Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

DỰ TRỮ bắt BUỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.57 KB, 38 trang )

BÀI THẢO LUẬN
Môn: Ngân hàng trung ương.
Đề tài: TRÌNH BÀY PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ
DỰ TRỮ BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM.

Hà Nội, năm 2014.
1
Lời mở đầu:
Để có thể thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng thông qua việc cung ứng tiền
và điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, NH Trung ương (NHTW) các nước có
thể sử dụng các công cụ khác nhau: lãi suất, chính sách chiết khấu, thị trường mở
Trong đó, DTBB là công cụ nhận được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu, các nhà hoạch định chính sách - họ đã tốn không ít giấy mực để nói về dự trữ
bắt buộc. Làm thế nào để quản lý tốt công cụ dự trữ bắt buộc? Trong nền kinh tế
đang suy thoái, Việt Nam đã làm gì và sử dụng phương pháp quản lý là gì đểđiều
hành CSTT phục vụ cho nhiệm vụ điều tiết nền kinh tế ở VN. Nhận thức đây là đề
tài lớn, có tính chất quan trọng, và cấp thiết, từ những tư liệutham khảo và sưu tầm
được trên tạp chí và mạng internet, Chúng em chọn đề tài : '' PHƯƠNG PHÁP
QUẢN LÝ DỰ TRỮ BẮT BUỘC TẠI VIỆT NAM''.Trong bài viết này, chúng em
chỉ nghiên cứu mang tính lý thuyết ở các góc cạnh khác nhau của DTBB và từ đó
nhìn nhận lại sự điều hành chính sách tiền tệ của NHNN thông qua công cụ dự trữ
bắt buộc thời gian qua. Hy vọng đây là nguồn tham khảo cho những ai quan tâm
đến vấn đề này.
2
Mục lục: Trang
I.Khái quát về Dự trữ bắt buộc ở Việt Nam.
1.Lịch sử hình thành và phát triển DTBB…………….4
2.Vai trò của DTBB………………………………… 5
II. Phương pháp quản lý DTBB ở Việt Nam.
1.Đối tượng thực hiện DTBB ……………………… 6
2.Cơ sở xác định DTBB…………………………… 6


3.Căn cứ xác định tỷ lệ DTBB …………………… 8
4.Cách xác định DTBB…………………………… 11
5. Phương pháp quản lý DTBB ở Việt Nam………… 12
III.Thực Trạng của thay đổi DTBB từ năm 2006 đến nay……… 16
3
I.Khái quát về Dự trữ bắt buộc ở Việt Nam.
1.Lịch sử hình thành và phát triển của DTBB.
Từ thời nguyên thủy của hoạt động ngân hàng, khi chưa có Ngân hàng trung
ương cũng như chưa có bất kỳ sự quản lý hành chính nào khác, các chủ ngân hàng
tư nhân thời ấy đã tự ý thức được ngân hàng của mình muốn tồn tại phải tạo được
niềm tin đối với khách hàng. Trong trường hợp ngân hàng không thanh toán kịp
thời cho khách hàng, người gửi tiền sẽ lo ngại cho số tiền của họ gửi ở ngân hàng
và điều tất yếu là họ sẽ ồ ạt đến rút tiền. Do vậy, để duy trì niềm tin của người gửi
tiền các chủ ngân hàng đều có một khoản tiền mặt để phòng ngừa và từ đo có khái
niềm “ tiền mặt dự trữ” được hình thành. Cho đến hết thế kỉ 19, việc dự trữ tiền
mặt này là hoàn toàn tự nguyện. Việc được tự do dự trữ tiền mặt này tạo điều kiện
cho ngân hàng lạm dụng cho vay quá nhiều, để lại dự trữ quá ít. Điều này dẫn đến
cuộc khủng hoảng tài chính năm 1907 tại Mỹ với làn sóng ồ ạt đòi rút tiền, kéo
theo sự đổ vỡ của hàng trăm ngân hàng. Bối cảnh đó đặt ra cho nước Mỹ sự cần
thiết phải có một phương thức mới về quản lý dự trữ nhằm ngăn chặn nguy cơ xảy
ra các cuộc hoảng loạn về tài chính. Cho đến năm 1913, phương thức đó được hình
thành bởi luật dự trữ liên bang Hoa Kỳ. Luật đã khai sinh ra Hệ thống dự trữ Liên
bang Mỹ như một ngân hàng Trung Ương và giao cho hệ thống này quyền được áp
đặt tỷ lệ dự trữbắt buộc tối thiểu mà các ngân hàng trung gian phải để lại trên tổng
tiền gửi huy động của chủ thể phi ngân hàng. Thuật ngữ dự trữ bắt buộc hay tỷ lệ
dự trữ bắt buộc ra đời từ đó.
Phương thức này nhanh chóng được áp dụng tại New Zealand, Mexico năm
1936; Thụy Điển, Ecuado, Costarica năm 1937, Venezuela năm 1940, Australia,
Tây Đức năm 1948; Hàn Quốc năm 1950; Nam phi năm 1956…
Tại Việt Nam, mặc dù lịch sử ra đời của dự trữ bắt buộc là từ những năm đầu

của thế kỷ 20, song ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chỉ làm quen
với khái niệm này vào năm 1990.Tháng 5/1990, sau khi “Pháp lệnh Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) Việt Nam”, “Pháp lệnh Ngân hàng, các hợp tác xã tín dụng
và công ty tài chính” được ban hành thì các NHTMViệt Nam mới bắt đầu thực
hiện các quy định về dự trữ bắt buộc.
2.Khái niệm.
Dự trữ bắt buộc là một phần số dư tiền gửi cácloạimà các ngân hàng thương
mại (NHTM) phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửitại NHTƯ.Trong hoạt
động kinh doanh của mình, các NHTM sử dụng các khoản tiền gửicủa khách hàng
để cho vay hoặc đầu tư một cách khá linh hoạt. Nếu như các khoản chovay đều có
thời hạn, một ngày hay cho vay qua đêm cũng đều có thời hạn, thậm chí thờihạn có
thể còn kéo dài hơn dự kiến vì đến hạn thu nợ, có thể ngân hàng vẫn không
4
thuđược nợ .Trong khi đó, đối với nguồn tiền gửi của khách hàng thì các ngân
hàng lại rất khókhăn trong việc kiểm soát thời hạn, ngay cả khi gửi tiết kiệm có kỳ
hạn thì khách hàng gửitiền vẫn có thể rút tiền trước khi đến hạn; tình trạng tiền cho
vay ra chưa thu hồi về nhưngkhách hàng gửi tiền lại có nhu cầu rút tiền trước hạn
là hiện tượng thường xuyên xảy ra.
Điều nàycho thấy rủi ro thanh khoản luôn là mối lo của các NHTM. Mặt
khác, trên thực tế thời hạncho vay còn dài hơn thời hạn của nguồn tiền gửi, nói
khác đi là kỳ hạn gửi tiền của mỗiloại tiền gửi không phải lúc nào cũng là cơ sở để
xem xét và quyết định thời hạn cho vay,mà ngân hàng có thể khai thác tính ổn định
tương đối của tổng số dư tiền gửi không kỳ hạnđể cho vay có thời hạn, dùng nguồn
tiền gửi thời hạn ngắn để cho vay với thời hạn dàihơn nên nguy cơ rủi ro cao
hơn.
Khi rủi ro thanh khoản xảy ra, ngân hàng mất khả năngthanh toán - các khoản
tiền gửi ở các ngân hàng sẽ nhanh chóng “bay hơi”, không nhữngthế nó còn làm
“bay hơi” giá trị tài sản và các khoản dự trữ của ngân hàng đó và theo phảnứng dây
chuyền thì rủi ro này sẽ làm chấn động toàn hệ thống ngân hàng. Vì thế, như
mộtkết quả cần phải có, các nhà phân tích đã chỉ ra rằng các NHTM phải để dự trữ

bắt buộc vìđây chính là kho dự trữ lỏng để trợ giúp cho các ngân hàng trong thời
kỳ hoảng loạn.
3.Vai trò của DTBB
3.1. Bình ổn lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng.
Chức năng bình ổn lãi suất của dự trữ bắt buộc được thực hiện thông qua lượng dự
phòng trung bình.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý dự trữ bắt buộc theo nguyên tắc bình quân, các
ngân hàng sẽ lập một mức dự trữ phù hợp dưới hình thức mức dự phòng trung
bình. Mức dự trữ này sẽ được quyết định trên cơ sở mức dự trữ trung bình hàng
ngày của 1 ngân hàng và được lập cho thời hạn 1 tháng hoặc 1 tuần, 2 tuần… các
ngân hàng có thể dự trữ“ trước” hoặc “sau” tùy theo tình hình ngân quỹ, tùy theo
mức độ chi phí tiền gửi ngày và tùy theo dự báo tăng hay giảm lãi suất trên thị
trường tiền tệ, sự thiếu cân bằng tức thời về nhu cầu tiền mặt cho chi trả có thể
được các ngân hàng bù đắp vào kì duy trì một lượng trong phần dự phòng mà
không cần phải đi vay, giảm áp lực đối với lãi suất thị trường.
3.2.Điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng.
Sự đòi hỏi có dự trữ bắt buộc đã làm tăng nhu cầu vốn khả dụng của các ngân
5
hàng, từ đó đã hình thành chức năng điều tiết vốn khả dụng của DTBB.
Để tối đa hóa hiệu quả của dự trữ bắt buộctrong chức năng này, các nhà chức trách
điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc và khoảng thời gian của kì duy trì để sao cho hệ
thống ngân hàng luôn trong tình trạng thiếu hụt dự trữ ròng phải phụ thuộc vào
ngân hàng trung ương, từ đó đảm bảo cân bằng tài chính. Hiện nay, chỉ có duy nhất
Hà Lanlà quốc gia sử dụng chức năng này.
3.3.Kiểm soát sự tăng trưởng tiền tệ.
Trong điều kiện các công cụ gián tiếp, trực tiếp khác không có hiệu quả, chức năng
trên được gọi là chức năng thiết yếu của dự trữ bắt buộc. Chức năng này giúp ngân
hàng trung ương kiểm soát được khối lượng tiền có thể phát hành séc (tiền gửi
không kỳ hạn) mà các ngân hàng có thể tạo ra.Bằng cách áp đặt những đòi hỏi dự
trữ theo pháp luật cao, Ngân hàng Trung ương có thể hạn chế mức tăng của tiền

gửi có thể phát hành séc như mong muốn.
3.4.Tạo thu nhập cho Ngân hàng Trung ương:
Vì tiền gửi dự trữ bắt buộc không được trả lãi, hoặc được trả lãi tháp hơn lãi
suất cho các ngân hàng vay nên nó đã tạo cho NHTW có nguồn thu. Nguồn thu từ
dự trữ bắt buộc của ngân hàng TW có thể được dung để bù đắp cho chi phí của
việc phát hành tiền.
II. Phương pháp quản lý Dự Trữ bắt buộc ở Việt Nam.
1.Đối tượng thi hành quy chế dự trữ bắt buộc (DTBB) là các tổ chức tín dụng được
thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh.
- Ngân hàng đầu tư và phát triển.
- Ngân hàng thương mại cổ phần.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam.
- Công ty tài chính.
6
2. Cơ sở xác định DTBB.
a. Đối với VND.
Cơ sở xác định DTBB bằng VND là tiền gửi hoặc có tính chất tiền gửi thể
hiện trên bảng cân đối tài khoản kế toán tổng hợp của TCTD (gồm hoạt động của
trung tâm, các hội sở và các chi nhánh trực thuộc).
Các loại tiền gửi và có tính chất tiền gửi sau đây là căn cứ để tính DTBB:
- Tiền gửi kho bạc Nhà nước.
- Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn đến 12 tháng( kể cả tiền gửi của
công ty Vàng bạc và Đá quý).
- Tiền gửi vốn chuyên dùng.
- Tiền gửi của các tổ chức và người nước ngoài.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn đến 12 tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, phát hành trái phiếu các

loại có kỳ hạn đến 12 tháng.
- Tiền quản lý và giữ hộ.
Cụ thể gồm các tài khoản: 2121, 3611, 3612, 3613, 3614, 3711, 3712, 3719,
441, 442, 449, 381.
b. Đối với ngoại tệ.
Cơ sở xác định DTBB bằng ngoại tệ là tiền gửi hoặc có tính chất tiền gửi, thể hiện
trên bảng cân đối tài khoản kế toán tổng hợp của TCTD, cụ thể gồm các tài khoản
kế toán: 207, 2122, 3621, 3622, 3623, 3624, 3721, 3722, 441, 442, 449.
- Tiền gửi của NHNN bằng ngoại tệ.
- Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước bằng ngoại tệ.
- Tiền gửi không kỳ hạn bằng ngoại tệ, tiền gửi có kỳ hạn đến 12 tháng bằng
ngoại tệ.
- Tiền gửi vốn chuyên dùng bằng ngoại tệ.
- Tiền gửi của các tổ chức và người nước ngoài bằng ngoại tệ.
7
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn bằng ngoại tệ, tiết kiệm có kỳ hạn đến 12
tháng bằng ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, phát hành các loại trái
phiếu khác bằng ngoại tệ có kỳ hạn đến 12 tháng.
Tiền gửi ngoại tệ làm cơ sở tính DTBB các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi,
được quy thành USD và thực hiện DTBB bằng USD.
3. Căn cứ xác định tỷ lệ DTBB mà NHNN Việt Nam đang áp dụng,
Cơ sở xác định dự trữ bắt buộc:
NHTƯ các nước thường sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong vai trò là công cụ
điều hành chính sách tiền tệ, giúp NHTƯ kiểm soát hệ số nhân tiền và trên cơ sở
đó kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, do đó, tùy vào mục tiêu chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau. Điều này
được chứng minh rất rõ ở nước ta trong thời gian qua:
Bảng 01: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam từ tháng
01/2008- 01/2011

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (VND) Văn Bản
11%(1)- 5%(2)
187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008
10%(1)- 4%(2)
2560/QĐ-NHNN ngày
03/11/2008
8%(1)- 2%(2)
2811/QĐ-NHNN ngày
20/11/2008
6%(1)- 2%(2) 2951/QĐ-NHNN ngày
03/12/2008
5%(1)- 1%(2)
3158/QĐ-NHNN ngày
19/12/2008
3%(1) - 1%(2) 379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009
(1): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng
(2): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên
8
Nguồn:
Bảng 01 cho thấy từ tháng 01/2008 - 01/2011 đến nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
được điều chỉnh giảm, việc điều chỉnh này của NHNN, một mặt, nhằm đưa ra tín
hiệu nới lỏng tiền tệ; mặt khác, thông qua việc nâng cao hệ số nhân tiền chính thức
mở rộng khả năng cho vay, kích thích các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt
động tín dụng, tích cực cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Ngày nay, khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc, nghĩa là, NHTƯ đang muốn
điều chỉnh hệ số nhân tiền, mặc dù vậy nhưng mục tiêu đảm bảo khả năng thanh
khoản cho ngân hàng của dự trữ bắt buộc vẫn không bị mất đi ý nghĩa của nó,
không những thế, nó còn là cơ sở để xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Những căn cứ cụ thể sau thường được sử dụng để đưa ra yêu cầu về tỷ lệ
dự trữ bắt buộc:

- Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi - tùy vào tính chất kỳ hạn của tiền
gửi mà nghĩa vụ dự trữ bắt buộc khác nhau; thông thường kỳ hạn càng dài thì mức
độ ổn định càng cao và độ rủi ro thanh khoản càng thấp và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với loại tiền gửi này thường thấp hơn so với loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn
hơn.
- Mức độ của các khoản nợ - quy mô của các nguồn tiền gửi. Thông thường
quy mô của các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao và vì thế, tỷ
lệ dự trữ bắt buộc sẽ tỷ lệ thuận với quy mô nguồn tiền gửi. Về điều này, ta có thể
tham khảo yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc của FED.
- Loại tiền gửi khác nhau cũng chứa đựng khả năng an toàn thanh khoản khác
nhau nên NHTƯ có thể quy định tỷ lệ khác nhau cho tiền gửi của các đồng tiền
khác nhau (Xem bảng 02).
Bảng 02: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định 379 và Quyết định 79.
Loại hình tổ
chức tín dụng
379/QĐ-NHNN 79QĐ-NHNN
Tiền
gửi VND
không kỳ
hạn và dưới
12 tháng.
Tiền
gửi VND từ
12-24 tháng
Tiền
gửi ngoại tệ
không kỳ
hạn và dưới
12 tháng
Tiền

gửi ngoại tệ
từ 12-24
tháng
1. NHTM nhà
nước, NHTMCP đô
3% 1% 4% 2%
9
thị , chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, ngân
hàng liên doanh, công
ty cho thuê tài chính.
2. Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt
Nam.
1% 1% 3% 1%
3. NHTMCP
nông thôn, ngân hàng
hợp tác, quỹ tín dụng
nhân dân.
1% 1% 3% 1%
4. Tổ chức tín
dụng khác.
0% 0% 0% 0%
Nguồn:
Ở nước ta, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính chất kỳ
hạn, loại tiền gửi và thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ
phải duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn.
Ngoài ra, tỷ lệ DTBB còn có thể quy định tùy theo quy mô và mức độ an toàn
chung của mỗi ngân hàng. Hơn nữa, sự khác biệt về tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa các

ngân hàng cũng được quan tâm. Theo quy định tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN
áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng
từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ) thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định như sau:
Để khuyến khích một số NHTM cho vay nông nghiệp và nông thôn ngày
08/12/2010, NHNN đã ban hành các thông báo số 457; 458; 459; 460; 461 về việc
áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng có tỷ trọng cho vay nông
nghiệp và nông thôn cao theo Thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010 của
NHNN. Theo đó, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc bằng 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường; Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Việt Nam, NHTM cổ phần Quốc Tế Việt Nam, NHTM cổ
phần Kiên Long, NHTM cổ phần Mê Kông được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
bằng 1/5 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường. (www.sbv.gov.vn). Với quy
10
định này NHNN đã bổ sung thêm một cơ sở mới cho việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn tùy thuộc vào đối tượng đầu tư của các
NHTM.
4. Cách xác định dự trữ bắt buộc.
Về nguyên tắc, dự trữ bắt buộc được tính như sau:
Mức dự trứ bắt buộc = tỷ lệ dự trữ bắt buộc x số dư bình quân tài khoản
thuộc đối tương dự trữ bắt buộc kỳ xác định.
Trong đó, số dư bình quân tài khoản thuộc đối tượng dự trữ bắt buộc kỳ xác
định = Tổng số dư cuối ngày của các tài khoản phải dự trữ bắt buộc (kỳ xác
định) / số ngày trong kỳ.
Kỳ xác định dự trữ bắt buộc là kỳ( số ngày) được sử dụng để tính số tiền
phải DTBB ở kỳ duy trì.
Kỳ duy trì dự trữ bắt buộc là kỳ phải thực hiện DTBB (khoảng thời gian mà
đối tượng thực hiện dự trữ bắt buộc thực hiện theo mức đã được tính toán vào cuối
kỳ xác định).
VÍ DỤ VỀ TÍNH DỰ TRỮ BẮT BUỘC, DỰ TRỮ THỰC TẾ
Về cách tính dự trữ bắt buộc và dự trữ thực tế:

Ví dụ đối với kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 1/2013:
Kỳ xác định dự trữ bắt buộc: từ đầu ngày 1/12/2012 đến cuối
ngày 31/12/2012.
Kỳ duy trì dự trữ bắt buộc: từ đầu ngày 1/1/2013 đến cuối ngày 31/1/2013.
Cách tính dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 1/2013:
Tỉ lệ DTBB của từng loại tiền gửi trong kì duy trì DTBB tháng 1/2013


= X
11
Tỉ lệ DTBB của
từng loại tiền
gửi trong kì duy
trì DTBB tháng
1/2013
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
tương ứng của từng loại
tiền gửi của tổ chức tín
dụng.
Số dư tiền gửi huy động
bình quân từ ngày
1/12/2012 đến ngày
31/12/2012 của từng loại
tiền gửi phải DTBB.
Cách tính số dư tiền gửi huy động bình quân trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc:

Số dư tiền gửi huy
động bình quân

=

Tổng số dư cuối ngày của tài khoản tiền
gửi huy động từ ngày 1 đến 31/12/2012

31
Cách tính dự trữ thực tế trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 1/2013


Dự
trữ
thực
tế


=
Tổng số dư cuối ngày của tài khoản tiền gửi
thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà
nước từ ngày 1 đến 31/1/2013

31
5.Quản lý dự trữ bắt buộc theo phương pháp nối tiếp.
Có nhiều phương pháp quản lý dự trữ bắt buộc. Căn cứ vào mức độ chênh
lệch về thời gian giữa kỳ xác định và kỳ duy trì, có thể phân chia các phương pháp
này thành ba loại:
12
• Phương pháp nối tiếp: Đây là phương pháp mà kỳ xác định và kỳ duy trì nối tiếp
nhau( ngày đầu tiên của kì duy trì trùng với ngày cuối cùng của kỳ xác định).
• Phương pháp trùng nhau một phần: Kỳ duy trì và kỳ xác định trùng nhau một phần
(ngày cuối cùng của kỳ xác định trùng với ngày giữa của kỳ duy trì).
Đây là phương pháp được phần lớn các nước sử dụng: Nhật Bản, Hàn Quốc,
Sinapore…Với cách quản lý này , đối tượng thuộc diện phải dự trữ bắt buộc luôn

quan tâm đến dự trữ bắt buộc, không sử dụng quá mức dự trữ có được. Vì vậy, số
dư tiền gửi để tính dự trữ bắt buộc cũng như lãi suất thị trường ít biến động hơn.
Hiệu quả của phương pháp này cao hơn phương pháp nối tiếp.
• Phương pháp trùng nhau hoàn toàn: Kỳ duy trì và kỳ xác định trùng nhau hoàn
toàn( ngày cuối cùng của kỳ xác đinh trùng với ngày cuối cùng của kỳ duy trì).
Phương pháp này phát huy được hiệu quả cao nhất so với 2 phương pháp trên vì nó
buộc đối tượng chịu sự quản lý về dự trữ bắt buộc phải chủ động duy trì dự trữ ở
một mức nào đó mà không thể tuỳ ý sử dụng dự trữ vì các mục tiêu khác nhau của
mình. Khi kỳ duy trì và kỳ xác định càng trùng nhau thì tính hiệu quả của việc điều
hành DTBB càng tăng lên và làm giảm tác động gây biến động lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng. Do đó hiệu quả của công cụ DTBB phát huy cao nhất khi
kỳ duy trì và kỳ xác định trùng nhau hoàn toàn, đồng thời các NHTM sẽ mất tính
chủ động trong việc sử dụng dự trữ của mình.
Vậy, Việt Nam lựa chọn quản lý DTBB theo phương pháp nào???
Trong các văn bản luật quy định về DTBB ở Việt Nam không nói rõ hay không hề
đề cập đến tên, loại phương pháp quản lý DTBB mà Việt Nam đang áp dụng; tuy
nhiên qua các đặc điểm về cách xác định DTBB, quy định về kì duy trì, kỳ xác
định có thể thấy hiện nay, nước ta đang áp dụng cách tính DTBB theo phương
pháp nối tiếp.
Phương pháp nối tiếp.
13
Mức độ hiệu quả của công cụ DTBB phụ thuộc vào độ dài của kỳ duy
trì, kỳ xác định. Độ dài càng ngắn thì hiệu quả càng cao vì trong thời gian ngắn, sự
biến động của số dư tài khoản không lớn, do đó, ít gây biến động đến thị trường
liên ngân hàng. Tùy theo quy định của từng nước mà độ dài có thể là 1 tuần,
2 tuần hoặc 1 tháng…Ở Việt Nam quy định là 1 tháng.
Đặc điểm của phương pháp nối tiếp.
- Đối với các TCTD: đối tượng phải dự trữ bắt buộc hoàn toàn chủ động trong việc
sử dụng dữ trữ vì vào đầu kỳ đã biết được mức dự trữ bắt buộc phải thực hiện
trong kỳ, giảm được chi phí khi thực hiện dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, số dư tiền

gửi để tính dự trữ bắt buộc biến động không ngừng và do vậy việc sử dụng dự trữ
bắt buộc để kiểm soát khả năng cho vay ít có tác dụng. Lãi suất ngắn hạn có thể
biến động lớn hay bất ổn trên thị trường tiền tệ. Hơn nữa, nếu tính toán không tốt
sẽ phải chấp nhận lãi suất cao tại thời điểm phải đảm bảo dự trữ bắt buộc dẫn tới
lợi nhuận bị ảnh hưởng.
- Đối với NHNN: cách xác định và tính toán sẽ đơn giản hơn tuy nhiên công cụ dự
trữ bắt buộc không thể kiểm soát được khả năng cho vay của các đối tượng phải dự
trữ, dễ dẫn đến hiệu quả quản lý là không tốt tác động tới CSTT của NHNN đồng
thời bằng việc sử dụng phương pháp này nó còn giúp cho NHTW có thể dự báo
được chính xác hay chắc chắn nhất về cầu của DTBB.
Mục đích hay tác động của dự trữ bắt buộc
- Dự trữ bắt buộc và tiềm năng tín dụng của các ngân hàng
Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả dụng
của mỗi ngân hàng. Với tổng số nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc càng thấp thì phần chênh lệch còn lại - vốn khả dụng của bản thân ngân hàng
này càng cao, khả năng cho vay ra của ngân hàng càng lớn và ngược lại. Bên cạnh
đó, mỗi động tác cấp tín dụng cho một đối tượng nào đó thông qua chuyển khoản
của ngân hàng - hoạt động này mở ra một nguồn vốn mới cho một ngân hàng kế
tiếp, sự tiếp tục của quá trình này chính là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân
hàng làm cho tổng nguồn có thể cho vay của toàn hệ thống được nhân lên nhiều lần
14
so với số tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là hệ số nhân tiền. Qua đó
cho thấy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn khả dụng của hệ
thống ngân hàng. Tuy nhiên, vốn khả dụng chỉ thể hiện được tiềm năng tín dụng,
còn thực sự nó có làm cho khối lượng tín dụng tăng lên hay không lại phụ thuộc
vào thái độ sẵn sàng cấp tín dụng của các ngân hàng và nhu cầu tín dụng của nền
kinh tế.
- Dự trữ bắt buộc và lãi suất
Dự trữ bắt buộc có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách:
Thứ nhất, do dự trữ bắt buộc có thể thu mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng

cho nên lãi suất thị trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống hoặc tăng lên.
Thứ hai, hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần dự trữ bắt buộc của các
ngân hàng ở NHTW không được tính lãi hoặc mức lãi không đáng kể. Khi dự trữ
bắt buộc tăng lên thì lãi thu được từ hoạt động cho vay giảm xuống làm giảm lợi
nhuận của các NHTM. Điều này được các ngân hàng khắc phục bằng cách điều
chỉnh tăng lãi suất cho vay trên thị trường tín dụng.
- Dự trữ bắt buộc và khối lượng tiền cung ứng
Khối lượng tiền cung ứng thay đổi là kết quả tất yếu của việc thay đổi tiềm năng
tín dụng, thay đổi lãi suất trên thị trường, nó cũng là mục tiêu cuối cùng mà NHTƯ
muốn đạt được khi điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ được nâng
lên nếu NHTƯ thực hiện việc thắt chặt tiền tệ, hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm
phát và ngược lại, để mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất,
tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động thì NHTƯ sẽ hạ tỷ lệ dự trữ bắt
buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động ngược chiều đến khối lượng tiền cung ứng thể
hiện qua công thức tính hệ số nhân tiền:
MS= m* MB= * MB
Có thể nói sự tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền trong nền
kinh tế là khá toàn diện, nó tác động rất mạnh mẽ không chỉ đến quy mô, khối
lượng tín dụng mà cả đối với lãi suất tín dụng. Mức độ tác động không đơn giản
15
chỉ làm tăng hay giảm đơn thuần mà làm thay đổi theo số lần về tiền trong lưu
thông.
Quy định vền xử lý thừa, thiếu đối với DTBB.
Quyết định của Thống Đốc NHNN về việc thay thế, sửa đổi điều 16 về xử lý thừa
thiếu DTBB của NHNN VN
1. Ngân hàng Nhà nước trả lãi phần thừa dự trữ bắt buộc bằng đồng
Việt Nam và ngoại tệ vào tài khoản tiền gửi thanh toán của Hội sở chính tổ chức
tín dụng theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
quy định trong từng thời kỳ.
2. Ngân hàng Nhà nước phạt bằng tiền phần thiếu dự trữ bắt buộc của tổ chức

tín dụng như sau:
a. Trường hợp tổ chức tín dụng thiếu dự trữ bắt buộc lần đầu trong năm sẽ
chịu hình thức xử phạt cảnh cáo.
b. Trường hợp tổ chức tín dụng thiếu tiền dự trữ bắt buộc lần thứ 2 trở đi
trong năm, Ngân hàng Nhà nước xử phạt bằng tiền phần thiếu đối với Hội sở chính
của các tổ chức tín dụng như sau:
Đối với phần thiếu dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam, tổ chức tín dụng
chịu phạt theo lãi suất bằng 150% lãi suất tái cấp vốn tại ngày làm việc cuối cùng
của kỳ duy trì dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín
dụng, tính trên phần thiếu hụt cho cả kỳ duy trì dự trữ bắt buộc
Đối với phần thiếu tiền dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, tổ chức tín dụng chịu
phạt theo lãi suất bằng 150% lãi suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng Singapore (SIBOR) kỳ hạn 3 tháng được công bố vào ngày làm việc cuối
cùng của kỳ duy trì dự trữ bắt buộc, tính trên phần thiếu hụt cho cả kỳ duy trì dự
trữ bắt buộc.
Trong tương lai, Việt Nam có thể chuyển sang phương pháp trùng 1 phần, tuy
nhiên tại thời điểm hiện tại, phù hợp với mô hình NHTW, phương pháp thích hợp
nhất là phương pháp nối tiếp. Khi chuyển sang phương pháp trùng một phần, chưa
nên rút ngắn độ dài kì duy trì và kì xác định xuống 15 ngày. Vì với điều kiện của
Việt Nam hiện nay, thực hiện ngay việc rút ngắn độ dài kì duy trì và kì xác định là
16
việc làm ít có tính khả thi. Việc thay đổi phương pháp quản lý như vậy sẽ làm giảm
tác động gây tác động mạnh về lãi suất thị trường liên NH vì trong 15 ngày đầu của
kì duy trì, các TCTD chưa biết chính xác mức DTBB phải duy trì bình quân trong
kì nên sẽ thận trọng hơn và sử dụng số tiền gửi để tínhDTBB cũng như lãi suất TT
ít biến động hơn trong 15 ngày sau đó.
III.Thực trạng DTBB của Việt Nam từ năm 2006 đến 2012.
DTBB là một công cụ truyền thống trong điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN nhằm tác động vào mức độ tăng tiền, kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng
theo mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ theo từng thời kì tùy theo diễn biến của

các chỉ số kinh tế vĩ mô.
 Năm 2006:
+ Tình hình chung: năm đầu tiên thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã
hội năm 2006- 2010. Nhằm thực hiện chính sách tiên tệ thận trọng, chủ động điều
hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát thấp hơn mức
tăng trưởng kinh tế. Diễn biến nổi bật năm 2006 là vốn nước ngoài vào Việt Nam
gây áp lực tăng giá VND và tổng phương tiên thanh toán.
Tỉ lệ dự trữ bắt buộc năm 2006 không có biến động so với 2005 nhưng bắt
đầu có sự thay đổi vào 2007 khi việt nam gia nhập WTO.
17
 Năm 2007:
+ Điều chỉnh dự trữ bắt buộc tăng gấp đôi so với năm 2006 nhằm mục đích
hạn chế dư thừa vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín
dụng vào những lĩnh vực hiệu quả kém, giảm sức ép tăng lạm phát trong những
tháng cuối năm.
+ Đây là một trong những chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm tạo quy mô thị
trường tiền tệ ổn định không để xảy ra cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước biến động
của tình hình thị trường tài chính quốc tế.
Từ năm 2008- 2011, tỷ lệ DTBB được điều chỉnh giảm. Việc điều chỉnh này
của NHNN một mặt nhằm đưa ra tín hiệu nới lỏng tiền tệ, mặt khác thông qua việc
nâng cao hệ số nhân tiền chính thức mở rộng khả năng cho vay, kích thích các
NHTM đẩy mạnh hoạt động tín dụng.
 Năm 2008:
- Những tháng đầu năm:
+ Tình hình chung: thị trường bất động sản tăng mạnh gây hiện tượng bong
bóng bất động sản, thị trường chứng khoán bất động sản giảm.
+ Thống đống ngân hàng ra quyết định số 187/2008/QĐ- NHNN ngày
16/01/2008 về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng. Theo đó,
đối với tiền VND không kì hạn và có kì hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ DTBB tăng từ
10% lên 11%, đối với tiền gửi có kì hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ DTBB tăng từ 4%

lên 5%; đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kì hạn và có kì hạn dưới 12 tháng
tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng tỷ lệ DTBB tăng từ
4% lên 5%; tuy nhiên NHNN không điều chỉnh tăng tỉ lệ DTBB đối với các TCTD
hoạt động trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn. Nguyên nhân của sự điều chỉnh
này là do năm 2008, tỷ lệ lạm phát của nước ta khá cao 8,1% và có xu hướng ngày
càng tăng lên, để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, NHNN đã tập trung
vào 2 mục tiêu chủ yếu là kiểm soát tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý và
kiểm soát dư nợ tín dụng, từ việc kiểm soát 2 mục tiêu chủ yếu này NHNN đã rút
về một lượng lớn tiền mặt khỏi lưu thông và từ đó giảm bớt áp lực của sự tăng lạm
18
phát. Việc rút bớt một lượng tiền mặt khỏi lưu thông được thực hiện thông qua
việc siết chặt các khoản tín dụng không hiệu quả để tập trung tăng trưởng tín dụng
cho sản xuất, xuất khẩu đồng thời NHNN đã linh hoạt kịp thời lới lỏng CSTT
bằng cách hạ lãi suất cơ bản, giảm tỷ lệ DTBB,…khi có dấu hiệu giảm áp lực lạm
phát và tăng trưởng khó khăn, nhất là khi tình trạng suy thoái kinh tế đang lan tỏa
ra toàn cầu và có thể tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam trong năm 2009 nếu
không có giải pháp ứng phó.
+ Kết quả: chính sách tiền tệ thắt chặt giúp ngân hàng vượt qua thời kì sóng
gió lạm phát, bất ổn bất động sản.
Những tháng cuối năm2008 và đầu năm 2009:
19
+ Chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm hạn chế suy giảm kinh tế: lãi suất tiền gửi
dự trữ bắt buộc tăng từ 5% đến 10% sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm,
quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với VND: 5 lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt
20
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Khô
ng kỳ hạn
và dưới

12 tháng
Từ
12 tháng
trở lên
Khô
ng kỳ hạn
và dưới
12 tháng
Từ 12 tháng trở
lên
Các NHTM Nhà
nước (không bao gồm
NHNo & PTNT),
NHTMCP đô thị, chi
nhánh ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng liên
doanh, công ty tài chính,
công ty cho thuê tài chính
3% 1% 8% 6%
Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông
thôn
1% 1% 7% 5%
NHTMCP nông
thôn, ngân hàng hợp tác,
Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương
1% 1% 7% 5%
TCTD có số dư tiền
gửi phải tính dự trữ bắt

buộc dưới 500 triệu đồng,
QTĐN cơ sở, Ngân hàng
Chính sách xã hội
0% 0% 0% 0%
buộc với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng từ 11-10-8-6-5-3%, kỳ
hạn 12 tháng trở lên: giảm từ 2-1%, ngoại tệ:11-9-7%
Kết quả: giảm chi phí vốn hỗ trợ mục tiêu lợi nhuận, gián tiếp tạo điều kiện
cho ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp vay
vốn sản xuất kinh doanh=> thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
 Năm 2009.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND áp dụng theo QĐ 379/QĐ-NHNN
ngày 24/2/2009 (áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 3/2009), tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi bằng USD áp dụng theo QĐ 1925/QĐ-NHNN ngày 26/8/2011(áp dụng từ
kỳ dự trữ tháng 9/2011)
Năm 2009, lạm phát được kiềm chế ở một con số là 6,97% so với năm 2008
nhưng kéo theo đó là tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 5,23% giảm so với năm 2008 đặc
biệt là các ngành nông nghiệp thủy sản tốc độ tăng khá thấp. NHNN chủ động
giảm tỷ lệ DTBB để giúp các ngân hàng có thể mở rộng vốn tín dụng có hiệu quả
nhằm khuyến khích sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
 Giai đoạn 2011, 2012.
Việt Nam bước vào giai đoạn 2011-2012 trong bối cảnh nền kinh tế trong nước đối
mặt với nhiều thách thức to lớn. Lạm phát của thế giới có xu hướng tăng lên, trong
đó giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ (bản đầu vào của sản xuất), giá lương thực,
và thực phẩm trên thế giới tăng cao.Trong khi đó, vào năm 2011, giá cả trong
nước tăng cao, áp lực lạm phát ngày càng tăng lên do nhiều nguyên nhân nội tại
của nền kinh tế tích lũy từ trước đến nay và chính sách nới lỏng tiền tệ để ngăn
chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng trong thời gian 2008-2010, làm tăng nguy cơ
mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta.
 Trong năm 2011, NHNN đã 3 lần điều chỉnh DTBB đối với ngoại tệ.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Văn bản
USD
Tiền gửi
không kì hạn
và có kì hạn
Tiền gửi
không kì hạn
và có kì hạn từ
21
dưới 12 tháng 12 tháng trở
lên.
750/QĐ-NHNN ngày 9/4/2011(USD) 6% 4%
1209/QĐ-NHNN ngày 1/6/2011(USD) 7% 5%
1925/QĐ-NHNN ngày
26/8/2011(USD)
8% 6%
• Nhận xét:
Việc tiếp tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ sẽ trực tiếp tác động đến chi
phí huy động vốn bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng; lãi suất cho vay ngoại tệ
theo đó dự báo sẽ tăng trong thời gian tới, hạn chế nhất định nhu cầu tăng trưởng
tín dụng ngoại tệ sau khi tăng rất mạnh kể từ đầu năm (trên 18%). Với thị trường,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng đồng nghĩa với một lượng vốn bị hút khỏi lưu thông. Tuy
nhiên, mức tăng 1% nói trên là không quá mạnh. Các quyết định này của NHNN
được đánh giá là một động thái ổn định thị trường ngoại hối, giảm tình trạng đô la
hóa nền kinh tế, nhăm tăng sự hấp dẫn của tiền đồng, nội tệ.
- Ngày 2/2/2012, NHNN công bố giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VNĐ đối
với 5 tổ chức tín dụng đó là: Ngân hàng TMCP Mê Kông, Ngân hàng Phát triển
Nhà đồng bằng Sông Cửu Long, Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương, Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên
Việt; áp dụng tỷ lệ DTBB theo thông tư số 202010/ TT- NHNN ngày 29/09/2010-

tổ chức tín dụng có tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn trên
tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 40% đến dưới
70% thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối vớitiền gửi bằng đồng Việt Nam bằng 1/5 so với
tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi; áp dụng từ
tháng 2/2012 đến tháng 7/2012 theo quy định. Hiện nay tỷ lệ DTBB VND với các
ngân hàng thương mại kỳ hạn trên 12 tháng là 1%; không kì hạn và kì hạn dưới 12
tháng là 3%. Với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, quỹ tín dụng
nhân dân trung ương tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 1%.
22
- Từ năm 2009 -2012, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD đối với tiền gửi VND
cố định 3% và không thay đổi.
- Một số vấn đề hạn chế về sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữbắt buộc trong giai đoạn
2011- 2012.
NHNN cố định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND trong suốt thời gian dài
từ 2009-2012 trong cả quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng thiểu phát 6
tháng 2012.Công cụ tỷ lệ DTBB không phát huy tác dụng điều chỉnh nguồn vốn
thanh toán và cho vay của TCTD.Vì vậy hạn chế vai trò, tác dụng của tỷ lệ dự trữ
bắt buộc trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay, lượng tiền cung ứng và hệ số tạo
tiền của hệ thống TCTD.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ có tác động rất mạnh đến khối lương tiền cung
ứng trong lưu thông theo cấp số nhân, là công cụ kiểm soát lạm phát có hiệu quả
nhất, nhưng NHNN không tăng hoặc giảm tỷ lệ trong suốt thời gian dài, trong bối
cảnh lạm phát cao(2011) và xu hướng thiểu phát (6 tháng đấu năm 2012), nên
không phát huy được vai trò và tác dụng của công cụ này để thực hiện mục tiêu
chính sách tiền tệ.
Để phát huy được vai trò và tác dụng của công cụdự trữ bắt buộc phải điều chỉnh tỷ
lệ dự trữ bắt buộc để tác động đến cả khối lượng và lãi suất cho vay tín dụng của
các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền
của hệ thống NHTM theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Trong giai đoạn lãi suất cho vay còn ở mức cao như thời gian vừa qua, nếu tăng tỷ

lệ DTBB sẽ tăng chi phí đầu vào của nguồn vốn cho vay làm tăng lãi suất cho vay
của các TCTD, nhưng NHNN có thể tăng lãi suất tiền gửi DTBB lên một mức hợp
lý để bù đắp chi phí huy động vốn cho các TCTD, giảm áp lực tăng lãi suất cho
vay.
Chính sách dự trữ bắt buộc áp dụng một mức chung cho tất cả các NHTM, không
căn cứ vào quy mô vốn và tài sản, chất lượng hoạt động và mức độ an toàn của
từng ngân hàng, chưa phù hợp với quy mô và trình độ phát triển không đồng đều
của các NHTM VN, làm cho công cụ dự trữ bắt buộc hoàn toàn trở thành vô tác
dụng.
23
Đặc điểm quan trọng của hệ thống NHTM của VN là trình độ phát triển không
đồng đều về lịch sử phát triển, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tài sản, chất
lượng hoạt động và mức độ an toàn . Trong đó nhóm 4 NHTM cổ phần Nhà nước
và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) có kinh nghiệm
hoạt động kinh doanh 24 năm và chiếm khoảng gần 50% thị phần trên mọi lĩnh vực
hoạt động, nhóm G12 (12 ngân hàng TMCP lớn nhất) chiếm thị phần khoảng 80-
85%, nhóm 13 NHTMCP tư nhân, quy mô vốn rất nhỏ bé, mức độ an toàn hoạt
động rất thấp, mới chuyển đổi từ Hợp tác xã tín dụng và Ngân hàng Nông thôn lên
từ những năm 2002-2006.
Theo quan điểm của một số chuyên gia và NHNN, thời gian qua, do hệ thống ngân
hàng thiếu thanh khoản nên nếu Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì
sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế.
Quan điểm trên rất đúng với nhóm 13 NHTM cổ phần nông thôn mới chuyển đổi
thành NHTM triền miên khó khăn thanh khoản. Nhưng đối với nhóm G12, gồm 12
NHTM chiếm gần 80-85% thị phần không phải là các NHTM thiếu thanh khoản,
thậmnhiều NHTM thừa tiền đi gửi vào các TCTD khác.Mặt khác, trong suốt thời
gian quá dài 2009- 2012, hệ thống NHTM không phải thiếu thanh khoản liên
tục.Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện cơ chế điều hành công
cụ dự trữ bắt buộc, để phát huy hiệu quả cao hơn.
Một số gợi ý khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc:

Ngoài việc khai thác các góc độ khác nhau của tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thiết nghĩ
trong quá trình sử dụng công cụ này để điều hành chính sách tiền tệ NHTƯ nên
quan tâm đến một số vấn đề sau:
Dự trữ bắt buộc có thể duy trì dưới dạng tiền mặt tại quỹ các NHTM. Theo Điều
14 “Luật NHNN Việt Nam” ban hành năm 2010 thì “Dự trữ bắt buộc là số tiền mà
tổ chức tín dụng phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”, với
khái niệm này, toàn bộ dự trữ bắt buộc buộc phải gửi tại NHNN. Trên thực tế,
ngoài tiền gửi ở NHNN, các NHTM luôn phải có dự trữ tiền dưới dạng tiền mặt để
đáp ứng nhu cầu rút tiền thường xuyên của khách hàng. Nhất là trong thời kỳ lạm
24
phát cao, mặc dù dự trữ bắt buộc theo quy định thường đã cao hơn bình thường
nhưng ngoài dự trữ bắt buộc thì đế đối phó với lạm phát, bản thân các ngân hàng
còn phải đối phó với tình trạng rút tiền bất thường của khách hàng, cho nên các
ngân hàng còn phải để dự trữ tiền mặt nhiều hơn. Thực ra tiền mặt tại các NHTM
cũng là một dạng dự trữ và mức độ dự trữ tiền mặt cũng có tác động đến hệ số
nhân tiền của toàn hệ thống ngân hàng không khác gì tiền dự trữ bắt buộc gửi ở
NHNN. Nếu khi tính toán hệ số nhân tiền gửi để kiểm soát mức độ mở rộng quy
mô tiền gửi chỉ căn cứ vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc gửi tại NHNN sẽ không phản ánh
đúng thực tế đang diễn ra - hệ số nhân tiền thực tế sẽ luôn nhỏ hơn hệ số nhân tiền
dự báo và như vậy, khối lượng tiền cung ứng thực tế thấp hơn so với mức mong
muốn.
Dự trữ bắt buộc chỉ là yếu tố quyết định hệ số nhân tiền tệ trong dự báo, dự trữ
thực của các NHTM mới thực sự quyết định hệ số nhân tiền trong thực tế.
Trong tác động của dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền cung ứng có thể dễ
dàng nhận ra rằng việc giới hạn cụ thể lượng tiền mỗi ngân hàng muốn đưa vào lưu
thông không phải là việc khó, bởi vì mỗi ngân hàng đơn lẻ chỉ có thể cho vay trong
phạm vi dự trữ của nó mà thôi. Trong khi đó, đối với cả hệ thống ngân hàng thì
việc tôn trọng giới hạn trên trở lên bấp bênh, cho dù NHTƯ có thể thực hiện tốt vai
trò phát hành nhưng lại khó có thể kiểm soát được một cách chính xác mức độ tạo
tiền của toàn hệ thống, bởi lẽ, ngoài tỷ lệ dự trữ bắt buộc ra thì khả năng tạo tiền

còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác. Mỗi ngân hàng có nhiều lý do để duy trì dự
trữ của mình ở mức độ cao hay thấp, đó là: đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách
hàng trong từng thời kỳ; lý do về sự an toàn cần phải cân nhắc mỗi khi quyết định
cho vay; lý do quản lý nợ lành mạnh Ngoài những giới hạn xuất phát từ chính
bản thân ngân hàng thì những ràng buộc bên ngoài tác động đến quá trình tạo tiền
cũng rất đáng kể như: nhu cầu tín dụng của khách hàng có khả năng hoàn trả; nhu
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×