Giai cấp đó sử dụng nhà nước để
thực hiện sự thống trị về chính trị và sử dụng nhà nước để chống lại các giai cấp
khác, bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình. Ngồi sự thống trị về kinh tế, chính trị,, sự
thống trị giai cấp cịn thể hiện ở tư tưởng, thể hiện qua giai cấp thống trị xây dựng
hệ thống tư tưởng của mình thành hệ thống tư tưởng xã hội, bắt các giai cấp khác
phải nghe theo và làm theo những gì giai cấp thống trị muốn.

15


Giai cấp thống trị sử dụng một hệ thống cơ quan cưỡng chế như nhà tù, cảnh sát,
quân đội,…để trấn áp lực lượng đối địch, bắt các tầng lớp khác phục tùng ý chí của
mình. Đồng thời, nhà nước sử dụng pháp luật để thực hiện quyền lực kinh tế và
truyền bá tư tưởng của mình.
Tính giai cấp là thuộc tính của bất kỳ nhà nước nào, tuy nhiên,mức độ thể hiện của
nó trong mỗi kiểu nhà nước và mỗi nhà nước rất khác nhau, tùy thuộc vào hoàn
cảnh, điều kiện và tương quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội. Khi một
giai cấp có đủ điều kiện và sức mạnh để trở thành giai cấp thống trị thì nó sẽ nắm
giữ quyền lực nhà nước. Cịn nếu khơng thể tự mình cầm quyền thì giai cấp sẽ thỏa
hiệp, chia sẻ quyền lực với giai cấp khác, lực lượng khác trong xã hội để bảo vệ lợi
ích và vị thế của giai cấp và của xã hội.
Tính giai cấp thể hiện qua các kiểu nhà nước:
1. Nhà nước chủ nô: Nhà nước là bộ máy trấn áp, công cụ bạo lực của giai cấp
chủ nô để cưỡng bức, đàn áp một cách có tổ chức và cơng khai với giai cấp
nô lệ. Giai cấp chủ nô chỉ chiếm thiểu số dân cư trong xã hội nhưng lại nắm
giữ trong tay tất cả đất đai, tư liệu sản xuất, nô lệ, tự do cá nhân, quyền
thống trị với giai cấp nô lệ. Giai cấp nô lệ chiếm số đông trong xã hội nhưng
tính mạng, số phận, các hoạt động xã hội khác đều phụ thuộc vào giai cấp
chủ nô. Quyền lực chính trị thuộc về giai cấp củ nơ thể hiện qua tính qn
phiệt tàn bạo của chủ nơ đối với nô lệ. Bằng nhà nước, giai cấp chủ nô bảo
vệ sự thống trị giai cấp về kinh tế, chính trị, tinh thần của chủ nơ với nơ lệ,
duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ.
2. Nhà nước phong kiến: Nhà nước là bộ máy trấn áp, công cụ bạo lực của giai
cấp địa chủ đối với nông dân và những người lao động khác. Trong xã hội
phong kiến, giai cấp địa chủ chiếm giữ hầu hết đất đai, tư liệu sản xuất và
chiếm đoạt một phần sức lao động của nông dân. Cịn nơng dân khơng có tư
16



liệu sản xuất nên họ phụ thuộc vào địa chủ phong kiến về mặt kinh tế. Họ
phải làm thuê cho giai cấp địa chủ và phải làm nhiều nghĩa vụ cho giai cấp
địa chủ. Quyền lực nhà nước thuộc về tay giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà
nước là công cụ để giai cấp địa chủ chống lại sự đấu tranh của giai cấp nơng
dân, bảo vệ lợi ích và vị thể của mình trong xã hội. Các nhà nước phong kiến
thể hiện cơng khai tính giai cấp của mình thơng qua các thể chế và q trình
tổ chức, hoạt động của nhà nước. Nhiều nhà nước phong kiến còn liên kết
chặt chẽ với các tổ chức tôn giáo thành một chế độ cai trị cực kỳ chuyên chế
để đàn áp, áp bức nông dân về cả thể xác lẫn tinh thần.
3. Nhà nước tư sản: Tuy là kiểu nhà nước tiến bộ hơn so với các kiểu nhà nước
trước nhưng do tồn tại trên cơ sở của chế độ tư hữu và phục vụ chế độ đó
nên tính giai cấp vẫn thể hiện ít nhiều trong kiểu nhà nước này. Nhà nước tư
sản trên thực tế mang lợi ích bảo vệ và thực hiện các mục đích và lợi ích
của giai cấp tư sản đề ra. Quyền lực chính trị mặc dù được tuyên bố thuộc về
nhân dân song vì quyền lực kinh tế nằm trong tay giai cấp tư sản nên quyền
lực nhà nước tư sản thực chất thuộc về tay giai cấp tư sản. Như vậy, nhà
nước vẫn là công cụ để giai cấp tư sản để duy trì và bảo vệ sự thống trị của
giai cấp tư sản.
4. Nhà nước xã hội chủ nghĩa: Sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa đánh dấu
một bước phát triển mới trong tính giai cấp của nhà nước. Nhà nước XHCN
do giai cấp vô sản tổ chức. Giai cấp vô sản là giai cấp thống trị nắm trong
tay quyền lực nhà nước. Nhưng mục đích dùng nhà nước của giai cấp vơ sản
khơng phải là để duy trì mãi địa vị thống trị của mình mà là để cải tạo xã
hội, xây dựng xã hội mới, xóa bỏ mọi sự áp bức bóc lột và mọi sự thống trị
giai cấp. Hoạt động thể hiện rõ nhất tính giai cấp của nhà nước XHCN là
hoạt động trấn áp bằng bạo lực của giai cấp và các lực lượng trong xã hội
đối với các lực lượng phản động giai cấp. Tổ chức và hoạt động của nhà
17



nước XHCN dựa trên cơ sở quyền lực nhân dân, khơng ngừng mở rộng, phát
huy tính dân chủ trong xã hội thông qua sự liên minh với các lực lượng trong
xã hội.
Như vậy, nhà nước là bộ máy bạo lực, cơng cụ chun chính của giai cấp này đối
với giai cấp khác. Nhà nước thực hiện nhiệm vụ kinh tế và chính trị của giai cấp
thống trị, duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng của giai cấp thống trị
này đối với giai cấp khác.
Câu 8: Phân tích tính xã hội của nhà nước.
Trả lời
Tính xã hội là một trong hai thuộc tính bản chất của nhà nước.
Nhà nước có tính xã hội bởi nhà nước là một tổ chức xã hội, được sinh ra từ xã hội
để duy trì, quản lý xã hội khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, phản
ánh lợi ích của các tầng lớp và giai cấp trong xã hội.
Tính xã hội của nhà nước thể hiện qua:
1. Nhà nước là tổ chức quyền lực công của xã hội. Nhà nước thay mặt xã hội
để tổ chức, tập hợp, quản lý xã hội nhằm hướng tới mục tiêu ổn định và phát
triển xã hội thông qua các hoạt động của mình trong các lĩnh vực xã hội.
Nhà nước xác lập, thực hiện và bảo vệ các lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc
gia, dân tộc và cơng dân nước mình; tập hợp, huy động mọi tầng lớp trong
xã hội vào việc thực hiện các nhiệm vụ chung để bảo vệ chủ quyền, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội; duy trì trật tự xã hội và giải quyết những vấn
đề phát sinh trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho các hoạt động của xã
hội diễn ra bình thường, có hiệu quả, giúp xã hội phát triển vì lợi ích chung

18


của cộng đồng, đưa cuộc sống ấm lo, hạnh phúc cho mọi thành viên của xã

hội.
2. Nhà nước vừa bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, vừa bảo vệ lợi ích cho
các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội nhưng chỉ ở trong giới hạn mà lợi
ích giai cấp cho phép.
Như vậy, nhà nước là tổ chức quyền lực công, tổ chức nhân danh xã hội thực hiện
việc quản lý xã hội, nhà nước không thể tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp
thống trị mà khơng tính đến quyền lợi của các giai cấp khác trong xã hội.
Tính xã hội mang tính khách quan và có biểu hiện khác nhau qua các kiểu nhà
nước.
Ở nhà nước chủ nơ, tính xã hội chưa thể hiện nhiều. Chủ yếu các nhà nước chủ nô
thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội để duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội. Ở
các nhà nước chủ nô phương Đông chủ yếu tập trung xây dựng đê điều, khai
hoang, mở rộng diện tích trồng trọt, hạn chế ảnh hưởng của tự nhiên. Ở các nhà
nước phương Đơng, chính sách xây dựng đường xá, cầu cống, chính sách thu thuế
khóa được tập trung,…
Ở nhà nước phong kiến, tính xã hội bị mờ nhạt và hạn hẹp. Sự tham gia của các
nhà nước phong kiến trong việc giải quyết các công việc của xã hội vừa xuất phát
từ nhu cầu đòi hỏi của xã hội phong kiến, vừa phụ thuộc vào mong muốn, nguyện
vọng của cư dân và cả ý chí chủ quan, lịng tốt của những người cầm quyền. Trong
xã hội phong kiến, mọi quyền lực đều thuộc tay vua chúa nên nề chính trị tốt hay
xấu phụ thuộc vào nhân cách, phẩm hạnh của vua, chúa, quan lại trong thời đó.
Các nhà nước phong kiến phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của đất nước mà thực
hiện các hoạt động kinh tế xã hội vì lợi ích dân cư, vì sự phồn vịnh của quốc gia.

19


Tuy nhiên, sự quan tâm tới các hoạt động xã hội của nhà nước phong kiến chưa
nhiều, chưa đúng với vị trí của nó trong xã hội ( chính sách bế quan tỏa cảng,…)
Nhà nước tư sản ra đời đánh dấu một sự biến đổi lớn về tính xã hội trong bản chất

nhà nước. Tính xã hội nổi trội hơn bên cạnh tính giai cấp thì được che dấu một
cách kín đáo đi. Do thể chế như: nghị viện, phổ thông đầu phiếu,… và thiết chế tư
sản dân chủ được xác lập, vai trò xã hội của nhà nước ngày càng quan trọng hơn,
thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nhà nước tư sản tổ chức quản lý các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội; thực hiện có hiệu quả các chính sách kinh tế - xã
hội; phát triển giáo dục, văn hóa, khoa học, cơng nghệ,…. Tuy nhiên, tính xã hội
thể hiện khác nhau qua các giai đoạn phát triển của nhà nước tư sản:
 Giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh: là giai đoạn hình thành và phát triển chế
độ tư hữu tư sản đối với các tư liệu sản xuất. Tính xã hội biểu hiện khá rõ
bởi sự định hình các thể chế dân chủ, các tổ chức, đoàn thể tiến bộ.
 Giai đoạn đế quốc chủ nghĩa là giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa
tư bản lũng đoạn nhà nước: tính xã hội bị thu hẹp do nhà nước tư sản bị các
nhóm tư bản độc quyền chi phối, nó chủ yếu bảo vệ lợi ích của các nhóm tư
bản độc quyền hay các tập đoàn tư bản độc quyền.
 Giai đoạn nhà nước tư sản hiện đại: nhà nước quan tâm tới nhiều vấn đề xã
hội, dành nhiều chi phí cho phúc lợi xã hội, cho giáo dục, y tế và các hoạt
động xã hội khác. Nhiều nhà nước cịn quan tâm đến các chương trình nhân
đạo, xóa bỏ hạn chế trong kinh doanh đối với tư nhân, tư nhân hóa nền kinh
tế đất nước, tăng vai trị điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế,...
Nhà nước xã hội chủ nghĩa: tính xã hội được mở rộng dần bởi mục đích cuối cùng
của nhà nước XHCN là cải tạo xã hội, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn.Nhà
nước tìm cách xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
hướng tới xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột trong xã hội. Nhà nước tham gia quản lý hầu
20


hết các mặt quan trọng của đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa trong
đó quan trọng nhất là tổ chức , quản lý kinh tế.
Như vậy, tính xã hội là một thuộc tính của nhà nước thể hiện bản chất của tốt đẹp
của mỗi nhà nước.

Câu 10: Trình bày sự hiểu biết của em về nhà nước “của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân”.
Trả lời
Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt, gồm một nhóm người tách ra khỏi xã hội
để chuyên thực thi quyền lực nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích
chung của xã hội cũng như lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Nhân dân là…………..
Nhà nước “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là một kiểu nhà nước tiến bộ,
văn minh và nhân đạo.
Nhà nước của Nhân dân có nghĩa là tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhân dân có tồn quyền quyết
định tính chất, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, mục tiêu, phương hướng, động lực, xu
hướng phát triển của nhà nước, sử dụng bộ máy nhà nước để thực hiện quyền lực
của mình, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Cán cơ quan nhà
nước, công chức, viên chức quan hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của
nhân dân, chụi giám sát và có trách nhiệm báo cáo hoạt động với nhân dân. Nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp thơng
qua việc bầu cử để bầu ra các cơ quan đại diện, người đại diện cho mình để thực
hiện quyền lực nhà nước, bằng dân chủ đại diện gián tiếp thông qua các cơ quan
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác. Các cơ quan nhà
21


nước nhận quyền lực nhân dân trao cho mình và thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực và chụi trách nhiệm trước nhân dân.
Nhà nước do nhân dân được hiểu là nhân dân tổ chức lên nhà nước. Nhân dân trực
tiếp hoặc gián tiếp bầu ra các cơ quan nhà nước (Cử tri cả nước đi bầu cử, bỏ phiếu
bầu ra Quốc hội và HĐND, sau đó, QH và HĐND thành lập ra các cơ quan khác
của nhà nước). Nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào việc xây dựng và
thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước (Nhân dân đóng góp

ý kiến vào việc xây dựng Hiến pháp, các bộ luật, thực hiện các văn bản đó khi
chúng được ban hành và có hiệu lực). Nhân dân tham gia bàn bạc, thảo luận, quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương thông qua hoạt đông
trưng cầu dân ý. Nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước,
đấu tranh phịng chống tình trạng quan liêu, tham nhũng, tham ơ,lãng phí và các
hoạt động tiêu cực khác của nhà nước.
Nhà nước vì nhân dân thể hiện qua tất cả mọi chính sách, chủ trương, hoạt động
của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phục
vụ nhân dân. Cơ quan nhà nước, cán bộ, công viên chức tôn trọng nhân dân, làm
việc tận tụy phục vụ nhân dân, đấu tranh tẩy chay nạn tham ô, tham nhũng, lạm
quyền và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước.
Nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” mang bản chất tốt đẹp, thể
hiện tính nhân đạo và nhân văn của một nhà nước tiến bộ, đề cao dân chủ trong
hoạt động và tổ chức, tất cả vì sự phát triển của loài người
Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Câu 11: Phân tích khái niệm chức năng nhà nước. Trình bày các phương thức
thực hiện chức năng nhà nước.

22


Trả lời
Chức năng nhà nước là một trong những khái niệm cơ bản của khoa học pháp lý.
Việc nghiên cứu về nó có ý nghĩa lớn trong lý luận và cả thực tiễn. Về lý luận, nó
giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn bản chất, vai trò, nhiệm vụ, chiến lược và mục tiêu
lâu dài của mỗi nhà nước. Về thực tiễn, nó giúp góp phần tìm ra các giải pháp để
nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước nói chung, của từng cơ quan nhà
nước nói riêng, phân định rõ ràng và cụ thể thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước
các cấp.
Chức năng nhà nước là các hoạt động cơ bản mang tính tương đối ổn định của nhà

nước, phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ, bản chất của nhà nước, được xác định bởi
điệu kiện kinh tế xã hội của từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt, nó ra đời để tổ chức và quản lý xã hội.
Với những ưu thế của nó, nhà nước là tổ chức duy nhất trong xã hội có đầy đủ khả
năng và điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ và đảm nhiệm tốt vai trị của mình.
Nhà nước thực hiện rất nhiều hoạt động trong quá trình tồn tại của mình, tuy nhiên,
khơng phải hoạt động nào của nhà nước cũng được thừa nhận là chức năng, chỉ
những hoạt động chủ yếu, quan trọng, mang tính thường xuyên, liên tục và ổn
định, trực tiếp xuất phát và thể hiện đầy đủ bản chất, vai trò cũng như cơ sở kinh
tế, xã hội và các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược mới được coi là chức năng nhà
nước.
Chức năng nhà nước phù hợp với bản chất, mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nước.
Trong đó, yếu tố bản chất là yếu tố quan trọng và cơ bản nhất. Ví dụ, ở kiểu nhà
nước chủ nơ và nhà nước phong kiến, giai cấp cầm quyền đều hướng tới mục đích
thiết lập, bảo vệ và duy trì quyền lực thống trị của mình nên chức năng chủ yếu
trong hai kiểu nhà nước này là chức năng bảo vệ, duy trì chế độ tư hữu tư liệu sản
23


xuất và sản phẩm và đàn áp phong trào nông dân, nơ dịch họ về cả tư tưởng, chính
trị và kinh tế.
Điều kiện kinh tế xã hội là yếu tố xác định chức năng nhà nước. Nói như vậy bởi
nhà nước chỉ thực hiện được đầy đủ và tốt các chức năng của mình khi có nền tảng
kinh tế và xã hội tốt. Kinh tế là cơ sở xác định đồng thời cũng là cơ sở phát triển
các chức năng nhà nước. Kinh tế đóng vai trị là yếu tố đảm bảo cho các chức năng
nhà nước. Kinh tế càng mạnh thì chức năng càng được thực hiện tốt. Chức năng
được thực hiện vì mục tiêu tổ chức và quản lý xã hội. Tuy nhiên, xã hội cũng tác
động trở lại tới chức năng. Xã hội phát triển, nhà nước càng dễ dàng để thực hiện
các chức năng của mình.
Nhà nước sử dụng nhiều phương thức để thực hiện các chức năng của mình, tuy

nhiên, phương thức chủ yếu nhất là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật, bảo vệ pháp luật.
Xây dựng pháp luật là công việc nhà nước đặt ra một hệ thống các quy tắc sử xự
chung nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Hệ thống pháp luật sẽ từng
bước được hình thành và hồn thiện trong q trình tổ chức hoạt động và xây dựng
bộ máy của nhà nước, phát triển cùng sự phát triển của xã hội. Chức năng nhà
nước được thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống cho nên để đảm bảo các hoạt
động của nhà nước được diễn ra một cách đồng bộ, nhịp nhàng và hiệu quả thì cần
có một sự quy định chung. Xây dựng pháp luật đảm nhiệm vai trị đó. Đây là bước
đặt nền móng cho việc thực hiện tốt các chức năng của nhà nước.
Tổ chức thực hiện pháp luật là phương thức cần thiết để đảm bảo việc thực hiện
các chức năng của nhà nước bởi pháp luật sau khi được xây dựng, nó khơng thể tự
mình đi vào đời sống của nhân dân. Các cá nhân, tổ chức không thể tự thực hiện
các quy định của pháp luật. Vì vậy nhà nước cần tiến hành một số hoạt động để
24


phổ biến pháp luật như giáo dục, tuyên truyền,… từ đó, người dân biết đến các quy
định của pháp luật. Nhà nước còn phải tiến hành các hoạt động khuyến khích, tháo
gỡ các khó khăn của người dân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật. Có
như vậy, các địi hỏi của nhà nước mới có thể được thực hiện một cách thỏa đáng.
Bảo vệ pháp luật là một hoạt động quan trọng bởi đi liền với sự ra đời của pháp
luật là vi phạm pháp luật. Vì vậy, để đảm bảo tính nghiêm minh, hạn chế tối đa các
vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp luật là sự cần thiết và có vai trị quan trọng. Bảo vệ
pháp luật của nhà nước thông qua các hoạt động xử lý những người vi phạm pháp
luật, giáo dục, cải tạo họ để răn đe phòng ngừa các vi phạm có thể tiếp tục xảy ra.
Nhà nước có một bộ máy cưỡng chế đặc biệt để đảm bảo cho hoạt động này: nhà
tù, cơng an,…
Câu 11-13: Phân tích chức năng kinh tế, xã hội, bảo vệ đất nước của nhà nước
CHXHCN Việt Nam hiện nay.

Trả lời
Khái niệm chức năng kinh tế, xã hội, bảo vệ đất nước:
Chức năng kinh tế là các hoạt động mang tính tương đối ổn định, phù hợp với bản
chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế của nhà
nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tương tự với chức năng văn hóa và chức năng bảo vệ Tổ quốc.
1.Chức năng kinh tế
1.1.Nội dung thực hiện chức năng kinh tế
Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng kinh tế thông qua hai mặt hoạt động là tổ
chức kinh tế và quản lý kinh tế. Với định hướng phát triển là phát triển nền kinh tế
25


×