HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng cơ bản của Luật sư khi tham gia giải quyết các vụ việc
Hành chính.
Hồ sơ số: LS.HC12
Diễn lần: 02
Ngày diễn: 18/6/2022
Vai diễn: Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện
Họ và tên : ………………..
Sinh ngày : ………………..
Số báo danh : ………………..
Lớp Luật sư : ………………..
Hà Nội, ngày 17 tháng 6 năm 2022
MỤC LỤC
HỌC VIỆN TƯ PHÁP.......................................................................................................1
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ............................................................................................1
........................................................................................................................................... 1
........................................................................................................................................... 1
........................................................................................................................................... 1
Hà Nội, ngày 17 tháng 6 năm 2022....................................................................................1
MỤC LỤC.........................................................................................................................1
I. Tóm tắt vụ án và yêu cầu khách hàng, các vấn đề chung về tố tụng.
1. Tóm tắt vụ án.
- Vào lúc 21h10 ngày 23/12/2013, đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai đã lập Biên bản vi phạm hành chính số 11/BBVPHC đối với nhà trọ Hoàng Lan của bà Nguyễn thị Tuyết trong đó có ghi nội
dung vi phạm như sau: “Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan phịng số 11 có
ơng Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành khơng có Giấy kết hơn, đang
quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục), phịng số 9 có anh Phan Văn và chị Nguyễn
Thị Thùy khơng có Giấy kết hơn đang ở chung phịng xem tivi. Vào thời điểm kiểm
tra tại phòng số 11, chủ cơ sở kinh doanh phịng trọ Hồng Lan khơng vào sổ bà
Nguyễn Thị Lành” và kết luận “Chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan thiếu
tinh thần trách nhiệm để xảy ra hành vi vi pham như trên”.
- Ngày 10/3/2014, ông Trần Ngọc Minh (PGĐ- kiêm Chánh thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai) đã ban hành Quyết định số 23/QĐ-XP xử
phạt bà Nguyễn Thị Tuyết với mức tiền phạt là 15.000.000 đồng (Bằng chữ: Mười
lăm triệu đồng chẵn) với lý do đã có hành vi vi phạm hành chính: “Thiếu tinh thần
trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện
về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm”.
- Ngày 18/3/2014, Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch có cơng văn
đính chính lại Quyết định số 23/QĐ-XP.
- Ngày 24/3/2014, bà Nguyễn Thị Tuyết làm đơn khiếu nại gửi tới Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai yêu cầu hủy Quyết định số 23/QĐ-XP ngày
10/3/2014.
- Ngày 20/4/2014, Thanh tra Sở ban hành Quyết định số 01/QĐ-TTr về việc
giải quyết đơn khiếu nại xử phạt vi phạm hành chính vẫn giữ nguyên quyết định xử
phạt hành chính số 23/QĐ-XP đối với bà Nguyễn Thị Tuyết.
- Ngày 02/5/2014, bà Nguyễn thị Tuyết khởi kiện vụ án hành chính u cầu
Tịa hủy Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL.
- Ngày 10/9/2014, Tòa án nhân dân Tỉnh Gia Lai ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử.
2. Yêu cầu của người khởi kiện:
- Bà Nguyễn Thị Tuyết yêu cầu Tòa án giải quyết là tuyên chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện :
+ Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể
thao, du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh G.L.
1
3. các vấn đề chung về tố tụng:
3.1. Tư cách đương sự:
- Người khởi kiện:
+ Bà Nguyễn Thị Tuyết; sinh năm: 1982; địa chỉ: 241 Lê Lai, tổ 9, phường
Đông Lân, thành phố P, tỉnh G.L.
+ Người đại diện theo ủy quyền: ông Mai Anh Tuấn; địa chỉ: 33 đường Minh
Khai, thành phố P, tỉnh G.L.
- Người bị kiện:
+ Ông Trần Ngọc Minh, Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh G.L. Địa chỉ: số 06 Trần Hưng Đạo, thành phố P, tỉnh G.L.
+ Người đại diện theo ủy quyền: ơng Dương Văn Thành, Phó Chánh Thanh
tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
- Người làm chứng:
+ Anh Nguyễn Văn Thường – Công tác tại Trung đoàn X-GL.
+ Chị Nguyễn Thị Lành
+ Anh Phan Văn – Địa chỉ: số nhà 03 Trần Bình Trọng, thành phố K.
+ Chị Nguyễn Thị Thùy – Địa chỉ: xã Vinh Quang, tỉnh K.
3.2. Đối tượng khởi kiện:
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao,
du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
G.L.
3.3. Thẩm quyền Tòa án:
Tòa án nhân dân tỉnh G.L thụ lý vụ án phù hợp theo quy định, đúng thẩm
quyền.
II. KẾ HOẠCH XÉT HỎI CỦA LUẬT SƯ
Mục đích hỏi để là sáng tỏ các sự việc, đồng thời chứng minh yêu cầu trong
đơn khởi kiện của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.
1. Hỏi người bị kiện:
(1) Trong Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 có
bỏ trống nhiều nội dung và khong có chữ ký của một số người trong đồn kiểm tra,
ơng giải thích thế nào về việc này?
(2) Việc đoàn kiểm tra thấy người khác giới thuê phòng trọ, căn cứ nào cho
rằng họ có hành vi mại dâm?
(3) Dựa theo căn cứ nào để đoàn kiểm tra cho rằng hai người khác giới th
phịng trọ phải có đăng ký kết hơn?
(4) Ơng cho biết như thế nào thì được xem là tổ chức hoạt động mại dâm theo
pháp luật hiện hành?
2
(5) Ơng giải thích như thế nào về việc bỏ trống ngày tháng tại điều 2 và điều 3
trong Quyết định số 23/QĐ-XPHC ? Việc bỏ trống yếu tố ngày tháng có làm mất
đi tính hiệu lực của Quyết định này không?
(6) Thẩm quyền xử phạt của Chánh thanh tra trong Quyết định số 23/QĐXPHC có đảm bảo đúng quy định của pháp luật hay không?
2. Hỏi người khởi kiện:
(1) Bà cho biết trong q trình kinh doanh bà có thực hiện đầy đủ các yêu cầu
khi tiến hành cho khách th phịng khơng?
(2) Bà cho biết Chánh thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch đến cơ sở kinh
doanh của bà để kiểm tra, thanh tra về vấn đề gì khơng?
(3) Cơ quan thanh tra có văn bản thông báo hay giấy mời nào gửi tới bà khi
gọi bà tới làm việc không?
(4) Bà nhận được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC
vào ngày tháng năm nào? Bà nhận được quyết định này từ ai?
III. Luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN LUẬN CỨ
Kính thưa:
Hội đồng xét xử,
Thưa đại diện Viện kiểm sát nhân dân,
Thưa tồn thể q vị có mặt tại phiên tịa ngày hơm nay.
Tơi là Luật sư A thuộc Văn phịng luật sư KH, Đồn luật sư thành phố Hà
Nội, có mặt tại phiên tịa hơm nay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà
Nguyễn Thị Tuyết là người khởi kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh G.L và được sự chấp thuận của Q tịa, chúng tơi có mặt tại phiên tịa hơm
nay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và căn cứ vào diễn biến tại phiên tịa hơm nay, tơi
xin trình bày quan điểm của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khởi kiện là bà Nguyễn Thị Tuyết như sau:
Trước hết, đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính này là Quyết định xử
phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đối với bà Nguyễn Thị Tuyết đã làm ảnh
3
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Tuyết. Theo quy
định tại Khoản 1 Điều 30 và Điểm k Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính,
khiếu kiện này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án nhân dân tỉnh G.L. Bên
cạnh đó, theo quy định tại điểm a, khoản 3, điều 116 Luật tố tụng hành chính và
điểm a, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 02 thì việc khởi kiện của bà Nguyễn thị Tuyết
được thực hiện trong thời hiệu khởi kiện. Do vậy, phiên tịa ngày hơm nay diễn ra
là có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn.
Kính thưa Hội đồng xét xử! Việc bà Nguyễn Thị Tuyết yêu cầu hủy toàn bộ
Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh G.L là hồn tồn có căn cứ, được thể hiện ở các nội dung sau:
1. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Quyết định số 23 xử phạt về hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra
hoạt động mua dâm, bán dâm theo quy định tại khoản 1 Điều 25, thuộc Mục 2
Chương II Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, Điều 69 Nghị định
167/2013/NĐ-CP quy định Thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch có thẩm
quyền xử phạt theo quy định đối với những hành vi quy định tại Mục 4 Chương II.
Như vậy, theo quy định tại Điều 69 nêu trên, Thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du
lịch khơng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đã nêu trong
Quyết định 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014.
2. Về trình tự thủ tục:
Thứ nhất, Quyết định số 23/QĐ-XP đã vi phạm thời hạn ra quyết định xử
phạt. Ngày 23/12/2013, cơ quan thanh tra lập biên bản vi phạm hành chính nhưng
đến ngày 10/03/2014 mới ra quyết định xử phạt.Thời gian từ khi lập biên bản đến
khi ra quyết định xử phạt là 77 ngày. Điều này đã vi phạm quy định tại Khoản 1
Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Thứ hai, Biên bản 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 khơng ghi đầy đủ thông
tin, cụ thể: Không ghi thông tin của người chứng kiến, thông tin về người xử phạt
không đầy đủ (khơng có giấy CMND, thơng có thơng tin giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh), không ghi cụ thể căn cứ xử phạt.Một biên bản với những vi phạm về
hình thức và nội dung như vậy khơng thể được sử dụng làm căn cứ để ban hành ra
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính được.
3. Về nội dung quyết định xử phạt:
Thứ nhất, bà Nguyễn Thị Tuyết không có hành vi vi phạm hành chính:
“Thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh
doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” như nêu
trong Quyết định số 23/QĐ-XPHC.
4
Đầu tiên, có thể khẳng định hồn tồn khơng có hoạt động mại dâm diễn ra tại
cơ sở kinh doanh của bà Nguyễn Thị Tuyết. Bởi lẽ, nếu có hoạt động mại dâm thì
đồn thanh tra phải lập biên bản vi phạm hành chính đối với các đối tượng thực
hiện hành vi mua, bán dâm. Tuy nhiên, đoàn thanh tra lại chỉ lập biên bản vi phạm
hành chính đối với bà Nguyễn thị Tuyết
Ngoài ra, trong biên bản xử phạt vi phạm bà Nguyễn thị Tuyết cũng khơng có
bất cứ nội dung nào ghi hoặc thể hiện rằng tại cơ sở kinh doanh của thân chủ tôi
diễn ra hoạt động mại dâm. Kết luận của biên bản có ghi rằng “Chủ cơ sở nhà trọ
Hoàng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hành vi vi phạm” mà không nêu
rõ vi phạm gì. Chính vì vậy đã gây ra sự nhầm lẫn và bà Nguyễn thị Tuyết đã ký
biên bản mà khơng có ý kiến phản đối gì.
Như vậy, Quyết định số 23/QĐ-XP căn cứ trên biên bản só 11/BB-VPHC nêu
rằng bà Nguyễn Thị Tuyết đã có hành vi vi phạm hành chính: “thiếu tinh thần trách
nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an
ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” là khơng có cơ sở pháp lý và không
phản ánh đúng sự thật khách quan.
Thứ hai, Quyết định số 23/QĐ-XP áp dụng Nghị định số 167/2013/NĐ-CP
để xử phạt hành vi vi phạm xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực gây bất lợi
cho người vi phạm là không đúng theo quy định của pháp luật.
Nghị định 167/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28/12/2013 (theo
Khoản 1 Điều 72 Nghị định này). Ngày lập Biên bản số 11/BB-VPHC là ngày
23/12/2013, vậy tại thời điểm lập biên bản này Nghị định 167/2013/NĐ-CP chưa
có hiệu lực.
Khoản 1 Điều 73 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định như sau: “Đối với
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng,
chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phịng, chống bạo lực gia đình xảy
ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang
xem xét, giải quyết, thì áp dụng các quy định có lợi cho cá nhân, tổ chức vi phạm”.
Liên quan tới trường hợp này, việc áp dụng các quy định tại Khoản 1 Điều 25
Nghị định 167/2013/NĐ-CP sẽ khơng có lợi cho bà Nguyễn thị Tuyết so với việc
áp dụng khoản 2 Điều 20 Nghị định 178/2004/NĐ-CP (là các quy định đã được
thay thế bởi Nghị định 167). Cụ thể:Khoản 2 Điều 20 Nghị định 178/2004/NĐ-CP
quy định “Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với người đứng
đầu cơ sở kinh doanh dịch vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm để hoạt động mại
dâm xảy ra ở cơ sở do mình quản lý mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình
sự”. Trong khi đó, Khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP lại quy định
“Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người đứng đầu cơ sở
5
kinh doanh dịch vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua dâm,
bán dâm ở cơ sở do mình quản lý”. Có thể thấy mức xử phạt đối với hành vi tương
ứng quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP cao hơn so với Nghị định
178/2004/NĐ-CP. Như vậy việc áp dụng quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP
trong trường hợp này sẽ làm tăng trách nhiệm hành chính và khơng có lợi cho
người vi phạm. Điều này trái với nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố nói chung và
trái với quy định nêu trên tại khoản 1 Điều 73 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP nói
riêng.
Thứ ba, Quyết định số 23/QĐ-XP có nội dung khơng đầy đủ và khơng phù
hợp với quy định của pháp luật.
Trước tiên, Quyết định số 23/QĐ-XP khơng xác định ngày có hiệu lực thi
hành. Hơn nữa, ngày giao theo Điều 3 của Quyết định xử phạt là “trong thời hạn 3
ngày” nhưng không rõ là 3 ngày kể từ ngày nào. Nếu hiểu là 3 ngày kể từ ngày ra
quyết định thì quy định như vậy là trái với quy định tại Điều 70 Luật xử lý vi phạm
hành chính: “Trong thời hạn 2 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính có lập biên bản, người có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt
phải gửi cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cơ quan thu tiền phạt và cơ quan liên
quan khác (nếu có) để thi hành”. Như vậy nội dung nêu trên của quyết định khơng
phù hợp với quy định của pháp luật.
Tóm lại, từ các phân tích và căn cứ nêu trên có thể thấy Quyết định số 23/QĐXP ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L
là hồn tồn trái pháp luật, khơng có căn cứ pháp lý và cơ sở thực tế.
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Kính thưa vị đại diện Viện Kiểm sát!
Vì tất cả các lẽ trên, chúng tơi kính đề nghị HDXX xem xét chấp thuận yêu
cầu khởi kiện của thân chủ chúng tơi:
- Tun hủy tồn bộ Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh
thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh;
Trân trọng cám ơn HĐXX và những người trong phòng xử án đã chú ý lắng
nghe.
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2022
Luật sư
A
6