Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một số phương pháp dạy học giúp học sinh lớp 9 học tốt các tác phẩm thơ trữ tình bộ môn ngữ văn ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.04 KB, 19 trang )

1. Phần mở đầu:
1.1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Mơn Ngữ văn nói chung và đặc biệt phần văn học nói riêng ở trường
THCS đó là những tác phẩm được chọn lọc từ trong kho tàng văn hóa dân
tộc và nhân loại. Đặc trưng của môn văn trong nhà trường vừa mang tính
chất nghệ thuật ngơn từ vừa mang tính chất mơn học. Do đó cơng việc của
người giáo viên vừa mang tính sư phạm vừa mang tính nghệ thuật. Dạy học
văn trong nhà trường vừa phải căn cứ nguyên tắc, phương pháp vừa phải căn
cứ vào quy luật, tâm lý sáng tạo và cảm thụ văn học. Người giáo viên phải
có tâm hồn nghệ sĩ đồng thời phải có tài năng sư phạm. Trong phương pháp
dạy học văn, giáo sư Phan Trọng Luận đã chỉ rõ: "Một nhận thức đúng đắn
về nhiệm vụ dạy học văn trong nhà trường chỉ thực sự có được trên cơ sở
những hiểu biết thật thấu triệt về bản chất môn văn, về đặc điểm đối tượng
giáo dục, về nhiệm vụ chính trị tư tưởng của xã hội trong giai đoạn lịch sử
cụ thể, về mặt tâm lí văn hóa thẩm mĩ. Lại phải đặt môn văn học trong mối
liên hệ nhiều môn văn hóa khác trong chương trình. Có một quan điểm hệ
thống tổng thể như vậy để thấy thật rõ những quan hệ vốn có bên trong bản
thân mơn văn và những quan hệ vốn có bên ngồi mơn văn nữa. Tự khép
mình một cách chật hẹp trong khn khổ mơn văn người giảng dạy không
thể nào tạo những hiệu quả giáo dục mong muốn" (trang 39 - Trong cuốn
phương pháp dạy học văn ). Môn văn trong nhà trường là một mơn học, nó
góp phần hình thành phát triển và hoàn thiện nhân cách học sinh theo mục
tiêu giáo dục. Mặt khác việc dạy văn trong nhà trường chịu sự chi phối của
phương thức phản ánh bằng hình tượng của tác phẩm văn chương. Đặc biệt
là dạy học các tác phẩm thơ trữ tình. Nó có tác dụng sâu sắc và lâu bền đến
đời sống tâm hồn và trí tuệ của các em. Song để đạt được yêu cầu đó địi hỏi
người giáo viên dạy văn phải tìm được phương pháp dạy học có hiệu quả.


Đồng thời biết cách tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ động
tìm tịi khai thác kiến thức bài học. Nhưng thực tế ở trường THCS còn có


nhiều bất cập. Việc vận dụng các phương pháp dạy học còn phụ thuộc nhiều
vào đối tượng học tập của học sinh. Qua q trình tích luỹ kinh nghiệm dạy
học nhiều năm, vì vậy bản thân tơi đã suy nghĩ và xây dựng một số phương
pháp dạy học giúp các em học tốt các tác phẩm thơ trữ tình ở trường THCS.
Đặc biệt ở chương trình văn lớp 9 có nhiều tác phẩm thơ trữ tình nhất. Xuất
phát từ thực tế đó, bản thân tơi đã mạnh dạn áp dụng sáng kiến “Một số
phương pháp dạy học giúp học sinh lớp 9 học tốt các tác phẩm thơ trữ tình
bộ mơn Ngữ văn ở trường THCS”, nhằm góp phần vào việc nâng chất
lượng, hiệu quả môn Ngữ văn lớp 9, đặc biệt là phần cảm nhận tác phẩm thơ
trữ tình.
1.2. Điểm mới của sáng kiến.
Với sáng kiến này đã có nhiều người nghiên cứu, nhưng chưa đưa ra
được những giải pháp tối ưu, hiệu quả, chưa nâng cao được chất lượng dạy
học các tác phẩm thơ trữ tình. Chính vì điều này, bản thân tôi nghiên cứu và
đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy các tác
phẩm thơ trữ tình lớp 9 ở trường THCS. Sáng kiến mà tơi áp dụng có rất
nhiều điểm mới, tập trung các phương pháp và cách thức tổ chức dạy học
trên lớp phần dạy các tác phẩm thơ trữ tình nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo theo hướng phát triển năng lực tư duy học sinh. Giáo viên
cũng sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, góp phần nâng cao hiệu
quả dạy và học các tác phẩm thơ trữ tình. Giúp giáo viên dễ dàng tổ chức
dạy học để củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh.
1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến.
* Đối tượng: Học sinh lớp 9 ở trường THCS
* Phạm vi: Thuộc bộ môn Ngữ văn 9.


2. Phần nội dung:
2. 1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
Bộ môn Ngữ văn trong nhà trường vừa mang tính chất là mơn học,

vừa mang tính chất nghệ thuật ngơn từ. Là mơn học, nó có nhiệm vụ góp
phần hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh theo mục tiêu giáo
dục. Đặc trưng của bộ môn yêu cầu người giáo viên phải làm cho học sinh
biết chủ động tiếp cận tác phẩm theo hướng đọc, suy ngẫm, liên tưởng. Đặc
biệt khả năng đọc, hiểu và cảm thụ một tác phẩm thơ trữ tình lệ thuộc khơng
ít vào việc có thể trả lời được hay khơng những câu hỏi đặt ra ở những cấp
độ khác nhau. Mức thấp nhất là chỉ cần sử dụng những thông tin có ngay
trong văn bản. Đó là trường hợp câu trả lời có sẵn trong bài, là trình độ chỉ
mới biết đọc trên dòng. Mức cao hơn là buộc phải suy nghĩ và sử dụng
những thơng tin trong bài. Đó là trường hợp phải suy ra câu trả lời từ những
đầu mối có trong văn bản, là trình độ đã biết đọc giữa các dòng. Cao hơn
nữa là yêu cầu khái quát, liên hệ giữa những cái mà học sinh đã đọc với thế
giới bên ngồi bài học; đó là trình độ biết vượt ra khỏi dòng để đọc văn bản.
Phần nội dung này, để đánh giá thực trạng dạy phần tác phẩm thơ trữ tình
và kết quả học sinh nắm được kiến thức như thế nào, bản thân tôi đã sử dụng
phương pháp dạy học truyền thống. Thông qua một số giờ dạy tác phẩm thơ
trữ tình, tơi thấy: Học sinh học tập ít sơi nổi, việc phát biểu xây dựng bài ít,
cách cảm nhận về thơ chưa rõ nét, việc rút ra hình ảnh trong thơ chưa rõ. Để
đánh giá thực trạng, sau khi dạy xong bài thơ " Bếp lửa" của nhà thơ Bằng
Việt, tôi đã tiến hành kiểm tra 15 phút đối với học sinh lớp 9 1 tại đơn vị năm
học 2019-2020 để nắm bắt kết quả cảm thụ tác phẩm thơ trữ tình của học
sinh. Qua chấm bài của học sinh kết quả đạt được như sau:


Giỏi
Lớp



Khá


TB

Yếu

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

02

5,7

06

17,1

15


42,9

12

34,3

số
91

35

Từ kết quả trên tôi thấy việc học sinh tiếp thu kiến thức bài học cịn
bó hẹp chỉ mới trả lời những gì có sẵn trong vở ghi chép trên lớp. Cịn số
học sinh tự trình bày bài làm trên cơ sở kiến thức bài học để viết theo sự cảm
thụ riêng của cá nhân còn thấp. Bản thân đã suy nghĩ và tự đặt ra cho mình
câu hỏi: Làm thế nào để giúp học sinh tiếp thu và cảm thụ tốt các tác phẩm
thơ trữ tình thơng qua dạy học bộ môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS có
hiệu quả?
Cho nên trong đổi mới phương pháp dạy học vẫn kế thừa, phát triển
những mặt tích cực trong phương pháp dạy học truyền thống. Mặt khác giáo
viên phải học hỏi, vận dụng một số phương pháp dạy học mới, phù hợp với
hoàn cảnh, điều kiện dạy học để đạt hiệu quả giáo dục cao. Vì vậy tơi xin
đưa ra một số phương pháp dạy học các tác phẩm thơ trữ tình đối với học
sinh lớp 9 ở trường THCS như sau:
2.2. Các phương pháp giúp học sinh lớp 9 học tốt các tác phẩm trữ tình bộ
mơn Ngữ văn ở trường THCS.
Đặc trưng cơ bản của tác phẩm trữ tình. Đó là tiếng lịng, bộc lộ ý
thức trực tiếp của con người, là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt, là sản
phẩm của những rung động đột xuất nhất độc đáo nhất. Cái tơi trữ tình của

nhà thơ được bộc lộ một cách trực tiếp (đặc biệt lộ hẳn ra) tiếng nói trữ tình
trở thành tiếng lịng thầm kín.
Ngơn ngữ tác phẩm trữ tình được tổ chức một cách đặc biệt khác khác
thường nhờ phương tiện diễn cảm và biện pháp tu từ. Nó biểu hiện được cái


đặc thái tinh vi của tư tưởng. Ngôn ngữ thơ trữ tình vừa có tính chất cường
điệu vừa có tính chất cách điệu (cường điệu tạo hình ảnh, cách điệu tạo nhịp
điệu). Nó giàu âm thanh, nhạc điệu, tạo ra giọng điệu khi êm ái khi trữ tình.
Nội dung của phương thức trữ tình địi hỏi một hình thức thể hiện phù hợp,
tương ứng. Lời văn của tác phẩm trữ tình phải hàm súc, giàu nhịp điệu.
Chính vì thế, tác phẩm trữ tình có thể được viết bằng thơ hoặc văn xi,
nhưng thơ vẫn là hình thức ngơn từ phù hợp nhất của nó. Thơ trữ tình là
thuật ngữ chỉ chung các loại thơ thuộc loại trữ tình, trong đó những cảm xúc
và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện tượng đời
sống được thể hiện một cách trực tiếp. Thuật ngữ thơ trữ tình được sử dụng
nhằm phân biệt với thơ tự sự thuộc loại tự sự.
Những nét đặc trưng của thơ trữ tình sẽ chi phối, quy định phương
pháp chiếm lĩnh nó. Phải làm sao cho học sinh "lắng nghe cho được nhịp
điệu của sự sống nằm im trong chữ nghĩa, để tim mình rung cảm trở lại cái
rung cảm của tác giả, cùng vui buồn, căm giận, thương nhớ, đợi chờ, nâng
mình lên xúc cảm với cái đẹp trong hình tượng thơ, nghe nhạc mà thấy mùi
hương, nghe tiếng động mà thấy tĩnh mịch, thấy bóng đèn mà bóng tối hóa
thâm u... Tóm lại, đi vào thế giới tinh vi của thơ bằng cả con người thông
minh, nhạy cảm, tinh vi của mình.." (Lê Trí Viễn, Những bài giảng ở đại
học, Sđd.). Vì vậy, những phương pháp phân tích một bài thơ trữ tình được
tiến hành theo các bước sau:
2.2.1. Tiếp xúc bước đầu với văn bản:
Đọc diễn cảm: Mục đích là biến văn bản thành tác phẩm trong từng
học sinh, làm sống dậy tâm tư, tình cảm của nhà thơ gửi gắm, giãi bày trong

đó. Phải nghiên cứu kĩ, phân nhịp đúng, đọc đúng giọng điệu, đọc hay, đọc
diễn cảm – đọc vừa đồng cảm vừa diễn cảm. Đọc để tái hiện, tri giác hình
tượng thơ và tìm bố cục bài thơ.


Ví dụ : Khi hướng dẫn học sinh đọc bài thơ '' Đoàn thuyền đánh cá''
của nhà thơ Huy Cận. GV gọi một HS đọc một đoạn khoảng ba, bốn khổ
thơ. GV đọc một đoạn làm mẫu rồi gọi một HS đọc tiếp cho đến hết bài thơ.
Lưu ý đọc với giọng vui, phấn chấn, nhịp vừa phải. Ở những khổ thơ hai, ba
và bảy, đọc giọng cần cao lên một chút và nhịp cũng nhanh hơn.
Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đồn
thuyền đánh cá. Hai khổ đầu là cảnh lên đường tâm trạng náo nức của con
người, bốn khổ tiếp theo là cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa
khung cảnh biển trời ban đêm, khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong
buổi bình minh lên.
Với bố cục như trên, bài thơ đoàn thuyền đánh cá đã tạo ra một khung
cảnh không gian và thời gian rất đáng chú ý : không gian rộng lớn bao la với
mặt trời, biển, trăng, sao, mây, gió; thời gian là nhịp tuần hồn của vũ trụ từ
lúc hồng hơn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra biển rồi
trở về của đoàn thuyền đánh cá: mặt trời xuống biển, cả trời đất vào đêm,
trăng lên cao, đêm thở, sao lùa... rồi sao mờ, mặt trời đội biển nhô lên trong
một ngày mới. Điểm nhịp thời gian cho công việc của đoàn thuyền đánh cá
là nhịp tuần hoàn của thiên nhiên, vũ trụ.
Sau đó giáo viên giải tỏa những vướng mắc về từ ngữ bằng cách
hướng dẫn các em giải nghĩa một số từ khó ở phần chú thích SGK.
Giới thiệu tác giả và hồn cảnh ra đời của bài thơ.
Nhìn tổng quát bài thơ: nhan đề, bố cục và hình tượng (khách thể và
chủ thể trữ tình)
Hoặc như bài thơ “Bếp lửa” chẳng hạn mà việc đọc và tái hiện hình
tượng khơng thực hiện tốt thì khó thu được kết quả. Cả một dịng hồi niệm

tn chảy theo thời gian sống dậy trong tâm tưởng nhà thơ nếu như không
được tái hiện thì khó mà gợi được rung động cảm xúc.


Nhận thức như vậy nên khi dạy - học bài thơ “Bếp lửa” tôi chú trọng
hướng dẫn học sinh đọc trước ở nhà. Đọc và hình dung cảnh “Bếp lửa” quê
hương có Bà tần tảo nắng mưa, có Bà chăm chút cháu, có Bà gắn liền bên
“Bếp lửa”. Đến lớp, tôi hướng dẫn học sinh đọc với giọng chậm rãi, trầm
lắng, rồi bằng giọng đọc truyền cảm của mình, tơi đã đọc mẫu cho học sinh
đoạn thơ đầu: “Một bếp lửa chờn vờn ……… sống mũi cịn cay”, sau đó
hướng dẫn học sinh đọc và đọc tiếp trong quá trình phân tích. Kết hợp đọc
của thầy, đọc của trị, học sinh đã có những cảm nhận bước đầu về bài thơ
theo đúng hướng.
Với những bài thơ khác như bài “Đồng chí ”, “Bài thơ về tiểu đội xe
khơng kính”, “Mùa xuân nho nhỏ”, “Viếng lăng Bác” là những bài thơ
được phổ nhạc hoặc có liên quan đến bài ca nào đó thì bên cạnh việc hướng
dẫn đọc, tơi cịn hướng dẫn cho các em sưu tầm, nghe băng đĩa nhạc, xem
băng đĩa hình để giúp các em tái hiện hình tượng một cách dễ dàng hơn.
2.2.2. Thâm nhập vào hình tượng chủ thể trữ tình (hoặc nhân vật
trữ tình)
Hình tượng khách thể là bức tranh cuộc sống được tái tạo lại bằng
cảm xúc của nhà thơ với các chặng đường phát triển của nó.
Hình tượng chủ thể trữ tình là mạch cảm xúc và suy tư của nhà thơ
bộc lộ trực tiếp qua ngơn từ, hình ảnh, kết cấu và qua các chặng đường phát
triển của nó.
Chẳng hạn đến với bài thơ: "Ánh trăng'' của Nguyễn Duy như là lời
nhăc nhở một thái độ sống phải biết ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. Ánh
trăng trước hết là tiếng lòng, là sự suy ngẫm riêng của Nguyễn Duy, nhưng ý
nghĩa bài thơ khơng chỉ có thế. Nhà thơ đứng giữa hơm nay mà nhìn ngẫm
lại thời gian đã qua và từ tâm trạng riêng, tiếng thơ ông như là một lời cảnh

tỉnh, lời nhắc nhở. GV cần hướng dẫn HS cảm nhận được mối liên hệ giữa


tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể và tính
khái quát của bài thơ. Vầng trăng ở đây khơng chỉ là một hình ảnh của đất
trời thiên nhiên nữa mà còn biểu tượng cho q khứ nghĩa tình. Bài thơ
khơng chỉ là chuyện thái độ đối với những hi sinh, mất mát của thời chiến
tranh khi được sống trong hịa bình mà cịn là chuyện tình cảm nhớ về cội
nguồn nhớ về những người đã khuất. Hơn nữa, ánh trăng còn là lời nhắc nhở
mỗi con người về lẽ sống chung thủy với chính mình.
Có thể thâm nhập bằng giảng bình để giúp học sinh đi từ trực cảm
sang giai đoạn cảm thụ có lí tính. Nội dung giảng bình là những sắc thái tu
từ về ngữ âm, từ vựng, cú pháp.
Lời giảng của giáo viên nhằm giúp học sinh hiểu thuần túy về mặt
ngôn ngữ đối với một chi tiết nghệ thuật được phân tích.
Lời bình là làm cho học sinh hiểu được sự biến đổi nghệ thuật của tác
phẩm trong văn cảnh, chỉ ra giá trị nghệ thuật của từ, ngữ, câu, đoạn, chỉ ra
sức thông báo nhiệm màu của chi tiết nghệ thuật đó.
Ví dụ như khi hướng dẫn HS phân tích đoạn thơ thứ 3 trong bài thơ
Ánh trăng của Nguyễn Duy thì giáo viên có thể bình để giúp học sinh cảm
nhận sâu sắc về đoạn thơ như sau:
Vâng , sự vơ tình của vầng trăng năm xưa đã được nhà thơ Nguyễn
Duy diễn tả trong khổ ba của bài thơ.
từ hồi về thành phố 
quen ánh điện, cửa gương 
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Sự thay đổi của lịng người thật đáng sợ. Hồn cảnh sống đổi thay,
con người dễ thay đổi, có lúc để trở nên vơ tình, có kẻ dễ trở thành "ăn ở



bạc". Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được trưng diện và xài sang:
ở buynđinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương... và "vầng trăng tri kỉ", "vầng
trăng tình nghĩa" đã bị con người lãng quên, dững dưng. Cách so sánh, nhân
hố đặc sắc đã làm thấm thía chột dạ nhiều người:
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
"Trăng" được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, "trăng" như người
dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng cịn ai hay. Người có lương tâm, lương
tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên,
hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả.
Hai dịng thơ đã diễn tả thấm thía sự lãng qn, vơ tình , dững dưng của
con người đối với vầng trăng tình nghĩa khi xưa. Vầng trăng tình nghĩa ngày
nào giờ trở nên dững dưng xa lạ. Nghe sao mà xót xa đắng chát, lời thơ như
tiếng nức nghẹn ngào, chua xót, ánh điện ,cửa gương, nhà cao cửa rộng, phố
phường chật hẹp đông đúc cùng những toan tính đời thường đã che lấp mất
vầng trăng tình nghĩa. Trăng vẫn đấy mà sao lòng người xa quá, nhạt nhẽo
q, dững dưng vơ tình q.Trăng bây giờ như một vật thể thi thoảng đi qua
đầu ngõ bên ngoài lề cuộc đời của con người.
Dẫu biết rằng nhớ quên là lẽ thường gặp ở đời nhưng lãng quên quá khứ
nghĩa tình, lãng quên tri kỉ thì là sự bội bạc. Khơng cầu kì, khơng rườm rà về
câu chữ, Khơng đao to búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm
thì như trị chuyện, giãi bày tâm sự, nhà thơ đang trị chuyện với mình nhưng
sao mà nghe đắng đót, xót xa thấm thía sự bội bạc lãng quên đến thế. Chất
trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành.
3.2.3. Khám phá chủ đề , tư tưởng của tác phẩm


Vấn đề được đặt ra ở đây ra sao? Ví dụ bài thơ trên :Thái độ xử lí vấn
đề đó như thế nào? Điều sâu kín mà nhà thơ muốn bày tỏ? Ý nghĩa khách

quan tốt ra từ hình tượng thơ?
Tất nhiên, mỗi bài thơ là một sáng tạo độc đáo, nên khơng thể áp dụng
máy móc quy trình trên. Tùy từng bài cụ thể mà vận dụng sáng tạo cách tiếp
cận.
Ví dụ: Với bài thơ ''Bếp lửa" của nhà thơ Bằng Việt GV hướng dẫn
HS khám phá như sau;
Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm
tuổi thơ sống bên bà tám năm rịng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm
sóc, lo toan, vất vả và tình u thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ kỉ
niệm, đứa cháu này đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà,
về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm
nhớ mong về với bà. Mạch cảm xúc của bài thơ là đi từ hồi tưởng đến hiện
tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Bài thơ là một lời của người cháu ở nơi xa nhớ
về bà và những kỉ niệm với bà, nói lên lịng kính u và những suy ngẫm về
bà.
2.2.4. Tìm hiểu tâm trạng trong tác phẩm trữ tình
Tiếng nói trong tác phẩm trữ tình là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt
nhất là sản phẩm của tâm trạng. Thơ trữ tình chứa đầy tâm trạng nên việc
tìm hiểu tâm trạng trong bài thơ trữ tình cần được chú ý đúng mức. Huy Cận
nói: "bao trùm lên tất cả là một tâm trạng, tâm hồn, hơn thế nữa là một trạng
thái tâm thần và cơ thể cởi mở, thư thái mà sôi nổi, hào hứng mà lắng trong,
một trạng thái tồn diện trong đó ý và tình như đang sinh sơi, đang nhú lên,
tình đang đọng thành ý, ý cịn mang tất cả rung động của tình, một trạng thái
tinh khôi sáng tạo".


Giáo viên bằng hệ thống câu hỏi gợi mở, đàm thoại, tạo khơng khí
thoải mái giúp học sinh đồng cảm với cảm xúc, tâm trạng của tác giả.
Ví dụ: Khi dạy bài thơ: '' Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương.
Mạch cảm xúc của bài thơ dược diễn tả theo trình tự thời gian diễn ra

hoạt động vào viếng lăng Bác của nhân vật trữ tình: từ xa nhìn về lăng đứng trước lăng – vào lăng – chuẩn bị chia xa. Tâm trạng và thái độ của nhà
thơ cũng thay đổi theo: nỗi xúc động hồi hộp khi chuẩn bị được vào lăng (từ
xa nhìn thấy hàng cây xanh quanh lăng); sự choáng ngợp khi đứng trước
lăng, nghĩ về tầm vóc vĩ đại của lãnh tụ (Bác như một mặt trời trong lăng rất
đỏ); cảm giác gần gũi, thân thiết và nỗi đau nhói trong tim khi vào lăng,
được nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ vĩnh hằng (Bác như vầng trăng sáng
dịu hiền); nỗi buồn thương và ước nguyện chân thành khi chuẩn bị rời xa
Bác. Tất cả những tình cảm ấy đã được tác giả diễn tả một cách mộc mạc,
chân thành, tha thiết theo một diễn biến tâm trạng rất hợp lí.
2.2.5. Tìm hiểu các yếu tố thi pháp thơ trữ tình
Nói đến thơ là nói đến chất thơ, lời thơ, nhịp điệu (nhịp điệu tâm hồn,
cảm nhận thế giới một cách thầm kín) cách gieo vần, hình ảnh thơ, ngơn ngữ
thơ cơ động hàm súc.
Hay nói cách khác ngơn ngữ đó được trau chuốt, mài dũa, đan dệt và
phả vào đó linh hồn của nhà thơ. Người phân tích phải tìm cho được ý nghĩa
sâu xa của nó.
Về nghệ thuật, bài thơ ''Viếng lăng Bác" có giọng điệu vừa trang
trọng, phù hợp với đề tài viết về lãnh tụ lại vừa tha thiết, sâu lắng, phù hợp
với chủ đề tư tưởng của tác phẩm (cảm xúc khi được vào viếng lăng Bác).
Giọng thơ cũng có sự thay đổi linh hoạt để diễn tả các cung bậc cảm xúc.
Khi thì hồi hộp, náo nức (trên đường vào lăng viếng Bác), khi thì tự hào,
thành kính (đứng trước lăng), có lúc lại xúc động thiết tha (nghĩ tới cảnh


chia xa). Để tạo nên giọng điệu ấy, tác giả đã dùng kết hợp nhiều yếu tố như
thể thơ tự do (linh hoạt số chữ trong từng câu), gieo vần khơng cố định (có
khi liền, có khi cách), nhịp thơ biến đổi (lúc nhanh, lúc chậm, lúc dàn trải,
lúc dồn dập)...
Ngồi ra, bài thơ cịn sử dụng một hệ thống hình ảnh đặc sắc, kết hợp
một cách hài hịa giữa những hình ảnh thực (hàng tre xanh quanh lăng, mặt

trời đi qua trên lăng, dòng người vào lăng) với những hình ảnh có ý nghĩa ẩn
dụ, tượng trưng mang tính khái quát (mặt trời trong lăng, vòng hoa dâng bảy
mươi chín mùa xuân, vầng trăng, trời xanh). Chính hệ thống hình ảnh ấy đã
góp phần phác họa thành cơng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hoặc khi dạy - học bài “Mùa xuân nho nhỏ”, phải hướng học sinh
chú ý đến nhịp điệu dồn dập, hối hả trong bài thơ để thấy được khí thế vào
xuân tưng bừng nhộn nhịp của mùa xuân đất nước. Đặc biệt trong đoạn:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xơn xao…
Cùng với nhịp điệu là hình ảnh. Hình ảnh trong thơ trực tiếp truyền
đạt sự cảm nhận thế giới một cách chủ quan. Hình ảnh thơ thường gợi sự
ngâm ngợi và liên tưởng. Hình ảnh trong thơ là yếu tố được sử dụng với
nhiều chức năng khác nhau (có khi là những nhân tố trực tiếp của nội dung,
là bức tranh nhỏ của cuộc sống, có khi có được qua sự so sánh). Khi dạy các
bài thơ trữ tình, cần cho học sinh phát hiện và phân tích các hình ảnh, giá trị
biểu đạt của các hình ảnh để các em cảm thụ nội dung đầy đủ hơn.


Còn rất nhiều điều các em cần phải phát hiện và phân tích nữa như:
ngơn ngữ, các biện pháp tu từ, kết cấu. Trong phạm vi thời gian của từng tiết
học, dưới sự hướng dẫn của thầy qua mỗi bài sẽ củng cố, rèn luyện thêm cho
các em. Bằng hệ thống câu hỏi hướng dẫn, bằng phương pháp gợi tìm,
nghiên cứu kết hợp với quá trình truyền cảm thụ của thầy và với tính tích
cực được phát huy, các em sẽ có được kết quả cảm thụ tốt hơn.
2.2.6. Sau đây là một vài việc làm trong một tiết dạy cụ thể.
Bài “Nói với con” của Y Phương ( tiết 124,125 ).

“Nói với con” của Y Phương là một bài thơ nằm trong cảm hứng phổ
biến là lòng thương yêu con cái, mong muốn thế hệ sau nối tiếp xứng đáng,
phát huy truyền thống của tổ tiên, quê hương vốn là tình cảm cao đẹp của
con người Việt Nam từ bao đời nay. Ở bài thơ, Y Phương đã có một cách
nói xúc động của riêng mình. Hình thức người cha tâm tình, dặn dị đối với
con đã đem lại cho bài thơ giọng điệu thiết tha trìu mến, ấm áp và tin cậy.
Với bài thơ này khi dạy – học, để rèn luyện kỹ năng cảm thụ cho học sinh,
tôi đã tiến hành một số việc làm ở một số “cơng đoạn” như sau:
Để tạo hứng thú tìm hiểu bài thơ, khi hướng dẫn chuẩn bị bài tôi tiến
hành đọc trước một lần. Với giọng đọc mẫu truyền cảm, tôi gợi cho học sinh
hứng thú nghe. Để các em thích đọc, tơi có giảng giải cho các em đơi điều sơ
lược về cách nói của đồng bào miền núi - xoá dần cho các các em cảm giác
“bài thơ này trúc trắc, khó đọc”, sau đó tơi giao nhiệm vụ cụ thể: đọc thầm 2
- 3 lần, đọc to 2 - 3 lần (ở nhà). Nếu có thể đọc theo trí nhớ 1 - 2 lần (ở lớp)
và đọc thuộc lòng khi học xong bài. Và khi dạy - học trên lớp, tơi có cho
điểm đọc. Vì thế học sinh, đầu tiên là quyết tâm đọc để có điểm cao, sau đó
là học thuộc và thích đọc bài thơ.
Cũng để tạo hứng thú, trong giờ học (ngoại khố) tơi kể chuyện cho
các em về cuộc sống của đồng bào miền núi, dùng hình ảnh giới thiệu cuộc


sống của dân tộc thiểu số (cho các em xem hình ảnh, băng đĩa). Vì thế các
em biết đựơc cuộc sống sinh hoạt của người miền núi, giúp các em hiểu cách
tư duy của đồng bào miền núi, hiểu các câu thơ trong bài, khơng ngỡ ngàng
khi tìm hiểu tác phẩm.
Khi hướng dẫn các em tìm hiểu bài thơ, tơi gợi ý cho các em tìm
hiểu: “Nói với con” là khúc tâm tình của người cha dặn dị con, thể hiện
lòng thương yêu con của người miền núi mong muốn con phát huy truyền
thống của quê hương. Nội dung này được gắn với nội dung bài thơ “Khúc
hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” để các em so sánh, đối chiếu hiểu

thêm về sinh hoạt của các dân tộc ít người và niềm ước mong của họ, tạo
điều kiện cho các em hình thành cảm xúc tự hào, ý nguyện phát huy truyền
thống của cha ông.
Hoặc khi phân tích đoạn đầu của bài thơ - tơi gợi ý cho các em phân
tích hình ảnh cụ thể gợi khơng khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc mà ở đó cha
mẹ chăm chút con, thể hiện niềm vui trên từng bước đi của con “ Một bước
chạm tiếng nói, hai bước tới tiếng cười ”, giúp các em hiểu và có thêm tình
u gia đình và tự hào với gia đình hạnh phúc.
Để các em có kĩ năng phát hiện và phân tích các biện pháp tu từ của
bài thơ, tôi yêu cầu các em ôn lại các biện pháp điệp ngữ, so sánh để tìm
hiểu tác dụng của chúng trong đoạn thơ; các câu hỏi tập trung khai thác về
cách nói giàu hình ảnh, phóng khống và cụ thể, vừa giàu sức khái quát, vừa
mộc mạc giàu chất thơ, giọng điệu thiết tha trìu mến và sau khi học xong bài
thơ, tôi yêu cầu các em học sinh suy nghĩ làm bài tập về nhà.Giáo viên có
thể ra bài tập với câu hỏi như sau : Nếu em là người con trong bài thơ, em sẽ
nói với cha mẹ như thế nào? Với câu hỏi này từng cá nhân học sinh sẽ tự bộc lộ
những tâm tư tình cảm của mình theo cảm xúc mà các em đã được cảm nhận ở
bài thơ.


Qua vận dụng các phương pháp dạy học tích cực được kết hợp nhuần
nhuyển trong dạy học các tác phẩm trữ thơ tình nói trên, tơi đã khảo sát chất
lượng tiếp thu bài của học sinh bằng bài kiểm tra 15 phút lần 2 ở lớp 9 1 tại
đơn vị với câu hỏi:
Trình bày cảm nhận của em về nội dung và giá trị nghệ thuật của bài
thơ ''Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương?
Kết quả đạt được như sau:
Lớp

91


Sĩ số

35

Giỏi

Khá

TB

Yếu

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

06


17,1

12

34,3

14

40,0

03

8,6

Với kết quả trên cho thấy việc học tập của học sinh đã có bước thay
đổi rất tốt, thơng qua việc tổ chức dạy học trên lớp và việc chuẩn bị bài ở
nhà và hình thành kĩ năng, tơi nhận thấy đây là điều đã phát huy tốt hiệu quả
việc đổi mới phương pháp dạy học. Qua đối chiếu kết quả hai bài kiểm tra
tôi thấy việc sử dụng tốt các phương pháp dạy học để hướng dẫn học sinh
phân tích, tiếp cận các tác phẩm trữ tình có hiệu quả giúp học sinh có hứng
thú học tập bộ môn tốt hơn. Học sinh tiếp thu kiến thức bài học có nhiều
chuyển biến tích cực và khả quan hơn.
3. Phần kết luận:
Qua việc nghiên cứu thực hiện sáng kiến này, tôi thấy giáo viên phải
tâm huyết với nghề, không ngừng học hỏi bạn bè, đồng nghiệp, nhất là các
giáo viên trong tổ để không ngừng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Hơn thế
nữa, trong giảng dạy phải tạo cho học sinh niềm hứng thú, say mê trong giờ
học, tạo cho các em thoải mái và nhẹ nhàng hơn trong tiếp nhận tri thức thì
kết quả học tập sẽ tốt hơn.



Thật vậy, giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học, ln tìm tịi,
sáng tạo thiết kế giờ giảng sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh thì
các em sẽ tích cực, chủ động hơn trong giờ học.
Qua kết quả giảng dạy đã đạt được tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, áp dụng
sáng kiến này một cách có hiệu quả cao hơn vào quá trình giảng dạy để nâng
cao chất lượng bộ môn và chất lượng giáo dục trong nhà trường những năm
tiếp theo. Sáng kiến này vẫn cịn nhiều điểm cần bổ sung hồn thiện, nên tơi
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến góp ý của q thầy cơ và đồng
nghiệp để tơi hồn thiện sáng kiến và góp phần nâng cao chất lượng bộ môn
Ngữ văn ở trường THCS.


MỤC LUC
TT
1

Nội dung

Trang

Phần mở đầu

1

1.1

Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm


1

1.2

Phạm vi áp dụng của sáng kiến kinh nghiệm

2

Phần nội dung

2

2.1

Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu

2

2.2

Các phương pháp giúp học sinh lớp 9 học tốt các tác phẩm thơ trữ

4

2

tình bộ mơn Ngữ văn ở trường THCS
2.2.1 Tiếp xúc bước đầu với văn bản

5


2.2.2 Thâm nhập vào hình tượng chủ thể trữ tình (hoặc nhân vật trữ tình)

5

2.2.3 Khám phá chủ đề, tư tưởng của tác phẩm

6

2.2.4 Tìm hiểu tâm trạng trong tác phẩm trữ tình

7

2.2.5 Tìm hiểu các yếu tố thi pháp thơ trữ tình

8

3

Phần kết luận

9


TI LIU THAM KHO
1. Nhà xuất bản giáo dục - Sỏch giỏo khoa Ng vn 9.
2. Nhà xuất bản giáo dơc - Sách giáo viên Ngữ văn 9.
3. Nhµ xt bản Đồng Nai - Thiết kế giáo án Ng
vn 9.
4. Bộ giáo dục và đào tạo - Chuẩn kiến thức môn

Ng vn THCS.
5. Nhà xuất bản giáo dục - Một số vấn đề đổi mới
phơng pháp dạy học Ng vn 9.
6. Sở GD&ĐT Quảng Bình- Tài liệu tập huấn tớch hợp
kĩ năng sống trong môn học Ngữ văn THCS.
7. Bé giáo dục và đào tạo - Chng trỡnh mụn Ng văn.




×