1
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA
CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN . VẬN DỤNG XÂY DỰNG ĐỘI
NGŨ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN
CÁCH MẠNG HIỆN NAY
Mở đầu
Đạo đức hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội, bao
gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận,
có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với
người khác và toàn xã hội. Với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang
tính tự giác và chủ yếu xuất phát từ nhu cầu bên trong, chịu sự tác động, điều
chỉnh bởi dư luận xã hội cùng sự kiểm tra của những người xung quanh.
Trong mọi xã hội đạo đức là một bộ phận trọng yếu của nền tảng tinh thần và
động lực phát triển của xã hội ấy, sự suy thoái về đạo đức lối sống sẽ dẫn đến
nguy cơ làm giảm sự đoàn kết thống nhất trong đảng, sự đồng thuận trong
toàn xã hội, tác động đến sự ổn định và phát triển bền vững trong toàn xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh mất đi đã để lại cho Đảng, cho dân tộc Việt Nam một
di sản vô giá đó chính là tư tưởng của người, trong tồn bộ di sản tư tưởng ấy
có tư tưởng về đạo đức của người cách mạng. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí
Minh đề cập một cách tồn diện thơng qua các bài viết, bài nói ngắn gọn, súc
tích và chính bản thân Hồ Chí Minh là biểu tượng, tấm gương sáng ngời về
đạo đức cách mạng. Từ rất sớm Người đã khẳng định đạo đức là cái cần có
trước hết, là cái “gốc”, cái “nền tảng”, là “nguồn nước” để giữ vững tinh thần
cách mạng, Bác viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, khơng có
nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh
2
đạo được nhân dân”1. Trong tác phẩm: “Đường cách mệnh”, Người nêu lên 23
điểm thuộc về tư cách một người cách mệnh, trong đó chủ yếu nêu các tiêu
chuẩn về đạo đức mà trọng tâm được thể hiện ở 3 mối quan hệ: với mình, với
người và với việc. Bác viết: “ làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã
hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” 2. Theo Hồ
Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử
thách, bởi vì đường đến với cách mạng khơng phải là con đường bằng phẳng,
không phải là một tấm thảm nhung lụa hay một mâm cỗ bày sẵn để cho ta đến
đó hưởng thụ, mà con đường đến với cách mạng đầy gian khổ, phức tạp, khó
khăn vì vậy Người chỉ rõ: “ Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”, “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ; không công thần, khơng quan liêu, khơng kiêu ngạo, khơng hủ
hố”. Người nêu yêu cầu đạo đức đối vớ các giai cấp, tầng lớp và các nhóm
xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã
hội, trong cả 3 mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối
với việc, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng đặc biệt được mở rộng
trong lĩnh vực đạo đức của người cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở
thành đảng cầm quyền. Trong di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân tộc
người đã nhắc nhở “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2002, t.5, tr.252-253
2. Sđd, t.9, tr. 283
3
chí cơng vơ tư”3. Chính uỷ, chính trị viên là những cán bộ của Đảng, được
giao nhiệm vụ hoạt động trong lĩnh vực quân sự, họ là những người chịu trách
nhiệm về tồn bộ các hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong qn
đội, có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, tổ chức tiến hành các nội dung cơng tác
đảng, cơng tác chính trị, theo chức trách nhiệm vụ; tham gia xây dựng, tổ
chức thực hiện các kế hoạch công tác chung của đơn vị. Sinh thời chủ tịch Hồ
Chí Minh rất quan tâm xây dựng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên quân đội,
trong thư gửi Hội nghị chính trị viên (tháng 3-1948) Bác viết: “Đối với bộ
đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, cơng bình như một
người anh, hiểu biết như một người bạn”,“Chính trị viên phải làm sao cho bộ
đội được dân tin, dân phục, dân yêu. Nếu như thế thì phải đốc thúc bộ đội
siêng giúp dân, hăng đánh giặc”. Trong giai đoạn hiện nay sự nghiệp cách
mạng đặt ra những yêu cầu mới ngày càng cao vì vậy tiếp tục xây dựng và bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung, chính uỷ,
chính trị viên nói riêng là yêu cầu tất yếu và mang tính cấp thiết, Những nội
dung chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của chính uỷ,
chính trị viên được diễn đạt trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Phần 1
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHẨM CHẤT ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN
1.1: Về đạo đức cách mạng:
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức mới, khác về chất
và đối lập với đạo đức cũ. Đạo đức cũ là đạo đức phong kiến: mang nặng
những phong tục tập quán lạc hậu, những hũ tục mê tín, dị đoan…biểu hiện
như: tư tưởng trọng nam khinh nữ, trong xã hội phong kiến người phụ nữ
buộc phải thực hiện lễ nghi hà khắc “Tam tòng”( Tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử) trong “Tam tòng tứ đức”, hay như trong thực hiện
3 Sđd, t.12, tr.510
4
mối quan hệ Vua- tơi; Cha- Con: thì “ Vua bảo bề tôi chết, bề tôi phải chết
mới là trung”. “ Cha bắt con chết con phải chết mới là hiếu”, rồi những lề
nghi, ma chay, cưới, hỏi phức tạp, rườm rà…Đó cịn là đạo đức tơn giáo: Từ
chỗ quan niệm rằng con người vốn sinh ra trên cõi đời (kiếp trần gian) phải
chấp nhận sự đau khổ đó như là một lẽ đương nhiên từ đó họ khuyên con
người tu thân, khắc kỷ, cam chịu chấp nhận số phận và cầu mong một cuộc
sống tốt đẹp sau khi thoát khỏi kiếp trần gian(lên cõi niết bàn)...đạo đức cũ
còn là đạo đức của chủ nghĩa tư bản mang nặng chủ nghĩa cá nhân, kìm hãm
con người trong lợi ích riêng tư, cục bộ, hẹp hòi, với lối sống thực dụng, đặt
cái “tơi”, cái lợi ích cá nhân lên trên hết, trước hết, do đó để đạt được lợi ích
cá nhân họ sẵn sàng chà đạp lên cả lợi ích cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Mác
đã từng chỉ ra rằng: “ khi đạt đến lãi suất 300% thì dù treo cổ giai cấp tư sản,
chủ nghĩa tư bản vẫn làm”. Đạo đức cách mạng theo quan Hồ Chí Minh là
đạo đức mới, đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp chặt chẽ giá
trị tốt đẹp của truyền thống đạo đức dân tộc và những tinh hoa đạo đức nhân
loại. Trong bài nói chuyện tại trường chính trị trung cấp quân đội , Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ví: “ đạo đức cũ như đầu ngược xuống đất, chân chổng lên
trời, đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đấu ngẩng
lên trời”4. Hồ Chí Minh đã nêu lên 4 chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách
mạng đó là:
1.1.1: Trung với nước, hiếu với dân:
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với
con đường đi lên của đất nước, ra sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Nước là của dân, nhân dân là người chủ đất nước, trung với nước cũng tức là
trung thành với dân, vì lợi ích của nhân dân, thực hiên: “bao nhiêu quyền hạn
đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Hiếu với dân là phải luôn gần
4 Sđd, t.6, tr. 320,321
5
gũi, chăm lo cho hạnh phúc nhân dân, biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc, phải
hiểu rõ dân tình, nắm vững dân tâm, nâng cao dân trí, phát huy đầy đủ quyền
làm chủ của nhân dân trên thực tế. Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất
bao trùm và quan trọng nhất của mỗi con người, bởi vì trong cuộc sống mỗi
người có rất nhiều mối quan hệ, trong đó mối quan hệ với tổ quốc, nhân dân
và dân tộc mình là mối quan hệ lớn, bao trùm và quan trọng nhất.
1.1.2: Yêu thương con người: Yêu thương con người theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp
chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo Cộng sản…Hồ Chí
Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất, tình yêu
thương ấy được thể hiện ra trong mối quan hệ xã hội hàng ngày giữa các cá
nhân với nhau mà trước hết biểu hiện ở tình yêu thương với đại đa số nhân
dân, đặc biệt là những người dân lao động nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột nặng
nề. Yêu thương con người là phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi
người, đoàn kết phấn đấu đạt được mục tiêu “ Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”, yêu thương con người cần phải biết tin vào con người,
đối với bản thân mình phải ln chặt chẽ, nghiêm khắc, đối với người, luôn
khoan dung, độ lượng. Theo Bác tình yêu thương con người thể hiện cả với
những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm, biết nhận ra sai
lầm có cố gắng sữa chữa, yêu thương cả với kẽ thù bị thương, bị bắt. sự yêu
thương con người theo quan điểm Hồ Chí Minh là giúp đỡ họ nhưng không
phải là sự dung túng, bao che mà để cho con người ngày càng tiến bộ cần phải
thực hiện tự phê bình và phê bình một cách chân thành, giúp nhau khắc phục,
sữa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, phải tích cực đấu tranh để giải
phóng con người. đối với người cộng sản. yêu thương con người phải trên cơ
sở lập trường giai cấp công nhân, trên nề tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Người
khẳng định: “Học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là để sống với nhau cho có nghĩa,
6
có tình. Nếu sống với nhau khơng có nghĩa, có tình thì làm sao coi là hiểu chủ
nghĩa Mác- Lênin được”.
1.1.3: Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư:
Trong quan điểm Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư là
nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng, là
nhằm thực hiện mối quan hệ “với tự mình”. Người khẳng định: “Trời có 4
mùa: xn, hạ, thu, đơng; đất có 4 phương: Đơng, tây, nam, bắc; Người có 4
đức: Cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa khơng thành trời, thiếu một
phương không thành đất, thiếu một đức không thành người”. Hồ Chí Minh
cịn giải thích cặn kẽ:
*. Cần: là lao động cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động vớ tinh thần tự lực cách sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng,
là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”;
*.Kiệm: là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa
xỉ, không hoang phí, khơng bừa bãi, khơng phơ trương, hình thức…”. Cần và
kiệm phải đi đôi với nhau như 2 chân của một con người.
*. Liêm: là trong sạch, không tham lam, “ln tơn trọng, giữ gìn của cơng
và của dân”, “khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà, của nhân
dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài.., khơng tham tâng bốc
mình…”.
*. Chính: là khơng tà, là “thắn thắn, đứng đắn”, việc làm chính tức là
thiện, việc làm tà tức là ác “Việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; Việc ác thì dù
nhỏ mấy cũng tránh”. Việc làm chính địi hỏi đối với mình khơng tự cao, tự
đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn
giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết. Đối với việc thì để việc cơng lên
7
trên, lên trước việc tư, việc nhà, được giao nhiệm vụ gì cũng kiên quyết, cố
gắng làm cho bằng được.
*. Chí cơng vơ tư: là rất mực cơng bằng, cơng tâm, khơng có lịng riêng,
thiên tư, thiên vị. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi
hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn
vậy phải luôn chiến thắng chủ nghĩa cá nhân
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư có quan hệ chặt chẽ với nhau với
chí cơng vơ tư, có cần , kiệm, liêm, chính, sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư. Khi đã
chí cơng vơ tư, một lịng, một dạ vì Đảng, vì nước, vì dân nhất định sẽ thực
hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
1.1.4: Có tinh thần quốc tế trong sáng: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
về đồn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân
văn của Người ra phạm vi tồn nhân loại. Theo Hồ Chí Minh nếu khơng có
tinh thần quốc tế trong sáng thì sẽ hoặc rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,
hoặc chủ nghĩa bá quyền nước lớn. Tinh thần đoàn kết quốc tế dựa trên
nguyên tắc: “Bốn phương vô sản đều là anh em” để cùng nhau đấu tranh
nhằm đạt được mục tiêu chung xố bỏ áp bức, bóc lột, bất cơng, phấn đấu vì
một thế giới hồ bình, cơng bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội, chống lại mọi
biểu hiện của chủ nghĩa sơ vanh, vị kỷ, hẹp hịi, kỳ thị dân tộc…
1.2: tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của chính uỷ, chính trị viên:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt
đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất” 5.Theo
Người: chính ủy, chính trị viên là những cán bộ, đảng viên của Đảng, nên
trước hết họ cũng mang những đặc trưng chung về phẩm chất của người cán
bộ cách mạng của Đảng đã nêu trên đây, mặt khác xuất phát từ yêu cầu chức
năng nhiệm vụ của người chủ trì về cơng tác Đảng, cơng tác chính trị trong
5 Sđd, t.9, tr. 284
8
Quân đội nhân dân Việt Nam, nên phẩm chất đạo đức của chính uỷ, chính trị
viên cịn được biểu hiện ra trên những nội dung cơ bản sau đây:
1.2.1: Sự kiên định vững vàng về chính trị:
Đây là nét đặc trưng bản chất nhất, là tiêu chuẩn hàng đầu của người cán
bộ chính trị nói chung, của chính uỷ, chính trị viên trong quân đội nói riêng.
sự kiên định vững vàng về chính trị của chính uỷ, chính trị viên được biểu
hiện ở chỗ: luôn kiên định với mục tiêu lý tưởng, con đường cách mạng Việt
Nam, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Ln giữ vững
lập trường giai cấp cơng nhân, tích cực học tập, nắm vững và vận dụng đúng
đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn cách mạng, quân đội và đơn
vị. Bác Hồ đã chỉ rõ: “Chính trị viên phải là người giác ngộ chính trị sâu sắc,
nhận thức cách mạng vững vàng, lý luận cách mạng khá. Đồng thời phải là
người có kinh nghiệm chính trị dồi dào” 6. sự kiên định vững vàng về chính trị
của chính uỷ, chính trị viên cịn được biểu hiện ở tính chủ động, nhanh nhạy,
sáng suốt trước những khó khăn, sự phức tạp của mọi tình hình, nhạy bén,
linh hoạt, sáng tạo trong xem xét, giải quyết các vấn đề theo đúng đường lối,
quan điểm của Đảng, không hữu khuynh, dao động, không mơ hồ, thoả hiệp,
kiên quyết đấu tranh chống lại các quan điểm lệch lạc, sai trái, phản động, mơ
hồ, chủ quan mất cảnh giác…
1.2.2: Có ý thức kỷ luật:
Theo Hồ Chí Minh: “đạo đức cách mạng gồm trong mười điều kỷ luật”.
Người chính uỷ, chính trị viên khơng chỉ chấp hành nghiêm túc và triệt để,
mọi chủ trương, đường lối, nguyên tắc của Đảng, điều lệnh, điều lệ quân đội,
mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, mà phải thường xuyên chăm lo cũng cố, tăng
cường đoàn kết, kỷ luật trong nội bộ đơn vị, đồn kết qn dân. Chính uỷ,
6 Sđd, t.9, tr. 53, 56
9
chính trị viên, phải là hạt nhân, là trung tâm trong việc xây dựng khối đồn
kết thống nhất, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đội quân của cách mạng bao giờ cũng
thế, phải thống nhất, phải đồn kết, người chính trị viên phải làm thế nào cho
ý chí mình thành ý chí của tồn đội, hành động của mình thành hành động của
tồn đội, tồn đội đồn kết xung quanh mình như một người”7
1.2.3: Ham học cầu tiến bộ:
Hồ Chí Minh cho rằng: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Phải
gắn liền lý luận với công tác thực tế. Khơng ai có thể tự cho mình đã biết đủ
rồi, biết hết rồi, Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ,
cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. sự nổ lực
học tập vươn lên là một đòi hỏi tất yếu khách quan, phù hợp quy luật phát
triển của xã hội. Với người cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên, người
làm cơng tác lãnh đạo, cơng tác giáo dục, xây dựng “hướng dẫn, dìu dắt quần
chúng trên con đường đấu tranh” càng phải tích cực học tập phấn đấu để
không ngừng tiến bộ. Ngại học tập, lười nghiên cứu, “Khơng chịu học hỏi thì
nhất định lạc hậu”8
1.2.4: Trong sáng, kiểu mẫu về đạo đức lối sống:
Là người lãnh đạo, quản lý, chỉ huy hàng ngày tiếp xúc với bộ đội, đạo
đức lối sống của chính uỷ, chính trị viên có ảnh hưởng trực tiếp đến nhân
cách bộ đội chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái qt: “Tư cách của chính ủy, chính
trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt thì
bộ đội ấy tốt. Người chính ủy, chính trị viên khơng làm trịn nhiệm vụ, thì bộ
đội ấy khơng tốt”9. Chính vì vậy Hồ Chí Minh ln u cầu người cán bộ
chính trị, chính uỷ, chính trị viên phải biết đặt lợi ích của Đảng, của cách
7 Sđd, t.6, tr. 53, 56
8 Sđd, t.5, tr. 480
9 Sđd, t.5, tr. 392
10
mạng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; sống có hồi bão, có lý tưởng, có
niềm tin u mãnh liệt đối với bộ đội và nhân dân; lạc quan tin tưởng vào
tương lai tươi sáng; sống trong sạch, lành mạnh, thẳng thắn, trung thực với
mọi người, đi đầu trong gian khổ, sung sướng hưởng sau, “giàu sang không
thể quyến rũ, gian khó khơng thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”;
kiên quyết đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, để luôn
luôn xứng đáng với lời dạy: “Chính trị viên phải làm người kiểu mẫu trong
mọi việc”.
2.1. Về Chính uỷ, chính trị viên:
2.1.1: Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về đội ngũ cán bộ
chính trị của quân đội cách mạng, qua đúc rút những bài học kinh nghiệm
trong xây dựng Hồng quân Liên Xô, đứng vững trên lập trường giai cấp công
nhân, vận dụng vào việc xây dựng quân đội cách mạng ở một nước thuộc địa
nửa phong kiến, Hồ Chí Minh đã nêu lên tư tưởng cơ bản về chính uỷ, chính
trị viên trong Qn đội ta, xin trình bày một cách khái quát như sau:
Đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là một bộ phận cán bộ của Đảng Cộng
sản Việt Nam, là những cán bộ chính trị ưu tú, người chủ trì về chính trị
ở các đơn vị quân đội,, đồng thời có trách nhiệm xây dựng, giải quyết các
mối quan hệ chính trị- xã hội trong nội bộ các đơn vị quân đội, cũng như
với nhân dân và với quân thù. Họ vừa là người lãnh đạo, quản lý, chỉ huy,
vừa là “ người anh, người chị, người bạn của đội viên”. Để hoàn thành
những nhiệm vụ trên, theo Hồ Chí Minh: chính uỷ, chính trị viên phải là
người thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, phải có năng lực tồn diện
đủ sức lãnh đạo, chỉ huy thắng lợi mọi nhiệm vụ của đơn vị trong mọi
hồn cảnh, ln mẫu mực cả trong lời nói và hành động, trong phương
pháp và tác phong công tác.
11
2.1.2: Tại điểm 3 của mục II Nghị quyết của Bộ Chính trị số: 51/NQTW(ngày 20 tháng 7 năm 2005) đã xác định: “Từ cấp trung đoàn và tương
đương đến cấp qn khu và tương đương có chính uỷ và cơ quan chính trị. Từ
cấp đại đội và tương đương đến cấp tiểu đồn và tương đương có chính trị
viên. Chính uỷ, chính trị viên là người chịu trách nhiệm trước cấp trên và
cấp uỷ cấp mình về tồn bộ hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị
trong đơn vị; có trách nhiệm chỉ đạo, trực tiếp tiến hành các nội dung
cơng tác đảng, cơng tác chính trị theo chức trách, nhiệm vụ; tham gia xây
dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch công tác chung của đơn vị”
Từ vấn đề nêu trên cho thấy nghị quyết 51/NQ-TW của Bộ Chính trị đã
quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của chính uỷ, chính trị viên,
họ chính là những người chủ trì về chính trị nghĩa là chủ trì việc tăng cường
sự lãnh đạo của đảng đối với qn đội, chính uỷ, chính trị viên có trách nhiệm
trước hết là giữ vững định hướng về chính trị cho đơn vị trên tất cả các nhiệm
vụ, các hoạt động, các lĩnh vực, các tổ chức và con người, bảo đảm cho đơn vị
thực hiện đúng đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng. Chính uỷ,
chính trị viên hoạt động dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, cơ
quan chính trị, chính uỷ, chính trị viên cấp trên và sự lãnh đạo trực tiếp của
cấp uỷ cùng cấp. Là người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp uỷ cấp
mình về tồn bộ hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong đơn vị.
Chính uỷ, chính trị viên có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, tổ chức tiến hành
các nội dung công tác đảng, cơng tác chính trị theo chức trách, nhiệm vụ,
tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch hoạt động cơng tác chung
của đơn vị. Chủ trì là người đứng đầu, chịu trách nhiệm về: chủ trương, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện, do vậy chính uỷ, chính trị viên phải đề xuất chủ
trương tiến hành công tác đảng, cơng tác chính trị với cấp uỷ, sau khi cấp uỷ
bàn bạc quyết định về chủ trương, nhiệm vụ, nội dung công tác đảng, công tác
12
chính trị thì chính uỷ, chính trị viên phải chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi
chủ trương của cấp uỷ. Đối với hoạt động động công tác đảng họ thường được
tổ chức đảng, cấp uỷ tín nhiệm bầu làm bí thư để chủ trì cơng tác xây dựng
Đảng, vì vậy chính uỷ, chính trị viên cần phải thường xuyên học tập, rèn
luyện, tu dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt, về năng lực tổ chức thực tiễn,
phẩm chất đạo đức cách mạng, phương pháp tác phong công tác, họ phải thực
sự là người gương mẫu tiêu biểu, uy tín cao trong đơn vị. Trong trường hợp
khơng được bầu làm bí thư, người chính uỷ, chính trị viên phải phấn đấu hồn
thành tốt chức trách của mình và giúp bí thư hồn thành nhiệm vụ. Cùng với
người chỉ huy, Chính uỷ, chính trị viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật,
cấp uỷ, người chỉ huy, chính uỷ, chính trị viên, cơ quan chính trị cấp trên và
cấp uỷ cấp mình về tồn bộ hoạt động của đơn vị theo phạm vi, Chức trách,
nhiệm vụ được phân công.
Phần 2
VẬN DỤNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN
CÁCH MẠNG HIỆN NAY
2.1: Thực trạng xây dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ chính uỷ, chính
trị viên trong giai đoạn hiện nay:
2.1.1: Điểm mạnh: Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước những khó
khăn thử thách, những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội trên thế giới cũng như khu vực và trong nước, những tác đọng tiêu cực
của mặt trái kinh tế thị trường, đội ngũ cán bộ chính uỷ, chính trị viên trong
quân đội vẫn luôn trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, một lòng, một
dạ trung thành với sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền của Tổ quốc
và cuộc sống lao động trong hồ bình của nhân dân. Trong q trình thực hiện
13
nhiệm vụ theo cương vị chức trách, phần lớn cán bộ chính uỷ, chính trị viên
giữ được vai trị tiền phong gương mẫu, chủ động vững vàng trước những
diễn biến phức tạp của tình hình, ln là người qn triệt sâu sắc các quan
điểm, đường lối của Đảng, không ngừng giữ vững và phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng trong mọi lĩnh vực công tác và đời sống của đơn vị. Phần lớn
đội ngũ chính uỷ, chính trị viên có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có ý
thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ vững nguyên tắc của Đảng, kỷ luật của quân
đội. ở hầu hết các đơn vị, cán bộ chính uỷ, chính trị viên ln khẳng định
được vai trị của mình đối với việc xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất
trong tổ chức đảng và trong đơn vị. Trước sự tác động nhiều mặt của cơ chế
thị trường, của chính sách mở cửa, tuyệt đại bộ phận cán bộ chính uỷ, chính
trị viên giữ được phẩm chất đạo đức trong sáng lối sống trong sạch, lành
mạnh, trung thực, thẳng thắn, giản dị và tiết kiệm. Trong mối quan hệ với bộ
đội, với nhân dân chính uỷ, chính trị viên ln là người giữ thái độ đúng mực,
sống chan hồ, giàu tình nghĩa, gương mẫu trong lời nói và việc làm; làm việc
một cách nghiêm túc, có trách nhiệm cao với nhiệm vụ và với mọi người
trong đơn vị. Uy tín của người cán bộ chủ trì về chính trị trong tổ chức đảng,
trong đơn vị và trong xã hội ngày một tăng. Hầu hết chính uỷ, chính trị viên
được bầu làm bí thư đảng uỷ cấp mình, nhiều đồng chí là uỷ viên cấp uỷ cấp
trên. Đánh giá công tác xây dựng đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong những
năm qua Đại hội Đảng X vừa qua đã chỉ rõ: “Đa số cán bộ, đảng viên phát
huy được vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo trong công tác, lao động, rèn
luyện phẩm chất, năng lực, có bước trưởng thành, đóng vai trị nóng cốt trong
cơng cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng vào thành quả chung của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”10. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ
VIII cũng đã khảng định: “..Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, trước hết là đội
10 Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn kiện ĐHĐX, Nxb, CTQG, H. 2006, tr. 261
14
ngũ cấp ủy viên, cán bộ chủ trì các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ, là hạt nhân chính trị, nhân tố quyết
định lãnh đạo toàn quân tuyệt đối trung tành với Đảng, nhân dân, hoàn thành
thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng giữ vững ổn định
chính trị, xã hội của đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”
2.1.2: Yếu kém:
Còn một số cán bộ chính uỷ, chính trị viên(đặc biệt là ở cấp cơ sở), chưa
nhận thức đầy đủ, đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, do đó niềm tin vào lý tưởng
cách mạng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chưa có một cơ sở khoa học
vững chắc. Trong những năm gần đây, đáng chú ý là lối sống thực dụng, chủ
nghĩa cá nhân đã xuất hiện trong một bộ phận chính uỷ, chính trị viên , một số
người thường chỉ tập trung quan tâm đến mối lợi vật chất, chưa chú ý đầy đủ
đến ý nghĩa chính trị của các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước
cũng như hoạt động của cá nhân và đơn vị mình. Những biểu hiện bè phái,
cục bộ, thờ ơ, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, ngại đấu tranh phê
bình trong nội bộ khơng phải là cá biệt, một số chính uỷ, chính trị viên thiếu
say mê, tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Sự
hứng thú nghề nghiệp của khơng ít chính uỷ, chính trị viên hiện nay cịn thiếu
cơ sở vững chắc, lý tưởng nghề nghiệp cịn chưa rõ ràng. Khơng ít cán bộ
chính uỷ, chính trị viên mang tâm ký tự ti nghề nghiệp. Được lựa chọn làm
chính uỷ, chính trị viên mà thiếu phấn khởi, kém chủ động sáng tạo, ỷ lại, chờ
đợi người chỉ huy..vẫn còn một số chính ủy, chính trị viên thiếu ý chí phấn
đấu vươn lên, thiếu tích cực học tập, ít hứng thú tìm hiểu, học tập lý luận
chính trị, giảm sút tâm thế sẵn sàng đấu tranh bảo vệ quan điểm tư tưởng của
Đảng. Một bộ phận, giảm sút trách nhiệm, thiếu tiền phong gương mẫu, làm
15
việc cầm chừng, giảm sút tính chiến đấu, làm ngơ hoặc thiếu mạnh dạn đấu
tranh với những hiện tượng sai trái trong đơn vị. Đại hội X nhận định: “Một
bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt cấc cấp, yếu kém
cả về phẩm chất, năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng
tin, phai nhạt lý tưởng; một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lịng tin, nói và
làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghiã cá
nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn cịn
tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, , “chạy bằng cấp”. Thoái
hoá biến chất về chính trị,tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi” 11. Nghị
quyết Đại hội đảng bộ Quân đội lần thứ VIII cũng đã chỉ ra rằng: “Một số cán
bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ cao cấp còn biểu hiện mơ hồ, mất cảnh
giác, lúng túng trong phân tích xử lý tình huống cụ thể, thiếu tin vào khả năng
tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tính chiến
đấu trong sinh hoạt đảng chưa cao, còn biểu hiện hữu khuynh, nể nang, chưa
mạnh dạn đấu tranh trước những biểu hiện sai phạm hoặc những vấn đề phức
tạp, nhạy cảm, liên quan đến cấp trên”, “tự phê bình chưa nghiêm túc, phê
bình khơng thẳng thắn, cịn dân chủ hình thức, áp đặt ý kiến cá nhân, vi phạm
quy chế, quy định, nhất là trong lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu: cán bộ
tài chính, xây dựng cơ bản”.
Một trong các nguyên nhân cơ bản của sự yếu kém trên đây đã được Đại
hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII chỉ ra là: “ …một bộ phận cán bộ, đảng
11 Sđd, tr. 263- 264
16
viên chưa thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, lối sống, bị chủ nghĩa cá nhân chi phối, phai nhạt lý tưởng, thiếu gương
mẫu, vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, nhưng cấp uỷ, tổ chức
đảng chưa chủ động, nhạy bén phát hiện, kiểm tra và kịp thời đề ra chủ
trương, giải pháp đồng bộ, để giáo dục, quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên”.
2.2: Yêu cầu, phương hướng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng cho
đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong giai đoạn hiện nay:
Sự ra đời, tồn tại, phát triển của cán bộ chính uỷ, chính trị viên xuất phát
từ yêu cầu khách quan của sự nghiệp đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo
của đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn cho thấy tính chất của cuộc đấu tranh
cách mạng ngày càng gay go quyết liệt. Trong bối cảnh hiện nay khi mà tình
hình thế giới, khu vực, trong nước có những diễn biến phức tạp, tạm thời bất
lợi cho chủ nghĩa xã hội và phong trào độc lập dân tộc, công cuộc đổi mới đất
nước của chúng ta tuy giành được những thành tựu rực rỡ nhưng cũng đang
đứng trước mn vàn khó khăn, phức tạp, kẽ thù đang ra sức dùng mọi thủ
đoạn, âm mưu thâm độc, xảo quyệt chúng mong muốn tạo ra khoảng trống ý
thức hệ, lung lạc niềm tin, lý tưởng, ý chí chiến đấu và lịng trung thành của
cán bộ, chiến sĩ đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì vậy địi hỏi đội ngũ
chính uỷ, chính trị viên phải thường xuyên giữ vững và không ngừng nâng
cao bản lĩnh vững vàng, lập trường kiên định chủ động, nhạy bén, sáng tạo
trong xem xét và giải quyết mọi vấn đề theo đúng đường lối, quan điểm của
Đảng. Đồng thời người chính uỷ, chính trị viên phải là người mẫu mực về đạo
đức, lối sống, là điểm khởi phát, là chỗ dựa đáng tin cậy để đấu tranh khắc
phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, của lối sống thực dụng, kịp thời
ngăn chặn sự tha hoá về đạo đức, lối sống trong xã hội, trong đơn vị và trong
mỗi gia đình. Trong giai đoạn hiện nay người chính uỷ, chính trị viên khơng
chỉ tiêu biểu cho những phẩm chất, đức tính tốt đẹp trong truyền thống văn
17
hố của dân tộc mà cịn là tấm gương tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, văn minh
trong thời đại mới, thể hiện tập trung ở thái độ hành vi mẫu mực đối với
Đảng, Tổ quốc, nhân dân, với bộ đội, với quân địch, với công việc và đối với
bản thân. Đối với Đảng, với Tổ quốc, chính uỷ, chính trị viên khơng chỉ tuyệt
đối trung thành mà cịn có niềm tin yêu sâu sắc, trong hoàn cảnh nào cũng đặt
lợi ích của Đảng, của Tổ quốc lên trên và nguyện trọn đời hy sinh phấn đấu
cho lý tưởng của Đảng, góp phần xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đối với nhân dân, với
bộ đội phải tơn trọng và giúp đỡ, sống chan hồ, gần gũi, cởi mở, gần gũi mọi
người, tôn trọng lắng nghe ý kiến đóng góp và quan tâm đến tâm tư, nguyện
vọng của mỗi người. Chính uỷ, chính trị viên phải là trung tâm đồn kết và
có tín nhiệm cao trong tổ chức đảng và trong toàn đơn vị, được nhân dân tin
yêu, được cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị kính trọng và yêu quý. Đối với kẽ thù,
chính uỷ, chính trị viên phải luôn tỉnh táo, sáng suốt, nắm vững bản chất, âm
mưu, thủ đoạn của chúng, có tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến
đấu cao, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình”Bạo loạn lật đổ, tích cực chủ động giáo dục cho bộ đội nhằm nâng cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu, làm thất bại
mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, sẵn sàng ứng phó với các
tình huống phức tạp có thể xảy ra. Đối với cơng việc, chính uỷ, chính trị viên
phải có ý thức cao về chức trách, nhiệm vụ; có lịng tự hào về cương vị và
nghề nghiệp của mình, ln say sưa, tân tụy với cơng việc, gắn bó với đơn vị;
có tinh thần ham học, cầu tiến bộ, có chí tiến thủ, tích cực chủ động phấn đấu,
rèn luyện để không ngừng trưởng thành; gương mẫu chấp hành đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, thực sự là
tấm gương mẫu mực cả trong chiến đấu cũng như trong lao động và học tập.
Đối với bản thân người chính uỷ, chính trị viên phải có nếp sống trong sạch,
18
lành mạnh, giản dị, khiêm tốn; thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư,
khơng cục bộ, bản vị, không tham vọng cá nhân, không tham ô của công, phải
thực sự là tấm gương, là điểm khởi phát, là chỗ dựa đáng tin cậy để đấu tranh
khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, kịp
thời ngăn chặn sự tha hóa về đạo đức, lối sống trong xã hội, trong đơn vị và
trong mỗi gia đình.
Để xây dựng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên có đầy đủ phẩm chất, năng
lực tồn diện, có phương pháp và tác phong cơng tác tốt, thì điều có ý nghĩa
quyết định nhất hiện nay là phải đi sâu nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, đầy đủ
và thực hiện đúng đắn, sáng tạo những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong đó có tư tưởng về phẩm chất đạo đức cách mạng, bởi vì hình
mẫu người chính uỷ, chính trị viên trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh
những giá trị tốt đẹp trong truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại,
đồng thời chứa đựng những ước mơ cao đẹp về hình mẫu người chiến sĩ cộng
sản chân chính, thực sự tiêu biểu cho đạo đức văn minh của dân tộc và nhân
loại trong thời đại mới. Trong mục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng tại Đại hội X của Đảng vừa qua Đảng
đã đề ra yêu cầu: “Xây dựng đội ngũ đảng viên thực sự tiên phong, gương
mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực
hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho
mục tiêu lý tưởng của Đảng; năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó
khăn thử thách”12, “Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lịng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân,
của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng dao động trước những
khó khăn, thử thách; có năng lực hồn thành nhiệm vụ được giao; có nhân
cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tơn trọng
12 Sđd, tr. 132-133
19
tập thể, gắn bó với nhân dân”13. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ
VIII cũng đưa ra chủ trương: “Tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội thực sự
vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, có tầm trí tuệ cao, có năng lực
lãnh đạo tồn diện, sức chiến đấu cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, đội
ngũ cán bộ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, thực sự tiên phong
gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống, đủ sức lãnh đạo tồn qn vượt
qua khó khăn, thử thách, hồn thành tốt mọi nhiệm vụ”. Từ những phương
hướng yêu cầu nêu trên, xuất phát từ bản chất, truyền thống quân đội, từ vị trí
vai trị của chính uỷ, chính trị viên và yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, việc thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao các mặt phẩm chất
trong đó có phẩm chất đạo đức của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là một tất
yếu khách quan và mang tính cấp bách. Hiện nay chúng ta đang tích cực thi
đua thực hiện cuộc vân động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” do Đảng phát động, vì vậy việc bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho
đội ngũ chính uỷ, chính trị viên lại càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Trong
thời gian tới cần tập trung làm tốt một số vấn đề cơ bản sau đây:
2.3: Một số giải pháp bồi dưỡng đạo đức cách mạng của chính uỷ, chính trị
viên trong giai đoạn hiện nay:
2.3.1: Thường xuyên chú trọng làm tốt việc giáo dục ý thức trách nhiệm,
phổ biến, tuyên truyền các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo quan điểm
tư tưởng Hồ Chí Minh cho ngủ chính uỷ, chính trị viên, coi đó là u cầu
cấp bách góp phần xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Hiện nay chúng ta đang ra sức thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trên thực tế cuộc vận động đã bước
đầu mang lại hiệu quả, tạo ra sự chuyển biến trong toàn xã hội. Tuy nhiên vấn
đề đặt ra là để bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cần phải làm tốt và
13 Sđd, tr. 136
20
thường xuyên việc phổ biến, giáo dục để đội ngũ chính uỷ, chính trị viên
nắm , hiểu rõ các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
làm cơ sở cho việc thực hiện sống và hoạt động theo gương đạo đức của
Người đồng thời làm cơ sở để tuyên truyền, giáo dục, đạo đức cách mạng cho
cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị và trong nhân dân, coi đây là một nhu cầu cần
thiết, tự nhiên, là mục tiêu phấn đấu thường xuyên trong cuộc sống, hoạt động
của người chính uỷ, chính trị viên .
2.3.2: Tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt cuộc vận động
“ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”và nội dung quan
điểm ĐHĐX về rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân
Đại hội X chỉ rõ: “ Đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng
viên..”, “Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng
và nhân dân, đi đầu trong mọi công việc; xử lý hài hồ các lợi ích, đặt lợi ích
của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Tạo điều kiện để đảng viên cơng tác,
lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm đời sống và đóng góp
vào sự phát triển chung của đất nước”, “Học tập, quán triệt, làm theo tư tưởng
và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đổi mới nội dung và hình
thức sinh hoạt đảng bộ, chi bộ; thường xuyên lấy ý kiến nhận xét của nhân
dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Coi trọng công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm những quy định về
trách nhiệm, phẩm chất đạo đức lối sống”
2.3.3: Gắn chặt giữa bồi dưỡng đạo đức cách mạng của chính uỷ, chính
trị viên với việc xây dựng bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao
năng lực toàn diện, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác khoa học,
dân chủ, sâu sát bộ đội, gắn bó với nhân dân, lời nói đi đơi với việc làm.
21
Bản lĩnh chính trị vững vàng, tư cách đạo đức trong sáng, mẫu mực; năng
lực nhận thức tốt; có trình độ lý luận và trình độ tổ chức thực tiễn; có ý thức
tổ chức kỷ luật cao, với phương pháp tác phong cơng tác tốt… Đây chính là
các yếu tố, là u cầu xây dựng hình mẫu người chính uỷ, chính trị viên trong
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, các yếu tố ấy tuy có vị trí, vai
trị, chức năng khác nhau nhưng cùng nằm trong một chỉnh thể thống nhất
không tách rời, tác động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề, điều kiện cho nhau. Vì
vậy để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên có trình độ học vấn
tương ứng, có đầy đủ phẩm chất, năng lực và phong cách để làm tốt cương vị
người chủ trì trong mọi hồn cảnh, phải tập trung xây dựng đồng bộ các yếu
tố nêu trên. Do đó để bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ
chính uỷ, chính trị viên phải được kết hợp chặt chẽ với xây dựng bản lĩnh
chính trị, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực toàn diện với rèn luyện
phương pháp, tác phong công tác khoa học, dân chủ, sâu sát bộ đội, gắn bó
với nhân dân, lời nói đi đơi với việc làm.
2.3.4: Thường xun làm tốt công tác kiểm tra sơ tổng kết, đánh giá
đúng thực trạng kết quả bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ chính
uỷ, chính trị viên, chỉ rõ nguyên nhân, kinh nghiệm, làm tốt công tác biểu
dương khen thưởng, kịp thời nhắc nhở, xử ký các trường hợp vi phạm
phẩm chất đạo đức cách mạng.
Công tác kiểm tra sơ, tổng kết, đánh giá đúng thực trạng kết quả bồi
dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ chính uỷ, chính
trị viên được xem là một nguyên tắc, một phương pháp hoạt động khoa học
nhằm kịp thời phát hiện hiện và khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót. Đại
hội Đảng X vừa qua khi bàn về phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây
dựng Đảng trong nhiệm kỳ 2006-2010 đã chỉ rõ: “Đổi mới và tăng cường
cơng tác kiểm tra, giám sát”, trong đó xác định: “Tăng cường công tác kiểm
22
tra, giám sát với nhận thức và yêu cầu mới: cơng tác kiểm tra, giám sát phải
góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới
manh nha….kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ
của tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên về nhận thức và chấp hành đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và việc chấp hành
điều lệ Đảng. Coi trọng kiểm tra, phát hiện nhân tố tích cực” 14. Cùng với việc
kiểm tra cần thực hiện tốt việc biểu dương khen thưởng, những cá nhân tiêu
biểu về phẩm chất đạo đức, lối sống… từ đó nêu gương nhân rộng điển hình,
lấy gương tốt về phẩm chất đạo đức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính uỷ
chính trị viên, trong quần chúng nhân dân để giáo dục lẫn nhau, đồng thời
phải và kiên quyết nhắc nhơ, xử lý kịp thời những người vi thiếu tu dưỡng,
rèn luyện, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống giúp họ sữa chữa để ngày
càng tiến bộ.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ
chính uỷ, chính trị viên rất phong phú và sâu sắc, đó là một hệ thống các
quan điểm cơ bản và toàn diện bao gồm vị trí, vai trị, nội dung các phẩm chất
đạo đức cơ bản cũng như nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới. Những quan
điểm của Người về đạo đức cách mạng của người chính uỷ, chính trị viên đến
nay vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng đạo đức
cách mạng cho đội ngũ chính uỷ, chính trị viên của quân đội ta trong giai
đoạn cách mạng hiện nay. Là người có vị trí, vai trị rất quan trọng trên các
mặt cơng tác, trên nhiều lĩnh vực, trong các hoạt động với nhiều đối tượng
khác nhau, mặt khác tình hình nhiệm vụ mới đã và đang đặt ra những yêu cấu
rất cao, rất toàn diện đối với chính ủy, chính trị viên cả về bản lĩnh chính trị
và năng lực trí tuệ, cả về tư cách đạo đức, lối sống, trình độ tổ chức hoạt động
14 Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn kiện ĐHĐX, Nxb, CTQG, H. 2006, tr. 291
23
thực tiễn, cả về phương pháp và tác phong công tác. Để xây dựng đội ngũ
chính ủy, chính trị viên có đủ phẩm chất năng lực hồn thành tốt nhiệm vụ
điều quan trọng đầu tiên là phải xây dựng được cái “gốc”, cái “nền tảng” đạo
đức cách mạng, trên cơ sở đó mà xây dựng đồng bộ các nhân tố khác. Với ý
nghĩa đó tiếp tục bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung, chính ủy, chính trị viên
nói riêng là u cầu cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay./.