Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận khái niệm triết học, triết lý và xây dựng triết lý kinh doanh (quản lý) theo mục tiêu phát triển bền vững liên hệ honda viet nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.24 KB, 22 trang )

Đề tài: Khái niệm triết học, triết lý và xây dựng triết lý kinh doanh (quản lý) theo
mục tiêu phát triển bền vững. Liên hệ thực tiễn triết lý kinh doanh của Honda
Việt Nam.

Mục Lục
Chương 1: Cơ sở lý luận về triết học và triết lý..........................................................................................3
1.1

Khái niệm triết học.............................................................................................................................3

1.2

Khái niệm triết lý...............................................................................................................................4

Chương 2: Xây dựng triết lý kinh doanh theo mục tiêu phát triển bền vững......................................10
2.1. Triết lý kinh doanh..................................................................................................................................10
2.1.1 Khái niệm..........................................................................................................................................10
2.1.2. Phân loại triết lý kinh doanh............................................................................................................11
2.1.3 Nội dung cơ bản của triết lý kinh doanh..........................................................................................11
2.1.3.1 Sứ mệnh và các mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp......................................................................11
2.1.3.2 Phương thức hành động.................................................................................................................12
2.1.4 Vai trò của triết lý kinh doanh...........................................................................................................13
2.1.5 Các yếu tố tác động và cách thức xây dựng triết lý kinh doanh......................................................15
2.1.5.1 Các yếu tố tác động........................................................................................................................15
2.1.5.2 Các thức xây dựng triết lý kinh doanh..........................................................................................16
2.2 Mục tiêu phát triển bền vững...............................................................................................................17
2.3 Liên hệ thực tiễn với triết lý kinh doanh của Công ty Honda Viet Nam.........................................19
2.3.1 Giới thiệu về Honda Việt Nam..........................................................................................................19
2.3.2 Phân tích triết lý kinh doanh của Honda Việt Nam với mục tiêu phát triển bền vững...................20



Chương 1: Cơ sở lý luận về triết học và triết lý
1.1Khái niệm triết học
Triết học đã được hình thành từ rất sớm, vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ
thứ VI trước công nguyên (tr.CN) với các thành tựu rực rõ trong triết học Trung
Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Lý luận trong triết học được biết đến là hệ thống
tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con
người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung và cơ bản về sự
tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ.
Theo triết học Mác – Lenin là triết học duy vật biện chứng triệt để. Nó là khoa học
về những quy luật phổ biến chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy con người. Trong Triết học Mác – Lenin, các quan điểm duy vật về
tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn
bó hết sức chặt chẽ với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất. Vì vậy, có thể
quan niệm, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới; về vị trí, vai trị của con người trong thế giới ấy. ( nguồn: Giáo trình Triết
học- Đại học Kinh tế Quốc dân).
Ở phương Tây, cũng có những lí luận xuất hiện từ triết học và khái niệm triết học
lần đầu tiên xuất hiện tại Hy Lạp với tên gọi (philosophia), mang nghĩa là “love of
wisdom” (tình u đối với sự thơng thái) bởi nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại mang tên
Pythagoras. Với người Hy Lạp, triết học mang tính định hướng đồng thời cũng
nhấn mạnh khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Tại Trung Quốc thì khái niệm hay khi nhắc tới thuật ngữ triết học người ta nghĩ
ngay tới sự bắt nguồn từ chữ triết và được hiểu là sự truy tìm bản chất của đối
tượng; là trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc của con người. Còn tại Ấn Độ, triết học Ấn độ
cổ đại có tên gọi là “darshanas”, có nghĩa là “chiêm ngưỡng”. Nó mang hàm ý là
tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đế
Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, khi triết học mới ra đời, đều coi
triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm
bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất của sự vật.
Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về triết học. Trong

các quan điểm khác nhau đó vẫn có những điểm chung. Đó là, tất cả các hệ thống
triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái qt, xem xét thế giới trong tính
chỉnh thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã
hội và bản thân con người. Khái quát lại, có thể cho rằng: Triết học là một hệ


thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người
và vị trí của con người trong thế giới đó.n với lẽ phải.
Nguồn:
/>1.2Khái niệm triết lý
Trước tiên chúng ta cần nhắc lại trong tiếng Việt có 2 chữ: triết học và triết lý
nhưng khơng có định nghĩa rõ ràng. Sách Mỹ giải thích rõ, từ philosophy có hai nghĩa.
Một nghĩa là tư tưởng của các triết gia. Ví dụ Jean-Paul Sartre là triết gia. Các
tác phẩm viết về triết của ông là những tác phẩm triết lý (Philosophic essays: tiểu luận
triết lý), ví dụ cuốn: Being and Nothingness / L’être et le néant (1943) (hiện hữu và hư
vô).
Nghĩa thứ hai là những hoạt động nghiên cứu tư tưởng của những triết gia.
Như vậy những tác giả viết sách để tìm hiểu, giải thích các tư tưởng của Jean-Paul
Sartre (không phải để tranh luận với ơng) thì khơng được coi là triết gia và tác phẩm
của họ được gọi là tác phẩm triết học. Theo giải thích của phương tây, chúng ta thấy
rõ, nghĩa thứ hai của từ philosophy (triết học) chỉ như một cái thùng (box) hay chiếc
xe (vehicle) chuyên chở, giới thiệu, giải thích tư tưởng của các triết gia (triết lý).
 Triết lý là một bộ môn trừu tượng
Cuốn The visual reference guides Philosophy by Stephen Law, Metro Books, New
York, ISBN 978-1-4351-3894-0 (trg. 14) viết: Triết lý đôi khi bị coi như một bộ môn
trên mây (head in the clouds discipline) không liên quan tới đời sống hàng ngày
(Philosophy is sometimes dismissed as a wholly “head in the clouds” discipline with
no relevance to everyday life.) Đối tượng nghiên cứu của triết lý khơng phải là vật thể
như máy móc, hay cơ thể con người v…v. mà triết lý nghiên cứu những vấn đề rất
trừu tượng, rất siêu hình như là bản chất của vũ trụ, nguồn gốc của vũ trụ, khi chết con

người đi về đâu v…v. Tuy nhiên, tiếp tục đọc bài này, độc giả sẽ thấy triết lý có thể và
thường rất liên quan tới đời sống hàng ngày của mỗi chúng ta như tác giả Stephen
Law đã viết tiếp câu ở trên như sau: “Sự thực thì triết lý có thể và rất thường khi quan
trọng trong đời sống thường nhật” (The truth is that philosophy can be, and very often
is , very relevant indeed..)
 Triết lý là lý luận
Cuốn History of Philosophy, mục The Ancients viết, Theo lịch sử được biết, thì triết
gia phương Tây đầu tiên khơng phải là Socrate mà là nhà tốn học Thales, khoảng 585
trước tây lịch, tại thành phố Miletus thuộc Hy Lạp cổ (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Ông và


các tư tưởng gia đồng thời cho rằng để tìm hiểu thiên nhiên phải dùng lý trí (reason).
Nhưng Socrates được coi là cha đẻ của triết học Tây Phương vì ông đưa ra phương
pháp hỏi & đáp (phương pháp thảo luận) (dialectical method) để tìm ra chân lý (trg.
24). Chính vì thế có người định nghĩa triết lý là lý luận (reasoning, logic, reflection,
rationale, argument,).
Cuốn Philosophy in Minutes by Marcus Weeks viết, ở trg. 16: ” Nhiều kỹ thuật đã
được tạo ra để phân biệt một câu tranh luận (argument) là hợp lý (valid) hay ngụy biện
(fallacious), đã tạo thành ngành luận lý học (logic) trong bộ môn triết lý. Lý luận
(logic) là tiến trình suy luận (process of inferring) từ tiền đề (premises) tới kết luận
(conclusion), hoặc là rút ra một nguyên tắc tổng quát từ những kinh nghiệm cụ thể
(specific examples) gọi là phương pháp qui nạp (inductive reasoning) hay từ một
nguyên tắc tổng quát (general statements) rút ra kết luận gọi là pháp diễn dịch
(deductive reasoning).”
Ta cũng thấy trên trang mạng của đại học cộng đồng West Valley College, ở thành phố
Saratoga, California, có một lớp triết dậy về lý luận (logic); đó là lớp triết 2 có tên là
“Lý luận nhập mơn, với 3 tín chỉ (Phil 2: Introduction to Logic). Lớp này dậy nhập
môn về các vấn đề (problems) và kỹ thuật lý luận truyền thống và hiện đại bao gồm
phương pháp diễn dịch và phương pháp qui nạp. Sinh viên sẽ được học cách phân biệt
lý luận (arguments) và phi lý luận (non-arguments), xác định đâu là ngụy biện

(fallacies) để tránh trong khi lý luận…
( />Lý luận (logic) được hiểu là một sự chuyển dịch từ ý niệm này sang ý niệm khác (từ
tiền đề sang kết luận-from premises to conclusion) một cách hợp lý. Mối liên hệ cơ
bản giữa hai ý niệm (tiền đề và kết luận) trong một phát biểu hợp lý là liên hệ nhân
quả (cause-effect). Một câu phát biểu dựa trên liên hệ nhân quả được cho là một câu
hợp lý (a valid argument).
 Triết lý là môn học về định nghĩa
Bởi vì triết lý là lý luận (và như trên vừa trình bày ” Lý luận (logic) là một sự
chuyển dịch từ ý niệm này sang ý niệm khác một cách hợp lý.”), vì vậy trong quá
trình lý luận người ta phải định nghĩa những ý niệm được sử dụng. Khi sử dụng các ý
niệm, người ta phải hiểu rõ nội dung của ý niệm đó. Vì vậy có người định nghĩa triết
lý là môn học về định nghĩa. Trước khi phát biểu một mệnh đề, hay một câu dĩ nhiên
tất cả những ý niệm (từ ngữ) trong câu đó đều phải được định nghĩa rõ ràng. Điều này
đặc biệt quan trọng, khi những triết gia phản bác quan điểm của nhau hay khi đưa ra
một quan điểm mới thì họ phải đưa ra định nghĩa những từ vựng mà họ sử dụng. Ví dụ


khi Karl Max đưa ra ý niệm giá trị thặng dư (surplus value) thì ơng ta phải định nghĩa
từ vựng đó là gì bởi vì trước đó chưa có ý niệm này.
 Giải thích các ý niệm là nhiệm vụ chủ yếu của triết gia
Bước đầu vào bất cứ bộ môn nào cũng cần định nghĩa những ý niệm. Nhưng theo
A.J. Ayer on Philosophy các nhà khoa học thực nghiệm chỉ xử dụng các ý niệm để tìm
hiểu những qui luật của vũ trụ, của xã hội. Trong khi trong The visual reference
guides Philosophy by Stephen Law ở mục Triết lý và Khoa học trg. 18, tác giả viết,
“việc giải thích các ý niệm (meanings and concepts) là một trong các hoạt động chủ
yếu của triết gia”, (không phải là việc của các nhà khoa học thực nghiệm).
Một lý do khác nữa khiến khoa học không khả năng trả lời được một số những câu hỏi
cơ bản là vì một phần các câu hỏi cơ bản liên quan tới nội dung của ý niệm
(concepts). Ví dụ trong câu hỏi “Con người có ý trí tự do hay khơng?” (Do human
beings possess free will?) thì cái ý niệm “free will” vẫn chưa được giải thích rõ là gì.

Việc giải thích ý niệm “free will” là công việc của các triết gia.
 Triết lý là bộ môn đặt những câu hỏi cơ bản
Cuốn The visual reference guides Philosophy by Stephen Law viết, triết lý là bộ
môn đặt những câu hỏi cơ bản (fundamental questions) về vũ trụ và cuộc sống; và
thường là những câu hỏi khơng có câu trả lời. Ví dụ Vũ trụ từ đâu tới? Tại sao lại có
vật chất (Why, indeed, is there anything at all?)
Cũng trong cuốn này, ở mục Những Câu Hỏi Cơ Bản (Fundamental questions) trg. 15
Stephen Law viết, Chúng ta cũng biết trẻ con thường hay hỏi “Tại sao?” và rất mau
chóng chúng thường đào sâu một số những câu hỏi có tính cách cơ bản. Ví dụ chúng
có khi hỏi “Ơng trời ở đâu hả mẹ?” Các triết gia cũng có khuynh hướng “trẻ con” như
vậy khi đặt ra những câu hỏi cơ bản. Trong đời sống thường nhật, người ta ít khi đặt ra
những câu hỏi cơ bản bởi vì người ta có khuynh hướng cho những vấn đề thường nhật
có tính cách đương nhiên (take it for granted.) Nhà bác học Einstein lưu ý rằng một
trong những gợi hứng lớn đối với ông là sau khi đọc triết gia David Hume của tk 18.
David Hume đã khiến Einstein bắt đầu đặt câu hỏi về những điều mà những người
khác cho là sự thật hiển nhiên (assumed to be true.)
Khơng phải chỉ có các khoa học gia mới hưởng lợi khi đặt những câu hỏi cơ bản. Một
số những phát triển quan trọng nhất trong lãnh vực đạo đức và chính trị cũng được đặt
ra bởi những người có khuynh hướng hay đặt những câu hỏi cơ bản và trong một số
trường hợp đã bác bỏ những tín điều mà hầu hết những người khác nghĩ đơn giản cho
là đúng. Ví dụ, cách nay không lâu, ở khắp phương Tây, người ta coi, về phương diện
đạo đức, rõ ràng có thể chấp nhận hiện tượng nơ lệ (slavery); hay là vai trị của phụ nữ


là chỉ ở trong nhà bếp núc, nội trợ. Những tiến bộ về chính trị và đạo đức hiện nay
được mang lại bởi chính những người đã muốn đặt ra những câu hỏi về những vấn đề
mà nhiều người khác coi là lẽ đương nhiên.
 Trong đời sống hàng ngày con người thường vận dụng khả năng triết lý
Cuốn History of Philosophy, ở mục The Ancients, viết, Aristotle nói rằng triết lý khởi
đầu bằng sự thắc mắc (philosophy begins in wonders). Nếu thế triết lý phải có nguồn

gốc song hành cùng lồi người (trg.24) Và bởi vì ai mà khơng thắc mắc, cho nên triết
lý rất gần gũi với con người chứ khơng phải là một cái gì xa lạ. Nhưng rất nhiều khi
con người khơng nhận ra mình đơi khi cũng triết lý. Một điều rõ nhất là ai cũng có
niềm tin triết lý nhưng chúng ta có thể khơng nhận ra điều đó. Stephen Law trong
cuốn The visual reference guides Philosophy viết, Tất cả chúng ta ai cũng có niềm tin
triết lý (philosiphical beliefs) mặc dù chúng ta có thể khơng nhận ra điều đó (Though
we may not realize it, we all hold philosiphical beliefs.) Ví dụ, chắc nhiều người tin
rằng quá khứ là một hướng dẫn tương đối đáng tin cậy cho tương lai, đó là một niềm
tin triết lý. Có người tin rằng có thượng đế, có người khơng, đó là một niềm tin triết
lý. Người thì tin rằng con người có linh hồn bất tử (immortal souls), người chỉ tin rằng
con người là thuần túy vật chất (purely material beings), đó là một niềm tin triết lý.
Như vậy có con người là có triết lý. Triết lý hiện diện hàng ngày trong đời sống con
người.
Thêm nữa, trong cuộc sống, hàng ngày, hàng giờ, nếu không muốn nói hàng phút, con
người ln đối diện với những giải pháp phải chọn lựa, với những vấn đề cần giải đáp.
Khả năng lý luận (tức triết lý) giúp người ta tìm ra sự chọn lựa hợp lý, hay câu trả lời
cần thiết. Nói cách khác, trong đời sống hàng ngày con người phải luôn luôn vận dụng
khả năng triết lý (lý luận) dù rằng đôi khi họ không nhận thức được rằng họ đã qua
quá trình lý luận.
Khả năng lý luận là điều cần thiết, là kỹ thuật sống (life skill), cho nên trong trường
học Hoa Kỳ, người ta dậy kỹ năng lý luận cho học sinh ở mọi cấp. Thêm nữa, trong
chương trình đại học, ở năm thứ nhất sinh viên bắt buộc phải lấy một lớp triết học cơ
bản. Trong đó người ta dậy sinh viên lý luận và những trường hợp ngụy biện
(fallacies).
 Triết lý là những ngun tắc hướng dẫn con người hành động
Chính vì trong đời sống hàng ngày con người thường xuyên phải vận dụng khả năng
triết lý để chọn một giải pháp, một quyết định, cho nên triết lý hướng dẫn con người ta
hành động. Bởi thế, trong cuốn tập đọc 180 của Hoa Kỳ dành cho bậc tiểu học , triết



lý được định nghĩa là “Những nguyên tắc hướng dẫn con người hành động”
(Philosophy: The attitude or beliefs that guide how people or groups act.)
Một cuốn sách tiểu học Mỹ khác viết rằng: Triết lý là thái độ hay niềm tin hướng dẫn
con người hành động. Ví dụ: Tơi sống theo triết lý sau: Tơi muốn giúp mọi người. Ví
dụ 2: Trường học thay đổi triết lý giáo dục bằng cách cho phép học sinh có quyền tự
do phát biểu (free speech).
Một người có những nguyên tắc hướng dẫn hành động (guides) trong cuộc sống được
gọi là một người có “triết lý sống” (philosophy of life). Trong đời sống, con người cần
có triết lý sống thì mới định hướng được cuộc đời, mới khơng phí phạm thời gian
hoạch định cuộc sống. Những người khơng có một triết lý sống rõ ràng dễ bị lạc
hướng, khơng biết mình phải sống ra sao, phải chọn nghề gì. Triết lý sống giúp người
ta trả lời câu hỏi cơ bản “Mình sống để làm gì? Sống ra sao? Mình muốn làm gì trong
tương lai?” Khơng ít sinh viên năm đầu khơng biết chọn ngành nghề gì cho nên cần
gặp cố vấn giáo dục tại trường mình đang theo học. Người cố vấn giáo dục sẽ không
khuyên người hỏi nên học ngành nào mà họ chỉ đặt ra những câu hỏi cơ bản như: bạn
muốn sau này sẽ làm gì? Trong các mơn học bạn khá nhất môn nào? v…v. Bằng cách
đặt ra những câu hỏi cơ bản như vậy người cố vấn giáo dục giúp người sinh viên tự
quyết định đường hướng cho cuộc đời mình, tức là tự tìm cho mình một triết lý sống.
Triết lý hành động (philosophy of life) cũng giúp người ta làm việc có mục tiêu, có kế
hoạch và tránh được những thất bại khơng đáng có. Hàng ngày, trên mặt báo chúng ta
thấy hầu hết các chương trình về giao thông, y tế, môi trường, giáo dục v…v tại Việt
Nam bị thất bại. Sở dĩ như vậy vì giới lãnh đạo VNXHCN thiếu một triết lý hành
động, không biết đặt ra những câu hỏi cơ bản, tức là không biết triết lý. Cụ thể nhất là
trong lãnh vực giáo dục, suốt từ 1954 tới nay, qua nhiều cải tổ, nhưng các giới lãnh
đạo giáo dục đều nhận là thất bại. Sở dĩ vậy vì thiếu một triết lý giáo dục (philosophy
of education). Tương tự như vậy, từ khi tái lập ngành tư pháp, dư luận và báo chí nhà
nước Việt Nam thừa nhận có nhiều khuyết điểm trầm trọng trong mọi ngành luật. Sở
dĩ vậy vì giới lãnh đạo ngành tư pháp hồn tồn chưa nghe nói tới triết luật
(philosophy of law) chứ đừng nói tới việc đặt những câu hỏi cơ bản trong ngành luật
như Luật là gì? Luật do ai thiết lập? Tại sao luật lại có tính cách bắt buộc thi hành

(cưỡng hành)? Nền tảng của luật pháp là gì?
Khơng biết đặt ra những câu hỏi cơ bản, tức là khơng biết triết lý, thì khó thành cơng.
Tóm lại, ta thấy rằng triết lý có mặt khó mà cũng có mặt dễ; triết lý tuy có tính
cách trên mây nhưng cũng có tính cách thực tế; triết lý tuy là một lãnh vực hàn lâm
nhưng cũng liên hệ chặt chẽ với đời sống hàng ngày của con người; triết lý là những
nguyên tắc hướng dẫn con người hành động; Triết lý giúp người ta biết cách diễn tả ý


tưởng hoặc bằng lời nói, hoặc bằng văn bản một cách cô đọng, khúc chiết, mạch lạc
mà ngắn gọn; kiến thức triết lý là một khả năng bổ sung bên cạnh văn bằng và kiến
thức chuyên môn giúp người ta dễ kiếm việc và dễ thành công trong công việc. Và
quan trọng hơn hết, gia tăng khả năng triết lý, tức khả năng phản biện trong dân chúng
sẽ giúp xây dựng một xã hội tiến bộ, dân chủ pháp quyền. Socrates nói rằng, “Cuộc
sống khơng triết lý là cuộc sống không đáng sống “(“The unexamined life is not worth
living,”). Hay nói nhẹ hơn như A.J. Ayer “một xã hội khơng triết lý trong đó ít có
những tư tưởng hợp lý (critical thought) về những điều cơ bản là một xã hội gần như
què quặt (society perilously close to atrophy). Nhận định của A.J. Ayer vơ tình đã mơ
tả đúng xã hội Việt Nam Xã hội chủ nghĩa hiện tại. Xã hội Việt Nam hiện nay có thể
coi là một xã hội đang què quặt bởi vì xã hội chẳng những thiếu mà cịn cấm đốn
những suy nghĩ triết lý, khơng cho phép đặt những câu hỏi cơ bản, không cho phép
phản biện.


Chương 2: Xây dựng triết lý kinh doanh theo mục tiêu phát triển
bền vững
2.1. Triết lý kinh doanh
2.1.1 Khái niệm
Triết lý đạo đức là những nguyên tắc, quy tắc căn bản con người sử dụng để
xác định thế nào là đúng, thế nào là sai và để hướng dẫn con người trong việc xác
định cách thức giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống con người trong mối

quan hệ với tự nhiên và với các thành viên khác trong xã hội.
Khi đối diện với một vấn đề trong thực tiễn, con người phải tìm cách xử lý; có thể tìm
ra rất nhiều giải pháp, nhưng để xác định giải pháp nào là “đúng” hoặc “sai”, con
người sử dụng những “thước đo” nhất định và “vận dụng” theo cách riêng của mình.
Khái niệm “triết lý” hàm chứa 2 nội dung chính: triết lý bao hàm giá trị được sử dụng
làm thước đo và nguyên tắc áp dụng khi vận dụng trong thực tế để ra quyết định hành
động hoặc phán xét về một hành vi hay hành động nào đó. Có thể diễn đạt khái niệm
triết lý bằng biểu thức như sau:
Triết lý = (Giá trị làm thước đo + Nguyên tắc áp dụng)* Cá nhân
Như vậy, bản chất của sự khác biệt giữa các cá nhân trong việc ra quyết định và/hay
phán xét về một quyết định chính là sự khác biệt về giá trị sử dụng làm thước đo
và/hoặc nguyên tắc áp dụng khi ra quyết định.
Triết lý kinh doanh: Trong kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh thường được coi
là cung ứng sản phẩm, hàng hóa cho thị trường để kiếm lợi nhuận. Thực chất, hàng
hóa chỉ là “phương tiện” để người sản xuất tiếp cận và giao dịch với khách hàng và
các đối tượng hữu quan khác; lợi nhuận là những khoản lợi ích kinh tế khách hàng và
đối tượng hữu quan khác tự nguyện bỏ ra để “thưởng” cho người cung ứng. Như vậy,
bản chất của hoạt động kinh doanh là xây dựng và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa
doanh nghiệp và những người có liên quan.
Có một số cách hiểu về triết lý kinh doanh dựa trên các cách tiếp cận khác nhau. Tuy
nhiên, theo quan niệm phổ biến nhất, triết lý kinh doanh là những tư tưởng khái quát
sâu sắc được chắt lọc, đúc rút từ thực tiễn kinh doanh có tác dụng định hướng, chỉ dẫn
cho hoạt động của các chủ thể kinh doanh.
Dựa trên những niềm tin căn bản, định hướng giá trị các chủ thể kinh doanh sẽ đúc rút
từ thực tiễn kinh doanh những tư tưởng mang tính chất khái quát, sâu sắc. Những tư
tưởng này sẽ được coi là kim chỉ nam để định hướng cho hoạt động của doanh nghiệp.
Trong môi trường kinh doanh hiện đại, khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh,


ngồi mục tiêu lợi nhuận thì các chủ thể kinh doanh còn hướng tới các giá trị chân,

thiện, mỹ. Đây là các giá trị mang tính nhân bản, gắn liền với con người, là những giá
trị mà mọi người đều hướng tới. Khi chủ thể kinh doanh lựa chọn và kết hợp các giá
trị nhân văn vào trong triết lý kinh doanh, sẽ có tác động sâu sắc đến tình cảm của
khách hàng, của đối tác, của các thành viên trong doanh nghiệp và của cả xã hội.
Từ đó có thể đi đến định nghĩa sau: Triết lý kinh doanh là triết lý đạo đức vận dụng
trong hoạt động kinh doanh để xây dựng và phát triển mối quan hệ kinh doanh tốt đẹp
với các đối tượng hữu quan. Từ định nghĩa nêu trên về triết lý đạo đức, có thể biểu
diễn khái niệm triết lý kinh doanh bằng biểu thức như sau:
Triết lý kinh doanh = (Giá trị mục tiêu + Nguyên tắc áp dụng)*Đối tượng hữu quan
Như vậy, triết lý kinh doanh là một trong những biểu hiện của văn hóa trong hoạt
động kinh doanh. Vì vậy, lãnh đạo doanh nghiệp cần phải lựa chọn một hệ thống các
giá trị và triết lý hành động đúng đắn, đủ để làm động lực lâu dài và mục đích phấn
đấu chung cho tổ chức. Hệ thống các giá trị và triết lý này cũng phải phù hợp với
mong muốn và chuẩn mực hành vi của các đối tượng hữu quan.
2.1.2. Phân loại triết lý kinh doanh
Dựa theo tiêu chí lĩnh vực hoạt động và nghiệp vụ chuyên ngành: có các triết lý
kinh doanh về sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, marketing, quản lý chất
lượng,…
Dựa theo quy mô của các chủ thể kinh doanh:
- Triết lý áp dụng cho cá nhân: Là các triết lý được rút ra từ kinh nghiệm, bài học
thành công và thất bại trong quá trình kinh doanh,có ích cho các cá thể kinh doanh.
- Triết lý áp dụng cho tổ chức, doanh nghiệp: Là triết lý kinh doanh chung của tất cả
các thành viên của một doanh nghiệp cụ thể. Khi một chủ thể kinh doanh trở thành
người lãnh đạo doanh nghiệp, họ sẽ cố gắng vận dụng các tư tưởng triết học về kinh
doanh và tổ chức quản lý của họ, phát triển thành triết lý chung của doanh nghiệp. Đó
là lý tưởng, là phương châm hành động, là hệ giá trị và mục tiêu chung của doanh
nghiệp chỉ dẫn cho hoạt động, nhằm làm cho doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong
kinh doanh. Thực tế cho thấy, sự phát triển của doanh nghiệp được định hướng chủ
yếu từ triết lý doanh nghiệp đúng đắn.
2.1.3 Nội dung cơ bản của triết lý kinh doanh

2.1.3.1 Sứ mệnh và các mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp


Sứ mệnh kinh doanh là phát biểu của doanh nghiệp mơ tả doanh nghiệp là ai, làm
những gì, làm vì ai và làm như thế nào,… Nội dung sứ mệnh thường trả lời cho các
câu hỏi: Doanh nghiệp là gì? Doanh nghiệp muốn thành một tổ chức như thế nào?
Doanh nghiệp kinh doanh cái gì? Tại sao Doanh nghiệp tồn tại? Doanh nghiệp tồn tại
vì cái gì? Doanh nghiệp có nghĩa vụ gì? Sẽ đi về đâu? Doanh nghiệp hoạt động theo
mục đích gì? Mục tiêu định hướng của doanh nghiệp là gì?
2.1.3.2 Phương thức hành động
Đây là phần nội dung xác định doanh nghiệp sẽ thực hiện sứ mệnh và đạt tới các mục
tiêu như thế nào, bằng những nguồn lực và phương tiện gì, bao gồm 2 nội dung: hệ
thống giá trị và biện pháp quản lý của doanh nghiệp.
- Hệ thống các giá trị của doanh nghiệp:
Giá trị của doanh nghiệp là những niềm tin căn bản của những người làm việc trong
doanh nghiệp. Bao gồm:
- Nguyên tắc của doanh nghiệp: Chính sách xã hội, các cam kết đối với khách hàng.
- Lòng trung thành và cam kết.
- Hướng dẫn những hành vi ứng xử mong đợi.
Hệ thống giá trị là cơ sở để quy định, xác lập nên các tiêu chuẩn về đạo đức trong hoạt
động của cơng ty.
Trong một nền văn hóa, hệ thống các giá trị là thành phần cốt lõi và ít thay đổi. Các
doanh nghiệp kinh doanh có văn hóa đều có đặc điểm chung là đề cao nguồn lực con
người, coi trọng đức tính trung thực, kinh doanh chính đáng, chất lượng… như là
những mục tiêu cao cả cần vươn tới. Đó cũng chính là những chuẩn mực chung định
hướng cho các hoạt động của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp
- Các biện pháp và phong cách quản lý.
Tổ chức, quản lý doanh nghiệp là nhiệm vụ trung tâm và có vai trị quyết định đối với
việc thực hiện sứ mệnh và các mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp. Phong cách và các
biện pháp quản lý của mỗi cơng ty đều có điểm đặc thù, sự khác biệt lớn so với các

công ty khác. Nguyên nhân của sự khác biệt này xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau
có ảnh hưởng như: thị trường, mơi trường kinh doanh, văn hóa dân tộc và tư tưởng
triết học về quản lý của người lãnh đạo. Triết lý quản lý doanh nghiệp là cơ sở để lựa
chọn, đề xuất các biện pháp quản lý, qua đó củng cố phong cách quản lý đặc thù của
công ty.


Các nguyên tắc tạo phong cách ứng xử giao tiếp và hoạt động kinh doanh đặc thù của
doanh nghiệp

Doanh nghiệp tồn tại và phát triển được nhờ môi trường kinh doanh nhất định, trong
đó, nó có những mối quan hệ với xã hội bên ngồi, với chính quyền, với khách hàng,
đối thủ cạnh tranh, cộng đồng dân cư… Doanh nghiệp cần duy trì, phát triển các mối
quan hệ xã hội để phục vụ cho công việc kinh doanh, nhằm tạo mơi trường kinh
doanh thuận lợi nguồn lực phát triển.
Vì vậy, các văn bản triết lý doanh nghiệp thường đưa ra các nguyên tắc chung, hướng
dẫn việc giải quyết những mối quan hệ giữa doanh nghiệp với xã hội nói chung, và
cách cư xử chuẩn mực của nhân viên trong các mối quan hệ cụ thể nói riêng. Một văn
bản triết lý của công ty đầy đủ bao hàm sự hướng dẫn cách cư xử cho mọi thành viên
(theo các giá trị và chuẩn mực đạo đức đã xác lập).
Triết lý của một số doanh nghiệp còn nhấn mạnh tới cách ứng xử, phong cách hành
động độc đáo, đặc thù như bí quyết trong kinh doanh.
Tóm lại, triết lý doanh nghiệp là cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp: Xác định sứ
mệnh, các giá trị cốt lõi và phương thức hoạt động, quản lý của doanh nghiệp. Do đó,
triết lý kinh doanh trở thành yếu tố quan trọng nhất của văn hóa doanh nghiệp. Sứ
mệnh và giá trị cốt lõi có ý nghĩa định hướng sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp, hướng mọi thành viên trong doanh nghiệp tới một mục đích chung. Trong khi
các yếu tố khác của văn hóa doanh nghiệp có thể thay đổi, thì sứ mệnh và giá trị cốt
lõi doanh nghiệp thường không thay đổi. Vì vậy, triết lý doanh nghiệp trở thành nền
tảng của văn hóa doanh nghiệp. Các kế hoạch chiến lược mang tính lâu dài phải

được bắt nguồn từ sứ mệnh chung của doanh nghiệp. Triết lý doanh nghiệp chính là
cơng cụ để hướng dẫn cách thức kinh doanh phù hợp với văn hóa doanh nghiệp.
2.1.4 Vai trị của triết lý kinh doanh
Triết lý kinh doanh có vai trị quan trọng trong quá trình phát triển kinh doanh
của doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh có những tác động tích cực đối với các hoạt
động của doanh nghiệp. Nó là kim chỉ nam cho hành động của doanh nghiệp, đặc biệt
là cho mục tiêu phát triển bền vững.
Triết lý doanh nghiệp là phương tiện để giáo dục, phát triển nguồn nhân
lực và tạo ra phong cách đặc thù của doanh nghiệp.
Triết lý doanh nghiệp cung cấp các giá trị, chuẩn mực hành vi, nhằm tạo nên một
phong cách làm việc, sinh hoạt chung của doanh nghiệp, đậm đà bản sắc văn hóa.


Công tác đào tạo, giáo dục và phát triển nguồn nhân lực có vai trị quyết định sự thành
bại của doanh nghiệp. Với việc đưa ra lý tưởng và mục tiêu kinh doanh, triết lý kinh
doanh giáo dục cho đội ngũ nhân lực đầy đủ về lý tưởng, về công việc và trong một
mơi trường văn hóa tốt nhân viên sẽ tự giác hoạt động, phấn đấu vươn lên, có lịng
trung thành, tinh thần hết mình vì doanh nghiệp.
Triết lý kinh doanh là cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp, tạo ra phương
thức phát triển bền vững
Văn hóa doanh nghiệp là cơ sở đảm bảo cho một doanh nghiệp kinh doanh văn hóa và
bằng phương thức này doanh nghiệp có thể phát triển một cách bền vững.
Văn hóa doanh nghiệp gồm nhiều yếu tố cấu thành, mỗi thành tố của văn hóa doanh
nghiệp có một vị trí, vai trị khác nhau trong một hệ thống chung, hạt nhân là các triết
lý và hệ giá trị.
Do đưa ra sứ mệnh - mục tiêu, phương thức thực hiện mục tiêu, một hệ thống các giá
trị có tính pháp lý và đạo lý, chủ yếu là giá trị đạo đức của doanh nghiệp. Nói gọn
hơn, triết lý doanh nghiệp là cốt lõi của phong cách - phong thái của doanh nghiệp đó.
Triết lý doanh nghiệp ổn định, rất khó thay đổi, phản ánh tinh thần - ý thức của doanh
nghiệp ở trình độ bản chất, có tính khái qt, cơ đọng và hệ thống hơn so với các yếu

tố ý thức đời thường và tâm lý xã hội. Khi phát huy được tác dụng, triết lý doanh
nghiệp trở thành ý thức lý luận và hệ tư tưởng chung của doanh nghiệp, bất kể có sự
thay đổi nào về lãnh đạo. Do đó, triết lý doanh nghiệp là cơ sở bảo tồn phong thái và
bản sắc văn hóa của doanh nghiệp. Triết lý doanh nghiệp ít hiện hữu với xã hội bên
ngồi; là tài sản tinh thần của doanh nghiệp. Do vậy, triết lý doanh nghiệp là công cụ
tốt nhất của doanh nghiệp để thống nhất hành động của người lao động trong một sự
hiểu biết chung về mục đích và giá trị.
Tóm lại, triết lý doanh nghiệp góp phần tạo lập nên văn hóa doanh nghiệp, là
yếu tố có vai trị quyết định trong việc thúc đẩy và bảo tồn nền văn hóa này. Qua đó,
góp phần tạo nên một nguồn nội lực mạnh mẽ từ doanh nghiệp. Triết lý doanh nghiệp
có vị trí quan trọng nhất trong số các yếu tố hợp thành văn hóa doanh nghiệp.
Triết lý kinh doanh là cơng cụ định hướng để quản lý chiến lược của doanh
nghiệp
Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp vốn rất phức tạp và biến đổi
không ngừng. Để tồn tại được, doanh nghiệp cần có tính mềm dẻo, linh hoạt và hơn
thế nữa, muốn phát triển được lâu dài, cần thêm năng lực chủ động kinh doanh. Tính
định tính, sự trừu tượng của triết lý kinh doanh cho phép doanh nghiệp có sự linh hoạt


nhiều hơn trong việc thích nghi với mơi trường đang thay đổi và các hoạt động bên
trong. Nó tạo ra sự linh động trong việc thực hiện, sự mềm dẻo trong kinh doanh.
Triết lý doanh nghiệp có vai trị định hướng, là công cụ để hướng dẫn cách thức kinh
doanh phù hợp với văn hóa của doanh nghiệp. Nếu thiếu một triết lý doanh nghiệp có
giá trị thì việc lập các kế hoạch chiến lược và dự án kinh doanh của nó cũng rất khó
khăn vì thiếu một quan điểm chung về phát triển giữa các tầng lớp, bộ phận của tổ
chức doanh nghiệp. Sự trung thành với triết lý kinh doanh cịn làm cho nó thích ứng
với những nền văn hóa khác nhau ở các quốc gia khác nhau đem lại thành công cho
các doanh nghiệp.
Triết lý kinh doanh là cơ sở để quản lý chiến lược của doanh nghiệp.
Đối với tầng lớp cán bộ quản trị, triết lý doanh nghiệp là một văn bản pháp lý và cơ sở

văn hóa để họ có thể đưa ra các quyết định quản lý quan trọng, có tính chiến lược,
trong những tình huống mà sự phân tích kinh tế lỗ - lãi vẫn chưa giải quyết được vấn
đề.
2.1.5 Các yếu tố tác động và cách thức xây dựng triết lý kinh doanh
2.1.5.1 Các yếu tố tác động
Một là, thời gian hoạt động của doanh nghiệp và kinh nghiệm của người
lãnh đạo
Hầu hết các doanh nghiệp mới thành lập, trong những tháng năm đầu tiên chưa
đặt ra vấn đề về triết lý kinh doanh do doanh nghiệp thường gặp phải những khó khăn
và chưa chắc chắn về khả năng tồn tại trên thương trường. Thực tế cho thấy, trong các
nền kinh tế thị trường có mức cạnh tranh cao thì số doanh nghiệp sống sót qua giai
đoạn 3 - 5 năm đầu tiên sau khi ra đời chỉ còn dưới 50%.
Một số doanh nghiệp sau khi qua giai đoạn đầu buộc phải tìm cách phát huy mọi
nguồn lực để phát triển; cùng với việc đẩy mạnh, mở rộng đầu tư, phát triển công
nghệ và nâng cao hiệu suất, cần xác định bản sắc văn hóa, trong đó có vấn đề triết lý
của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tồn tại, phát triển càng lâu dài, số nhân viên càng
nhiều hơn thì vấn đề văn hoá kinh doanh và triết lý kinh doanh càng trở nên cấp bách.
Các nhà sáng lập và lãnh đạo doanh nghiệp có vai trị quyết định đối với việc tạo lập
một triết lý doanh nghiệp cụ thể. Bản thân những người này cũng cần có kinh nghiệm,
thời gian để kiểm nghiệm, đánh giá về giá trị của các tư tưởng này trước khi có thể
cơng bố trước nhân viên. Kinh nghiệm, của các tư tưởng kinh doanh và quản lý doanh
nghiệp là yếu tố chủ quan song không thể thiếu đối với việc tạo lập một triết lý doanh
nghiệp.


Hai là, bản lĩnh và năng lực của người lãnh đạo doanh nghiệp
Triết lý doanh nghiệp là sản phẩm của 1 doanh nghiệp nhưng các ý tưởng cơ
bản bao giờ cũng xuất phát từ người sáng lập và lãnh đạo doanh nghiệp. Các nhà lãnh
đạo doanh nghiệp đòi hỏi phải thực sự có trí tuệ, lịng dũng cảm và tài năng bởi bản
chất của văn hóa kinh doanh nói chung và triết lý kinh doanh nói riêng là làm cho cái

lợi gắn với cái đúng, cái tốt và cái đẹp.

Các yếu tố bản lĩnh, phẩm chất đạo đức của lãnh đạo doanh nghiệp có tác động trực
tiếp tới sự ra đời và nội dung của triết lý kinh doanh do họ đề xuất. Nếu một nhà lãnh
đạo doanh nghiệp kém năng lực, họ sẽ khơng có khả năng rút ra các triết lý kinh
doanh. Trường hợp khác, nếu doanh nghiệp có năng lực kinh doanh, thậm chí giỏi cả
về quản lý, song nếu khơng dám hoặc khơng muốn nói lên quan điểm cá nhân, khơng
có chủ kiến của bản thân về công việc kinh doanh, không nghĩ đến sự phát triển lâu
dài và bền vững của cơng ty thì họ cũng không xây dựng được triết lý của công ty. Đó
là chưa kể đến một số doanh nhân và doanh nghiệp kinh doanh theo kiểu chụp giật,
ln tìm cơ hội lừa dối khách hàng, trốn tránh pháp luật… để kiếm lời thì họ khó có
thể đưa ra triết lý kinh doanh tích cực.
Ba là, sự tự giác và đồng thuận của đội ngũ cán bộ, công nhân viên
Dù người đưa ra triết lý doanh nghiệp là tầng lớp lãnh đạo, quản lý, nhưng nó
chỉ thực sự là triết lý kinh doanh chung của doanh nghiệp khi được toàn thể nhân sự
(cán bộ, cơng nhân viên) trong doanh nghiệp đó tự nguyện, tự giác chấp nhận.
Muốn vậy các cấp lãnh đạo phải thực hiện ngun tắc nói đi đơi với làm, phải gương
mẫu và kiên trì trong việc thực hiện triết lý trước nhân viên. Mọi triết lý doanh nghiệp
do bộ phận lãnh đạo ban hành một cách quá vội vàng sẽ khơng có giá trị, chỉ tồn tại về
mặt hình thức. Muốn làm được điều này, nội dung của bản triết lý, trong phần mục
tiêu, các giá trị và phương thức hoạt động, phải bảo đảm.
Do đó cần có tính đồng thuận của đội ngũ cán bộ, công nhân viên đối với sự ra đời và
nội dung của triết lý doanh nghiệp sẽ cao hơn nếu mọi người có quyền thảo luận, tham
gia vào việc xây dựng văn bản này. Nói cách khác, q trình hồn thiện văn bản triết
lý doanh nghiệp phải diễn ra công khai, dân chủ mở rộng.
2.1.5.2 Các thức xây dựng triết lý kinh doanh
Với sự linh hoạt trong quá trình hoạt động kinh doanh, sự gọn nhẹ trong cơ cấu
tổ chức của các doanh nghiệp thì việc lựa chọn một cách thức phù hợp trong xây dựng
và phát triển triết lý kinh doanh, tạo nên bản sắc riêng có của doanh nghiệp là một



điều vơ cùng cần thiết. Để xây dựng thì doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể lựa chọn
những cách thức sau:
Một là, xây dựng triết lý kinh doanh bằng cách mời chuyên gia tư vấn, là những
người am hiểu và có kinh nghiệm xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Để có thể tư vấn
xây dựng triết lý kinh doanh cho doanh nghiệp, các chuyên gia sẽ đến tìm hiểu về các
hoạt động của doanh nghiệp, tìm hiểu phong cách lãnh đạo, định hướng giá trị của
doanh nghiệp, lắng nghe tâm tư, tình cảm của lãnh đạo doanh nghiệp và của cả các
thành viên doanh nghiệp.
Hai là, với những nhận thức về vai trị của văn hóa kinh doanh, có nhu cầu cấp
thiết phải xây dựng triết lý kinh doanh, người chủ doanh nghiệp hoặc bộ phận chuyên
trách sẽ soạn thảo triết lý kinh doanh của doanh nghiệp, sau đó lấy ý kiến đóng góp
của tập thể thành viên của doanh nghiệp để hoàn thiện. Theo cách này, người chủ
doanh nghiệp hoặc bộ phận soạn thảo sẽ nghiên cứu toàn diện các đặc trưng nổi bật
của doanh nghiệp, các giá trị cốt lõi mà doanh nghiệp theo đuổi, các quan niệm về đạo
đức, các nguyên tắc kinh doanh, mục tiêu của doanh nghiệp,... Sau đó, họ có thể tập
hợp thành văn bản và gửi xuống các phòng ban, các đơn vị trực thuộc để khuyến
khích mọi người thảo luận, góp ý hoàn chỉnh. Những vấn đề thống nhất sẽ được phê
chuẩn và ban hành để mọi người thực hiện. Phương pháp này thường áp dụng ở các
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, rút ngắn được thời gian xây
dựng.
Ba là, thơng qua q trình hoạt động của doanh nghiệp, người chủ doanh
nghiệp tổng kết, đúc rút kinh nghiệm rồi khái qt hóa thành những quan điểm mang
tính triết lý để chỉ đạo hoạt động kinh doanh. Phương pháp này địi hỏi người chủ
doanh nghiệp phải là người có tâm huyết, kiên trì, có khả năng đúc rút kinh nghiệm từ
thực tiễn hoạt động kinh doanh để tìm ra triết lý kinh doanh của doanh nghiệp.
Phương pháp này đòi hỏi người chủ doanh nghiệp phải là người có tâm huyết, kiên trì,
có khả năng đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động kinh doanh để tìm ra triết lý
kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2 Mục tiêu phát triển bền vững

Phát triển bền vững đang là từ khóa quan trọng không chỉ đối với doanh
nghiệp, bởi người tiêu dùng hiện đại đang có xu hướng ưu tiên sử dụng sản phẩm của
các doanh nghiệp có cam kết phát triển bền vững. muốn phát triển vững mạnh và lâu
dài. Tuy nhiên, cụm từ “phát triển bền vững” cũng được nhiều nhà nghiên cứu đưa ra
các định nghĩa khác nhau.


- Đối với doanh nghiệp kinh doanh, phát triển bền vững có nghĩa là áp dụng các chiến
lược và hoạt động kinh doanh đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và các bên liên quan
ở hiện tại đồng thời bảo vệ, duy trì và tăng cường nguồn nhân lực và tài nguyên thiên
nhiên sẽ cần trong tương lai. (Theo iisd.org)
- Richard N. Andrews cho rằng "Một doanh nghiệp bền vững là một doanh nghiệp
tăng giá trị cho các cổ đông bằng cách đóng góp nhiều hơn đối thủ cạnh tranh và trở
thành các tiêu chí cho một doanh nghiệp bền vững. Đóng góp cho phát triển bền vững
từ yếu tố thành phần kinh tế, cung cấp và cải thiện".
- Theo Bradley D. Parrish (2005): Phát triển bền vững doanh nghiệp có thể được định
nghĩa là một tổ chức góp phần phát triển bền vững, nơi "bền vững" được hiểu như là
một tương lai con người và "phát triển" được hiểu là một sự cải thiện chất lượng trong
điều kiện con người.
- Theo Jim Schorr (2006) lại đề xuất mơ hình mới cho phát triển bền vững: Lĩnh vực
doanh nghiệp xã hội là ở một ngã tư; chúng ta không thể mong đợi để hoạt động các
doanh nghiệp hiện tại của chúng ta như là trong dài hạn, vì vậy chúng ta phải tìm
những giải pháp mới để phát triển bền vững hoặc phải đối mặt với sự phá sản doanh
nghiệp.
- Phát triển bền vững doanh nghiệp theo Parrish (2007) cho rằng doanh nghiệp là một
hệ thống xung quanh mà các bên liên quan cá nhân có liên quan và hoạt động trong
một hệ thống sinh thái - xã hội rộng lớn hơn. Các cá nhân, doanh nghiệp và các hệ
thống sinh thái - xã hội có tồn tại và mục đích nhu cầu. Các doanh nghiệp bền vững tổ
chức các hoạt động của mình để cả hai loại nhu cầu được đáp ứng đồng thời cho các
bên liên quan, tự các doanh nghiệp và hệ thống sinh thái - xã hội.

- Sự thúc đẩy phát triển bền vững doanh nghiệp theo Báo cáo VI, Hội nghị Lao động
Quốc tế (2007): "Phát triển bền vững doanh nghiệp" có liên quan đến cách tiếp cận
chung để phát triển bền vững - các hình thức tiến bộ đáp ứng nhu cầu hiện tại mà
không ảnh hưởng đến khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng nhu cầu của họ một cách tiếp cận được giả định quan điểm toàn diện, cân bằng và tích hợp phát triển.
Tuy nhiên, phát triển bền vững về nhiều hơn chỉ là vấn đề môi trường, nó địi hỏi sự
tích hợp của tất cả ba trụ cột của phát triển - kinh tế, xã hội và môi trường.
- Theo QU Feng geng (2007): Phát triển bền vững doanh nghiệp cần chú trọng đến
mối quan hệ năng lực ngành công nghiệp, công nghệ, năng lực phát triển thể chế và
thị trường và sự tương tác của chúng để thực hiện phát triển bền vững của doanh
nghiệp Trung Quốc.


Để nhận ra sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, chúng ta phải chú trọng đến việc
lựa chọn và định hướng công nghiệp, đổi mới công nghệ, cải cách thể chế và bồi
dưỡng năng lực phát triển thị trường.
Để tiến tới hình thành hiệp lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp với
sự trợ giúp của hội nhập, kiến nghị tương tác hiệp lực của bốn năng lực như công
nghiệp, kĩ thuật, phát triển thể chế và thị trường, để nuôi dưỡng và khả năng phát triển
bền vững của doanh nghiệp liên tục.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phát triển bền vững thì thuộc rất nhiều lĩnh
vực khác nhau về sản xuất, kinh doanh, theo Kris Law (2010) nghiên cứu các yếu tố
ảnh hưởng đến phát triển bền vững các công ty công nghệ cao sản xuất tại Đài Loan.
Đối với lĩnh vực doanh nghiệp thủy sản cũng nằm trong khái niệm chung về phát triển
bền vững và các hoạt động đều đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, các bên liên quan
trong việc bảo vệ môi trường, xã hội, trách nhiệm sản phẩm, cơng tác an sinh xã hội
và chính sách của nhà nước sẽ là cần thiết cho doanh nghiệp trong tương lai.
- Kent Fairfield, Joel Harmon & Scott Behson (2011): Khái niệm tích hợp phát triển
bền vững doanh nghiệp là các mối liên kết giữa ảnh hưởng bên ngoài và hạn chế nội
bộ, q trình điều khiển quyết định tính bền vững, cho phép tổ chức cơ bản, phương
thức bền vững và hiệu quả.

Như vậy, mỗi ngành nghề, lĩnh vực đều có các giải pháp phát triển một cách
bền vững riêng, nhưng cốt lõi chung của một doanh nghiệp bền vững chính là phải
cân bằng được cả ba yếu tố về phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. Các kế hoạch
và hoạt động kinh doanh đều phải được triển khai dựa trên u cầu cân bằng đó, để
khơng chỉ mang lại hiệu quả về kinh tế mà còn đảm bảo xử lý các rủi ro về xã hội và
an tồn, sức khỏe mơi trường.
Phát triển bền vững là một trong những mục tiêu dài hạn, thể hiện tầm nhìn
chiến lược của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể có nhiều hướng đi để thực hiện
được mục tiêu này như chú trọng vấn đề bình đẳng giới, thực hiện tốt trách nhiệm xã
hội, quản lý an tồn và sức khỏe mơi trường, quản lý chuỗi cung ứng có trách nhiệm...
Và trong những năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp dần chuyển dịch định hướng,
chiến lược kinh doanh từ “kinh doanh vì lợi nhuận” sang kinh doanh có trách nhiệm,
là những tín hiệu tích cực của mục tiêu phát triển bền vững.
2.3 Liên hệ thực tiễn với triết lý kinh doanh của Công ty Honda Viet Nam
2.3.1 Giới thiệu về Honda Việt Nam


Được thành lập vào năm 1996, công ty Honda Việt Nam là liên doanh giữa
Công ty Honda Motor (Nhật Bản), Công ty Asian Honda Motor (Thái Lan) và Tổng
Công ty Máy Động Lực và Máy Nông nghiệp Việt Nam với 2 ngành sản phẩm chính:
xe máy và xe ơ tơ. 25 năm có mặt tại Việt Nam, Honda Việt Nam đã không ngừng
phát triển và trở thành một trong những công ty dẫn đầu trong lĩnh vực sản xuất xe
gắn máy và nhà sản xuất ơ tơ uy tín tại thị trường Việt Nam.
Để Honda Việt Nam tự hào mang đến cho khách hàng những sản phẩm chất lượng
cao, dịch vụ tận tâm và những đóng góp vì một xã hội giao thông lành mạnh, việc
luôn cùng cố triết lý kinh doanh, lan tỏa đến từng nhân viên là điều luôn được công ty
chú trọng đến. Một trong những yếu tố thành công của Honda là triết lý kinh doanh,
đây như là sợi dây kết nối các công ty Honda trên toàn cầu và Honda Viet Nam kết
nối với các Honda ở những nước khác.
2.3.2 Phân tích triết lý kinh doanh của Honda Việt Nam với mục tiêu phát triển bền

vững
Sự thành công của Honda Việt Nam hôm nay là quá trình phát triển lâu dài và
bền vững dựa vào 3 triết lý: Niềm tin cơ bản, Tôn chỉ Công ty và Chính sách quản lý.
Các triết lý này khơng chỉ được chia sẻ bởi toàn thể các nhân viên mà còn tạo nên nền
tảng cho tất cả các hoạt động của Công ty và thiết lập các tiêu chuẩn cho việc thực
hiện và ra quyết định của tất cả các nhân viên trong Tập đoàn Honda. Triết lý kinh
doanh được xem như kim chỉ nam hành động giúp Honda nói riêng và các cơng ty đa
quốc gia nói chung hoạt động một cách nhịp nhàng và bền vững.
Đặc biệt, đối với triết lý chung của Honda, công ty luôn coi trọng sự phát triển bền
vững, đảm bảo cả mục tiêu lợi nhuận, kinh tế-xã hội và môi trường.
 Triết lý niềm tin cơ bản
Nền tảng của Tôn chỉ Công ty bao gồm 2 niềm tin cơ bản:
Thứ nhất, tôn trọng con người
Mỗi con người sinh ra là một cá thể tự do, độc đáo, với khả năng tư duy, lập
luận và sáng tạo và khả năng mơ ước. “Tôn trọng con người” địi hỏi Honda khuyến
khích và phát triển những đặc tính này trong cơng ty bằng việc tơn trọng những khác
biệt cá nhân và tin tưởng lẫn nhau như những người cộng sự bình đẳng.


Lòng tin
Mối quan hệ giữa các thành viên Honda dựa trên sự tin cậy lẫn nhau. Lịng tin đó
được tạo lập bởi sự nhận thức tôn trọng cá nhân, giúp đỡ những người gặp khó khăn,
nhận sự giúp đỡ lúc khó khăn, chia sẻ kiến thức, đóng góp chân thành để hồn thành
trách nhiệm.
Bình đẳng
Nhận thức và tơn trọng những khác biệt cá nhân trong mỗi người và đối xử với nhau
một cách công bằng. Công ty chúng tôi cam kết thực hiện theo nguyên tắc này và tạo
cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân. Cơ hội cho từng cá nhân khơng phụ thuộc vào
chủng tộc, giới tính, tuổi tác, tôn giáo, nguồn gốc, quốc tịch, học vấn, địa vị kinh tế
hay xã hội

Chủ động
Hãy suy nghĩ một cách sáng tạo và hành động theo sáng kiến và đánh giá của chính
bạn, đồng thời nhận thức rõ về trách nhiệm đối với kết quả của những hành động đó.
Thứ 2, ba niềm vui
Honda đặt 3 niềm vui lên hàng đầu:

 Niềm vui Mua hàng: Đạt được thông qua việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ
đáp ứng tốt hơn nhu cầu và mong đợi của mỗi khách hàng.
 Niềm vui Bán hàng: Đạt được khi những người tham gia vào việc bán và cung ứng
dịch vụ cho các sản phẩm Honda phát triển mối quan hệ với khách hàng dựa trên
sự tin tưởng lẫn nhau.
 Niềm vui Sáng tạo: Đạt được khi chất lượng sản phẩm vượt quá sự mong đợi và
chúng ta có được niềm tự hào khi công việc tiến hành thuận lợi.


Đạt được khi các thành viên Honda và các nhà cung cấp tham gia vào việc phát triển,
thiết kế và sản xuất các sản phẩm Honda nhận thấy niềm vui của khách hàng cũng
như các đại lý của Honda có được do những nỗ lực của mình.
 Tơn chỉ cơng ty (sứ mệnh)
Duy trì quan điểm tồn cầu, chúng tơi nỗ lực hết mình cung cấp các sản phẩm
có chất lượng tốt nhất, với giá cả hợp lý nhằm thỏa mãn khách hàng trên tồn thế giới.
 Chính sách quản lý
 Luôn vươn tới bằng tham vọng và sự tươi trẻ.
 Tôn trọng lý thuyết vững chắc, phát triển những ý tưởng mới, và sử dụng thời
gian hiệu quả nhất.
 Hứng thú trong cơng việc và khuyến khích giao tiếp cởi mở.
 Khơng ngừng phấn đấu cho một qui trình làm việc hài hịa.
 Ln quan tâm đến giá trị của nghiên cứu và nỗ lực
Honda luôn nỗ lực để làm thỏa mãn khách hàng. Đây chính là kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của tập đoàn, ưu tiên sự thỏa mãn của khách hàng lên hàng đầu.

Thứ hai, về mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp, điều này được thể hiện qua triết lý
“Niềm tin cơ bản”, Honda luôn nỗ lực để tạo ra các mối quan hệ bền vững với khách
hàng, nhà cung cấp, các đối tác hay chính nhân viên Honda, bằng việc trao niềm tin,
tơn trọng sự khác biệt. Đồng thời, tạo triết lý “ba niềm vui” từ vai trò là người bán
( khi Honda mang sản phẩm tới khách hàng, đại lý phân phối), người mua ( khi Honda
mua các dịch vụ phục vụ cho hoạt động doanh nghiệp) và người sáng tạo (khi Honda
mang lại những sáng tạo vượt kỳ vọng).
Thứ ba, về phương thức hoạt động, quản lý của doanh nghiệp, triết lý “Chính sách
quản lý” của Honda đã nêu rõ định hướng của doanh nghiệp “luôn vươn tới bằng tham
vọng và sự tươi trẻ”, “Tôn trọng lý thuyết vững chắc, phát triển những ý tưởng mới,
và sử dụng thời gian hiệu quả nhất”…Có thể thấy, đây là những định hướng vơ cùng
rõ ràng cho hoạt động của doanh nghiệp, dễ dàng truyền đạt đến các cấp nhân viên
công ty.
Như đã đề cập ở mục 2.2, phát triển bền vững là việc doanh nghiệp phải cân
bằng được cả ba yếu tố về phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. Trong triết lý
Honda, nội dung khơng những định hướng mà cịn nêu rõ trong chính sách quản lý
doanh nghiệp cần phải tơn trọng lý thuyết vững chắc, “không ngừng tạo ra quy trình
làm việc hài hịa”. Chính sách này mang hàm ý, Honda sẽ nỗ lực để tạo ra những quy
trình làm việc phù hợp không chỉ với đặc thù chuyên môn công việc, mà cần quan tâm
đến những yếu tố môi trường, xã hội.


Tính đến năm 2022, Honda Viet Nam đã có hơn 8000 nhân viên, 3 nhà máy, 2.5 triệu
xe máy và 23.000 ơ tơ mỗi năm, đây có lẽ là lời khẳng định rõ ràng nhất về tính đúng
đắn trong triết lý kinh doanh phát triển bền vững của Honda Viet Nam. Hơn nữa,
nhưng triết lý kinh doanh tại Honda Viet Nam cũng là triết lý được áp dụng của cả tập
đoàn Honda trên toàn cầu, với sự phát triển vươn tầm quốc tế, khẳng định thương hiệu
và phát triển bền vững. Như vậy, qua phân tích triết lý Honda, có thể phần nào khẳng
định, để một doanh nghiệp tồn tại và phát triển bền vững, việc xây dựng triết lý kinh
doanh là điều vô cùng cần thiết.




×