Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài tập lớn hiến pháp những điểm mới về quốc hội theo hiến pháp 2013 so với hiến pháp 1992

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.28 KB, 10 trang )

Mục lục


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

MỞ ĐẦU
Ngày 28-11-2013, với 97,59% số phiếu tán thành, tại kỳ họp thứ 6, Quốc
hội khóa XIII đã thơng qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (sửa đổi). Ðây là một sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng có tính lịch sử,
mở ra một thời kỳ mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta.
Với tính cách là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, thể hiện bản
chất dân chủ của một nhà nước, Quốc hội ln chiếm một vị trí quan trọng trong
các quy định pháp luật, mà trước hết là Hiến pháp, về thể chế chính trị nói chung
và bộ máy nhà nước nói riêng. Việc sửa đổi Hiến pháp Việt Nam năm 1992 lần
mới đây nhất (năm 2013) tất yếu kéo theo những thay đổi đáng kể đối với chế
định Quốc hội. Chính vì vậy em đã chọn đề tài “Những điểm mới về Quốc hội
theo Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)” làm
bài tập lớn học kì. Dù đã có nhiều cố gắng song vẫn cịn nhiều thiếu sót, mong
thầy cơ góp ý để bài tập của em được hồn thiện hơn.

2


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập


NỘI DUNG
Chương V của Hiến pháp 2013, sửa đổi, quy định về Quốc hội, với 16
điều, từ Ðiều 69 đến Ðiều 85 (so với 18 điều, từ Ðiều 83 đến Ðiều 100 tại
Chương VI của Hiến pháp năm 1992). Về mặt kỹ thuật, số lượng các điều trong
Chương có giảm đi (giảm 2 điều); cách thiết kế các điều cũng thể hiện sự hợp lý,
logic, chặt chẽ hơn về văn phong, bố cục, thể hiện bước tiến mới về kỹ thuật lập
hiến.
1.

Điểm mới về vị trí, tính chất của Quốc hội

Theo Hiến pháp năm 2013, vị trí, tính chất của Quốc hội được quy định
tại Điều 69, Điều đầu tiên của chế định Quốc hội (Chương V), tương ứng với
Điều 83 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). So sánh hai
Điều này, có thể thấy vị trí của Quốc hội trong cấu trúc tổ chức bộ máy nhà nước
theo Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa hoàn toàn Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi,
bổ sung năm 2001). Theo đó, cả hai Điều đều quy định cùng một nội dung:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quốc hội vẫn được quy
định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam như Hiến pháp năm 1992. Với vị trí
này, Quốc hội tiếp nhận quyền lực trực tiếp từ nhân dân với tư cách là cơ quan
đại diện cao nhất của nhân dân. Quốc hội thực hiện quyền lực đó thơng qua chức
năng của mình và thơng qua bộ máy nhà nước do mình kiến tạo nên một cách
trực tiếp hay gián tiếp. Cũng với vị trí này, về mặt nhà nước, Quốc hội đứng ở vị
trí cao nhất trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khơng
có cơ quan nhà nước nào đứng ở vị trí ngang bằng hoặc cao hơn Quốc hội.
Tuy nhiên, khác với Hiến pháp năm 1992, Quốc hội trong Hiến pháp
năm 2013 khơng cịn là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến. Đây là một sự đổi
mới cơ bản về nhận thức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà

Đảng ta đã đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đồng thời kế thừa tư tưởng lập
hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946. Trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ thông qua các cơ quan đại diện

3


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

(Quốc hội, Hội đồng nhân dân)1 mà cịn thơng qua các cơ quan nhà nước khác,
và bằng cả hình thức dân chủ trực tiếp như phúc quyết Hiến pháp khi Quốc hội
quyết định (Điều 120), trưng cầu dân ý (Điều 29). Vì thế, quyền lập hiến cao
hơn quyền lập pháp, Nhân dân sử dụng quyền lập hiến để thiết lập quyền lực
nhà nước, trong đó có quyền lập pháp. Bằng quyền lập hiến của mình, Nhân dân
giao cho Quốc hội thực hiện một số quyền cụ thể như quyết định việc làm Hiến
pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết
tán thành; thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp; thảo luận và thông qua Hiến
pháp khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (Điều
120).
2.

Điểm mới về chức năng của Quốc hội

Kể từ khi bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức theo mơ hình xã hội
chủ nghĩa (từ Hiến pháp 1959 cho tới nay), Quốc hội luôn được quy định 3 chức

năng là lập hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. So với Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001), về cơ bản nội dung ba chức năng của Quốc hội
vẫn được kế thừa trong Hiến pháp 2013. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 có sự
đổi mới về cách thể hiện, khơng liệt kê dài dịng như Hiến pháp năm 1992. Cụ
thể, Hiến pháp năm 2013 đã xác định vai trò của Quốc hội là cơ quan “thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
và giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước”.
2.1.

Điểm mới về chức năng lập hiến, lập pháp

Về thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 đã có
sự phân biệt giữa quyền lập hiến và quyền lập pháp: “Thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp” (điều 69) mà không quy định như Hiến pháp năm 1992 là “cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” (Lập hiến và lập pháp theo Hiến
pháp năm 1992 là một quyền).
Đối với quyền lập hiến, sự khác biệt giữa hai bản Hiến pháp là khơng có
nhiều do tính duy nhất của Hiến pháp nên dù quy định như thế nào thì Quốc hội
cũng là cơ quan duy nhất làm Hiến pháp. Đối với quyền lập pháp, theo quy định
1 Trong mơ hình tập quyền XHCN, tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc toàn bộ quyền lực tập trung vào
Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Với quan niệm sau khi bầu cử, nhân dân chuyển hết quyền lực nhà nước của
mình cho Quốc hội và Hội đồng nhân dân thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước. Do vậy, Hiến pháp năm
1992 quy định nhân dân chỉ thực hiện quyền lực nhà nước của mình thơng qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
(điều 6).

4


Trường Đại học Luật Hà Nội

nhóm

Bài tập

của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì chỉ có Quốc hội mới
có quyền này. Tuy nhiên, trên thực tế thì khơng phải chỉ có Quốc hội và một
mình Quốc hội cũng khơng có đủ khả năng tự mình xây dựng hệ thống pháp luật
hồn chỉnh. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã khơng cịn dùng từ “duy
nhất” để chỉ chức năng lập pháp của Quốc hội. Quy định này cũng mở đường
cho việc Quốc hội có thể ủy quyền cho Chính phủ cùng tham gia cơng tác lập
pháp. Điều này cũng đã được thể hiện trong quy định về quyền ban hành văn
bản pháp luật của Chính phủ tại Điều 100 Hiến pháp năm 2013, theo đó “Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành
văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi
hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”2.
Hiến định nội dung này, Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi Quốc hội phải tập
trung hơn nữa vào chức năng làm luật để khắc phục tình trạng vừa thiếu pháp
luật, vừa mẫu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, thực hiện có hiệu quả
chủ trương của Đảng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, trong đó có
Quốc hội đều phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, khơng thể tự định cho mình
những nhiệm vụ, quyền hạn khác ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn đã được
Hiến pháp, pháp luật quy định
2.2.

Điểm mới về chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định về chức
năng giám sát tối cao của Quốc hội như sau: “Quốc hội thực hiện quyền giám

sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (Điều 83, đoạn 4). Trong
khi đó, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội … giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước” (Điều 69). So với Hiến pháp năm 1992 thì quy định
này có các điểm mới sau đây: thứ nhất, không quy định giám sát tối cao toàn bộ
hoạt động của nhà nước (bỏ “toàn bộ”), tức là phạm vi giám sát tối cao có giới
hạn. Sự Điều chỉnh, bổ sung này trong Hiến pháp năm 2013 cũng phù hợp với
thực tiễn, bởi trong suốt quá trình lịch sử, hầu như phạm vi hoạt động giám sát
của Quốc hội chưa bao giờ được thực hiện đối với các cơ quan nhà nước từ cấp
tỉnh trở xuống. Thứ hai, quy định khái quát để Luật có điều kiện cụ thể hóa

2 Tơ Văn Hịa, “Một số điểm mới về vị trí, chức năng của Quốc hội trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”.

5


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

những hoạt động nào của nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc
hội.
2.3.

Điểm mới về chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước

Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội “Quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước” (điều 69) mà không liệt kê quyết định những vấn đề gì như Hiến

pháp năm 1992: “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và
đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những
nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của công dân”. Quy định liệt kê như
Hiến pháp 1992 tưởng là cụ thể nhưng vẫn không bao quát được một số thẩm
quyền quan trọng do Quốc hội thực hiện vốn vẫn được coi là lĩnh vực quan
trọng của nhà nước, ví dụ như bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức vụ cao nhất
trong bộ máy nhà nước hay thông qua ngân sách nhà nước hàng năm,… Quy
định như vậy chỉ phù hợp với quan niệm Quốc hội là một thiết chế có tồn
quyền trong mơ hình tập quyền XHCN trước đây. Trong Hiến pháp năm 2013,
chức năng này đã được quy định ngắn gọn hơn, không theo phương pháp liệt kê
và do đó có tính bao quát cao hơn. Giờ đây Quốc hội có thể quyết định bất kỳ
vấn đề gì được coi là quan trọng của đất nước. Những vấn đề quan trọng đó, tất
nhiên, không phải do Quốc hội quyết định một cách tùy tiện mà phải được trình
lên Quốc hội theo các thủ tục do pháp luật quy định. Hiến pháp năm 2013 quy
định Quốc hội “quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước” (Điều 69) sẽ là
cơ sở Hiến định để sau này Luật cụ thể hóa phù hợp với vai trò của Quốc hội
trong từng thời kỳ.
3.

Điểm mới về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội

So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có một số thay đổi về
quy định nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội sau đây:
- Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quốc hội… quyết định chương trình
xây dựng Luật, pháp lệnh”. (Khoản 1 điều 84). Hiến pháp năm 2013 bỏ quy định
này cho phù hợp với thực tiễn, đảm bảo vị trí của Quốc hội trong tổ chức quyền
lực nhà nước.
- Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với các thiết chế độc lập như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử
và các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội thành lập (khoản 2 điều 70). Sở dĩ có

sự thay đổi này là do Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung ở chương X hai thiết chế
6


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

hiến định độc lập (hai cơ quan) là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà
nước.
- Hiến pháp năm 1992 quy định Quốc hội có nhiệm vụ quyền hạn:
“Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” (khoản 3 điều 83). Đây là
nhiệm vụ quyền hạn của hành pháp thuộc trách nhiệm của Chính phủ và khơng
phù hợp với Quốc hội trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, Hiến
pháp năm 2013 đã quy định, Quốc hội “quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách
và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế xã hội của đất” (khoản 3 điều 70).
- Khoản 4 Hiến pháp 2013 có hai vấn đề mới: một là, Quốc hội quyết
định nguyên tắc phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung
ương và ngân sách địa phương; hai là, Quốc hội quyết định mức giới hạn an
toàn nợ quốc gia, nợ cơng, nợ Chính phủ. Với quy định mới này, trách nhiệm
của Quốc hội được tăng cường trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.
- Khoản 6 Hiến pháp 2013 bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc
quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử
quốc gia, Uỷ ban Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do nhà nước thành
lập.
- Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 điều 70)
cho phù hợp với u cầu đổi mới mơ hình Tịa án nhân dân, làm rõ hơn vai trò
của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, thơng qua

đó, Quốc hội kiểm sốt được nhân sự của Tòa án tối cao, cơ quan xét xử cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời nâng cao vị trí
của thẩm phán, góp phần đảm bảo cho thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật theo tinh thần cải cách tư pháp. Đây cũng là cách thức để Quốc hội thay mặt
nhân dân kiểm sốt việc thực hiện quyền tư pháp thơng qua quyền phê chuẩn
của mình.
- Khoản 8 thêm nhiệm vụ, quyền hạn thứ tám cho Quốc hội: “Bỏ phiếu
tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”. Bỏ
phiếu tín nhiệm là một việc được bổ sung vào nhiệm vụ, quyền hạn thứ bảy (cũ)
trong lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001. Hiến pháp 2013 từ “một chi
tiết” đã nâng lên thành “một nhiệm vụ, quyền hạn” ngang hàng với các nhiệm
vụ, quyền hạn khác của Quốc hội. Việc quy định “bỏ phiếu tín nhiệm” là một
nhiệm vụ, quyền hạn “độc lập” với các nhiệm vụ, quyền hạn khác của Quốc hội
7


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

là hồn tồn phù hợp với tình hình hiện tại (khi cả nước đang quyết liệt thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI- Một số nhiêm vụ cấp bách về công tác
xây dựng Đảng hiện nay).
- Phân định rõ hơn các loại điều ước thuộc thẩm quyền phê chuẩn hoặc
bãi bỏ của Quốc hội. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội có thẩm
quyền: “Phê chuẩn, quyết định gia nhập, hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước
quốc tế liên quan đến chiến tranh, hịa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành
viên của Cộng hòa xã hội Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan
trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân và điều ước quốc tế khác trái với Luật Nghị quyết của Quốc hội” (khoản 14
điều 70). Trong lúc đó Hiến pháp năm 1992 quy định: “Phê chuẩn hoặc bãi bỏ
điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch
nước” (khoản 13 điều 84). Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm
2013 phân định rõ những điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi
bỏ của Quốc hội, phân biệt được với thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc
phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế mà Hiến pháp năm 1992 chưa làm được.
4.

Điểm mới về cơ cấu tổ chức của Quốc hội
4.1.
Điểm mới về uỷ ban thường vụ Quốc hội

Trước hết Ủy ban thường vụ Quốc hội khơng cịn nhiệm vụ “Cơng bố và
chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội”, vì nhiệm vụ này đã được chuyển cho Hội
đồng bầu cử quốc gia (một thiết chế độc lập mới). So với Điều 91 Hiến pháp
1992 thì khoản 5 được tách thành hai khoản mới. Đoạn đầu thuộc công tác giám
sát, được quy định thành nhiệm vụ, quyền hạn thứ ba (khoản 3 Điều 74): “Giám
sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tịa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ
quan khác do Quốc hội thành lập”. Đoạn hai được quy định thành khoản 4 mới
của Điều 74 Hiến pháp 2013, đó là quyền “Đình chỉ việc thi hành văn bản của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội
quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.

8



Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

Một nhiệm vụ-quyền hạn hoàn toàn mới là: “Quyết định thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương” (khoản 8 Điều 74).
Bổ sung thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ
tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước (khoản 6 Điều 74);
Bổ sung thẩm quyền phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc
mệnh tồn quyền củaCộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 12 Điều 74).
Bởi vì, vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở nước
ngoài nên việc quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn để Chủ tịch
nước bổ nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ là cần thiết. Quy định này cũng là sự kế thừa
các quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và cũng phù hợp
với thông lệ quốc tế.
4.2.

Điểm mới về hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội

Từ tính chất hoạt động của Quốc hội và yêu cầu công tác cán bộ, Hiến
pháp 2013 quy định về các cơ quan của Quốc hội có sự đổi mới theo sự phân
cấp quản lý cán bộ. Quốc hội chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc và Chủ nhiệm
các Ủy ban; cịn Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm các Ủy ban và
các Ủy viên Hội đồng, Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê

chuẩn. Khác với Hiến pháp 1992 “Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch,
các Phó Chủ tịch và các ủy viên.”.
Xuất phát từ kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội (theo quy định của
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003), một thiết chế mới được chính
thức quy định trong Hiến pháp năm 2013, đó là Ủy ban lâm thời của Quốc hội.
Từ Quốc hội khóa XI đến nay có khá nhiều vấn đề mà Quốc hội phải thành lập
các Đoàn giám sát (thực chất là Ủy ban lâm thời) để xử lý. Phần lớn các vụ việc
đó là các vụ án oan, sai hoặc các vấn đề kinh tế có sai sót nghiêm trọng. Vì vậy
Hiến pháp năm 2013 có hẳn một điều quy định về Ủy ban lâm thời, đó là Điều
78, nội dung như sau: “Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để
nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định”.
KẾT LUẬN
9


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhóm

Bài tập

10



×