Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Thi pháp thơ lục bát hiện đại (qua một số trường hợp tiêu biểu).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 162 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC KHÁNH

THI PHÁP THƠ LỤC BÁT HIỆN ĐẠI
(QUA MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP TIÊU BIỂU)
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9. 22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Nguyễn Văn Dân
PGS.TS. Nguyễn Thị Bích thu

Hà Nội - 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan các kết quả trình bày trong luận án là cơng trình
nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của cán bộ hướng dẫn. Các kết
quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất cứ một công trình nào.

Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1


Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ..............................................7
1.1. Khái niệm thi pháp, thi pháp học, thi pháp thơ ................................................7
1.1.1. Khái niệm thi pháp, thi pháp học, thi pháp thơ .........................................7
1.1.2. Khái niệm thi pháp thơ ............................................................................12
1.2. Nghiên cứu về thi pháp thơ ở nước ngoài ......................................................12
1.3. Nghiên cứu về thơ lục bát và thi pháp thơ lục bát ..........................................15
1.3.1. Nghiên cứu thơ lục bát.............................................................................15
1.3.2. Nghiên cứu thi pháp thơ lục bát của một số tác giả tiêu biểu .................29
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................32
Chương 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỂ LỤC BÁT ........34
2.1. Sự hình thành của thể lục bát .........................................................................34
2.1.1. Sự hình thành của thanh điệu tiếng Việt ..................................................35
2.1.2. Tư duy thơ lục bát ....................................................................................37
2.1.3. Nhu cầu biểu đạt chi phối cấu trúc và thể loại ........................................40
2.2. Các giai đoạn phát triển của thể lục bát..........................................................47
2.2.1. Thể lục bát trong văn học dân gian .........................................................47
2.2.2. Thể lục bát trong thơ trung đại ................................................................50
2.2.3. Thể lục bát trong thơ hiện đại .................................................................54
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................65
Chương 3. CẤU TRÚC THƠ LỤC BÁT HIỆN ĐẠI...........................................66
3.1. Cấu trúc khn hình lục bát và biến thể lục bát .............................................66
3.1.1. Cấu trúc khn hình lục bát và biến thể lục bát ......................................66
3.1.2. Biến thể lục bát ........................................................................................71
3.2. Cấu trúc văn bản thơ lục bát hiện đại .............................................................77
3.2.1. Cấu trúc tự sự ..........................................................................................77
3.2.2. Cấu trúc văn bản thơ lục bát hiện đại .....................................................84
3.3. Một số cấu trúc tiêu biểu của thơ lục bát hiện đại ..........................................86
3.3.1. Cấu trúc đối (đối xứng, đối song hành) ...................................................86
3.3.3. Cấu trúc mạch tâm trạng nhân vật trữ tình ...........................................102



Tiểu kết chương 3 ................................................................................................104
Chương 4. NGÔN NGỮ THƠ LỤC BÁT HIỆN ĐẠI .......................................105
4.1. Âm điệu ........................................................................................................105
4.1.1. Âm điệu trong thơ lục bát truyền thống .................................................113
4.1.2. Xu hướng cách tân âm điệu trong thơ lục bát hiện đại .........................116
4.2. Vần điệu .......................................................................................................121
4.2.1. Vần điệu trong thơ lục bát truyền thống ................................................125
4.2.2. Xu hướng cách tân vần điệu trong thơ lục bát hiện đại .........................126
4.3. Nhịp điệu .....................................................................................................136
4.3.1. Nhịp điệu trong thơ lục bát truyền thống ..............................................137
4.3.2. Xu hướng cách tân nhịp điệu trong thơ lục bát hiện đại .......................138
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................143
KẾT LUẬN ............................................................................................................144
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................148
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..........................................................................158


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thơ lục bát hiện đại kế thừa từ tinh hoa văn hoá dân tộc, từ kho tàng ca
dao, dân ca. Có những tên tuổi đã rất thành công với thơ lục bát như: Tản Đà,
Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn,
Phạm Cơng Trứ, Lê Đình Cánh...
Ai cũng biết tính chất của lục bát là dễ làm mà khó hay, hầu như ai làm
thơ cũng bắt đầu bằng thể loại này, chưa kể người người làm lục bát, nhà nhà
làm lục bát, số lượng nhà thơ làm theo thể loại này nhiều không đếm xuể. Tuy
nhiên, số lượng nhà thơ đọng lại trong lòng độc giả ở thể lục bát lại khơng
nhiều. Có thể nói, trong dịng chảy thơ ca dân tộc, lục bát vẫn cho thấy một

sức sống trường tồn, và việc giải mã sức sống này cũng đặt ra nhiều vấn đề
dưới góc nhìn thi pháp học. Từ ca dao đến Truyện Kiều của Nguyễn Du rồi
đến thơ lục bát hiện đại, lục bát đã cho thấy có một sự vận động để thích
ứng với từng thời kì lịch sử.
Dưới góc nhìn thi pháp học, có thể thấy thơ lục bát hiện đại chia thành hai
khuynh hướng, một là khuynh hướng dân gian (Nguyễn Bính, Nguyễn Duy,
Đồng Đức Bốn...), hai là khuynh hướng cổ điển - bác học (Huy Cận và phần
nào đó là Bùi Giáng…). Ở cả hai ngã rẽ này, thơ lục bát hiện đại đều có
những thành cơng và có những dấu ấn riêng biệt. Nghiên cứu này sẽ tìm
hiểu thơ lục bát hiện đại dưới góc nhìn thi pháp học: thể loại, cấu trúc,
ngơn ngữ, từ đó chỉ ra những khuynh hướng sáng tác trong quá trình vận
động và phát triển của thể loại này.
Tiếp cận văn học theo hướng thi pháp học vốn không xa lạ đối với người
Việt Nam. Bởi vì nghiên cứu thi pháp học thực chất là nghiên cứu các bình
diện hình thức nghệ thuật của sáng tạo ngơn từ. Khi phân tích tác phẩm văn
chương, nhà nghiên cứu khơng thể bỏ qua các bình diện hình thức và nội
1


dung. Thi pháp học truyền thống thường phân tích nội dung và hình thức
của văn học trong một quan hệ khn chuẩn, nên nhiều khi có thể bỏ qua,
khơng nắm bắt được những điểm đột phá về nội dung và hình thức của tác
phẩm, và vì vậy ít nhiều cũng có những hạn chế nhất định. Thi pháp học
truyền thống rất nhạy cảm với cái hay, vẻ đẹp phù hợp với những chuẩn
mực quy phạm, ngược lại thường "kị" với sự phá cách, ít dung nạp những
cách tân nghệ thuật. Cho nên, khi văn hóa chuyển mình sang thời hiện
đại, thi pháp học truyền thống mang tính quy phạm tất yếu phải nhường
chỗ cho thi pháp học hiện đại, và cũng vì thế, sự xuất hiện của thi pháp
học hiện đại trở thành cuộc cách mạng trong nghiên cứu, phê bình văn
học. Thể lục bát đã trải qua một hành trình dài từ truyền thống đến hiện

đại, trong quá trình ấy có thể nhận thấy dấu ấn của từng thời kì đã làm
cho thể lục bát có sự biến đổi để phù hợp với thời đại. Từ góc nhìn thi
pháp học, chúng ta có thể nhận thấy q trình vận động ấy qua những
biến đối về đặc điểm thể loại, cấu trúc, ngôn ngữ của thể lục bát trong
từng thời kì. Tiếp nối mạch nguồn ca dao với những khn mẫu ban đầu
khá hoàn chỉnh của thể lục bát, truyện thơ Nôm đã đánh dấu một bước
phát triển mới của thể lục bát mà đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn
Du. Từ những khn mẫu được định hình ban đầu của thể loại trong ca
dao, Truyện Kiều đã đưa thể lục bát lên thành mẫu mực với những khn
mẫu hồn chỉnh, chặt chẽ. Sau Truyện Kiều, thể lục bát tiếp tục với dấu
gạch nối Tản Đà và sau Tản Đà, thơ lục bát chia thành hai khuynh hướng
khá rõ rệt, đó là khuynh hướng dân gian và cổ điển.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu thi pháp thơ lục bát trên nhiều
bình diện, tuy nhiên, chưa có nhiều cơng trình đi sâu nghiên cứu quá trình
hình thành và phát triển của thể lục bát qua từng giai đoạn văn học, làm
rõ dấu ấn của hai khuynh hướng dân gian và cổ điển trong sáng tác của
các tác giả thơ lục bát hiện đại tiêu biểu; từ đó phần nào giải mã sức sống
2


trường tồn của thể lục bát và dự báo xu hướng biến đổi cũng như phương
thức để lục bát tiếp tục sinh tồn trong nền văn học đương đại.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài nghiên cứu “Thi pháp
thơ lục bát hiện đại (qua một số trường hợp tiêu biểu” cho cơng trình luận án
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu thi pháp thơ lục bát hiện đại trên các bình diện:
thể loại, ngôn ngữ, cấu trúc và dấu ấn của hai khuynh hướng dân gian và cổ
điển trong sáng tác của các tác giả thơ lục bát hiện đại tiêu biểu. Chỉ ra những

đặc điểm trong tiến trình của thể lục bát từ dân gian đến hiện đại. Tìm hiểu
quá trình vận động của thể loại từ ca dao cho đến thơ hiện đại, quá trình biến
đổi của cấu trúc thơ lục bát, ngôn ngữ thơ lục bát từ truyền thống đến hiện
đại. Những đặc điểm của thơ lục bát hiện đại cho thấy sự kế thừa từ truyền
thống và những cách tân để phù hợp với từng thời kì.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của thể
lục bát, khái quát các thời kì phát triển của thể lục bát; tìm hiểu cấu trúc của
thơ lục bát hiện đại; ngôn ngữ thơ lục bát hiện đại qua các trường hợp tiêu
biểu (Nguyễn Bính, Huy Cận, Bùi Giáng, Nguyễn Duy) và liên hệ với một số
sáng tác của Tản Đà, Tố Hữu, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn... Nghiên cứu
này sẽ tìm hiểu thi pháp thơ lục bát hiện đại một cách hệ thống, chỉ ra hai
khuynh hướng sáng tác trong quá trình vận động và phát triển của thể lục bát.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài trước hết là thơ lục bát hiện đại của các
tác giả tiêu biểu (Nguyễn Bính, Huy Cận, Bùi Giáng, Nguyễn Duy) từ góc
nhìn thi pháp học. Để tìm hiểu thi pháp thơ lục bát hiện đại, đề tài dựa trên
3


các lý thuyết của thi pháp học, tìm ra những đặc điểm thi pháp cơ bản nhất
của thơ lục bát hiện đại trên các phương diện như: thể loại, cấu trúc, ngơn ngữ
trong q trình vận động và phát triển của thể lục bát.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi tập trung khảo sát các tập thơ của
các tác giả tiêu biểu: Lỡ bước sang ngang (Nguyễn Bính, 1940); Tâm hồn tơi
(Nguyễn Bính, 1940); Lửa thiêng (Huy Cận, 1940); Mưa nguồn (Bùi Giáng,
1962); Lá hoa cồn (Bùi Giáng, 1963); Cát trắng (Nguyễn Duy, 1973); Ánh
trăng (Nguyễn Duy, 1984); Đường xa (Nguyễn Duy, 1989), và một số sáng tác

của các tác giả Tản Đà, Tố Hữu, Phạm Cơng Trứ, Đồng Đức Bốn… Ngồi ra,
chúng tơi cịn chọn một số tác phẩm thơ lục bát trong ca dao, truyện thơ Nôm
trung đại để làm tư liệu đối chứng giúp nhìn nhận thể lục bát theo dịng chảy
lịch sử từ truyền thống đến hiện đại, đồng thời đối sánh thể lục bát trong các
giai đoạn cũng sẽ giúp làm nổi rõ những điểm chung, được bảo lưu và điểm
riêng, cách tân, khác biệt của thơ lục bát hiện đại.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng lý thuyết về thi pháp học
Nghiên cứu này dựa trên lý thuyết về thi pháp học để nhận diện các đặc
điểm của thi pháp thơ lục bát trong quá trình vận động và phát triển. Từ đó
chỉ ra dấu ấn của hai khuynh hướng sáng tác dân gian và cổ điển trong thơ lục
bát hiện đại.
- Phương pháp loại hình
Sử dụng phương pháp này để nắm bắt các hiện tượng trong mối quan hệ
tổng thể, bao quát, hiểu được quy luật phát triển của thể lục bát, tìm ra được
sự thay đổi khn hình lục bát qua các thời kì. Chỉ ra được hai khuynh hướng
sáng tác trong quá trình vận động và phát triển của thể loại.
- Phương pháp thống kê

4


Sử dụng phương pháp này nhằm làm tăng tính thuyết phục cho các luận
điểm, từ đó có thể nhận diện các quy luật trong quá trình vận động của thể
loại, sự biến đổi về cấu trúc và ngôn ngữ thơ. Ngồi ra, các số liệu thống kê sẽ
góp phần bổ trợ, làm căn cứ cho các phương pháp nghiên cứu khác được sử
dụng trong đề tài.
- Phương pháp đối chiếu - so sánh
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đặt thơ lục bát hiện đại trong mối tương
quan với thơ lục bát cổ trong ca dao, truyện thơ Nôm từ góc nhìn thi pháp

học. Qua đó, thấy được những đặc điểm giống nhau của thể lục bát qua các
giai đoạn lịch sử cũng như biến đổi của thể loại trong q trình phát triển.
- Phương pháp phân tích văn bản
Phương pháp phân tích văn bản được sử dụng để phân tích cấu trúc, ngơn
ngữ của các văn bản thơ lục bát trong khối tư liệu nghiên cứu để trên cơ sở đó
khái quát hóa những đặc trưng của thơ lục bát hiện đại được đặt trong tiến
trình vận động và biến đổi của thể thơ lục bát của dân tộc từ quá khứ, đến
hiện tại và tương lai.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Nghiên cứu này góp phần tìm hiểu thi pháp thơ lục bát hiện đại, làm rõ
quá trình vận động của thể loại, các khuynh hướng sáng tác trong quá trình
vận động và phát triển của thể lục bát. Chỉ ra những dấu ấn của hai khuynh
hướng sáng tác này trong tác phẩm của các nhà thơ lục bát tiêu biểu. Quá
trình biến đổi của thể lục bát từ góc nhìn thi pháp học qua sáng tác từ truyền
thống đến hiện đại. Từ đó có thể giải mã sức sống trường tồn và dự đoán
được khuynh hướng của thơ lục bát trong văn học đương đại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Trên cơ sở của các định nghĩa, khái niệm về thi tháp, thi pháp
thơ chúng tôi vận dụng khái niệm thi pháp thơ, từ đó làm cơ sở cho việc triển
khai các vấn đề nghiên cứu.
5


- Về thực tiễn: Từ kết quả của các nghiên cứu về thi pháp, thi pháp học, thi
pháp thơ trên thế giới và ở Việt Nam, chúng tơi tìm hiểu thi pháp thơ lục bát
hiện đại trên các bình diện: thể loại, cấu trúc, ngôn ngữ để thấy được sự vận
động của hai khuynh hướng sáng tác dân gian và cổ điển trong thơ lục bát của
một số tác giả tiêu biểu.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận án gồm 4 chương

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Sự hình thành và phát triển của thể lục bát
Chương 3: Cấu trúc thơ lục bát hiện đại
Chương 4: Ngôn ngữ thơ lục bát hiện đại

6


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm thi pháp, thi pháp học, thi pháp thơ
1.1.1. Khái niệm thi pháp, thi pháp học, thi pháp thơ
Thi pháp là nghiên cứu các phương diện hình thức mang tính nội dung.
Thực chất nhiệm vụ của thi pháp là nghiên cứu thế giới nghệ thuật khép kín
của văn bản, bổ sung cho các hướng tiếp cận ngoài văn bản như xã hội học,
văn hóa học, phương pháp tiểu sử.
Thi pháp học là một trong những những bộ mơn khoa học có bề dày lịch
sử lâu đời trong lịch sử nhân loại. Ở phương Tây, thuật ngữ “thi pháp học” rất
phổ biến ngày nay bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp “Poetika”. Thuật ngữ này là từ
rút gọn của cụm từ “Poetika tekhne”, nghĩa là biện pháp, nghệ thuật làm thơ,
thể hiện tập trung trong cơng trình Peri Poetikes của Aristote (384 – 322
TCN). Ở Việt Nam, thuật ngữ này lúc đầu được dịch là “bàn về nghệ thuật
thơ ca” hoặc “nghệ thuật thơ ca”. Tuy nhiên, trong cơng trình này, Aristote
khơng chỉ bàn về thơ ca, ông viết: “Sử thi, bi kịch thi cũng như hài kịch và
thơ ca tụng tửu thần, đại bộ phận nhạc sáo, nhạc đàn lục huyền - tất cả những
cái đó nói chung đều là nghệ thuật mơ phỏng” [3, tr.15]. Theo Trần Đình Sử,
nếu dịch cơng trình của Aristote là “nghệ thuật thơ ca” thì đến nay đã khơng
cịn phù hợp, bởi theo ơng: “Trong nhan đề cuốn sách của Aristote nguyên
nghĩa được dịch là “nghệ thuật thơ ca”, tức là các nguyên tắc, biện pháp, chất
liệu làm nên nghệ thuật thơ. Cách dịch này phù hợp với quan niệm cổ đại,

xem Poetika là một thứ cẩm nang về các thủ pháp, biện pháp sáng tác thơ,
viết cho người làm thơ... Hai chữ “thơ ca” đã không cịn phù hợp với quan
niệm ngày nay, vì thế cụm từ “Nghệ thuật thơ ca” nên chuyển thành thi pháp,
còn khoa nghiên cứu thi pháp ấy thì gọi là thi pháp học” [127, tr.12]. Ở
chương XVII của quyển Nghệ thuật thơ ca có viết: “Khi xây dựng các cốt

7


truyện và gọt rũa văn từ cho các cốt truyện đó, phải làm thế nào hình dung
được chúng thật sinh động ở trước mắt. Chính trong lúc đó, trong lúc nhìn
thấy [tất cả] một cách hồn tồn rõ rệt và dường như chính mình tham gia
những sự kiện ấy, [nhà thơ] mới có thể tìm được cái mình muốn tìm, mới thấy
được mâu thuẫn. Nhà thơ cần phải cố gắng hình dung cho mình thấy được cả
hồn cảnh của những nhân vật hành động nữa, vì theo bản chất tự nhiên, những
ai tự mình trải qua [một nỗi cảm xúc nào đó] mới có thể truyền đạt được nổi
cảm xúc ấy đúng nhất, chỉ có người nào xúc động mới thực sự làm cho [người
khác] xúc động, và chỉ có người nào phẫn nộ mới làm cho người khác phẫn nộ
mà thôi. Bởi vậy, thơ ca là lĩnh vực của những người có tài và những người
đam mê, vì những người có tài mới có khả năng hóa thân, nhập vai, và những
người đam mê mới có khả năng phấn hứng cao độ. Dù tài liệu có sẵn hay do
nhà thơ đặt ra, trong khi sáng tác [nhà thơ] cũng phải hình dung được nó một
cách khái qt, rồi sau đó cứ thế mà sắp xếp các tình tiết và phát triển [cái toàn
thể]” [3, tr.71-72].
Aristote kết hợp tư tưởng mua vui và nhận thức khi nhìn nhận bản chất
nghệ thuật, từ đó, ơng lần lượt xem xét các thể loại bi kịch, sử thi, cấu trúc
cho đến ngôn từ. Ông kết hợp lí thuyết với thực hành phân tích nghệ thuật cụ
thể. Nhưng qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, thi pháp học nhiều lần
được hiểu khác nhau, khi thì thu hẹp vào loại hình thi ca, vào thi luật, phép
làm thơ, biến thành quy phạm, giáo điều, khi thì mở rộng chỉ tồn bộ nghệ

thuật, khi lại bị coi thường như một thứ hình thức chủ nghĩa ít có ý nghĩa và
cho đến nay cách hiểu vẫn cịn phân tán. Thi pháp học của Aristote có ảnh
hưởng to lớn ở Châu Âu suốt từ thời cổ đại. Các cơng trình về thi pháp học từ
Aristote cho đến thế kỉ XVII (Nghệ thuật thơ ca của Horatius, Nghệ thuật thơ
của Minturno, Thi pháp học của Giangiorgio Trissino, Nghệ thuật thơ ca của
Boileau...) vẫn dựa vào các tác phẩm điển mẫu và các quy phạm sáng tác của
chủ nghĩa duy lý cổ điển.
8


Nếu ở phương Tây, Aristote với cơng trình Nghệ thuật thơ ca đã đặt
những viên gạch đầu tiên trong nghiên cứu thi pháp học thì ở phương Đơng,
Lưu Hiệp cũng được đánh giá như thế với Văn tâm điêu long. Tác phẩm này
là kết tinh của học vấn, trí tuệ và tâm huyết của Lưu Hiệp, là một kiệt tác vừa
có giá trị cao về lí luận vừa có nhiều đặc sắc về văn chương. Có thể nói Văn
tâm điêu long là tác phẩm lý luận văn học đầy đủ đầu tiên của lý luận văn học
Trung Quốc. Tác phẩm dường như đề cập đến tất cả các vấn đề thuộc về văn
học: từ nội dung và hình thức đến thể loại, phong cách, lịch sử phát triển…
ngoài ra, Lưu Hiệp ơng cịn dành nhiều tâm lực để bàn về sáng tạo trong văn
học. Những quan điểm này của ông có nhiều đóng góp quan trọng trong
nghiên cứu thi pháp học.
Từ thế kỉ XVIII trở đi, với sự chuyển hướng từ siêu hình học cổ đại sang
nhận thức luận hiện đại, diễn ra sự phân loại các khoa học, sự hình thành dần
dần khoa nghiên cứu văn học, thì thi pháp học chuyển hướng sang nhận thức
luận, nghiên cứu các vấn đề nội dung như cái đẹp, xã hội, chính trị, đạo đức,
chức năng phản ánh hiện thực, giáo dục.., hầu như bị hoà lẫn vào các hoạt
động xã hội khác và các khuynh hướng nghiên cứu văn học khác như triết
học, chính trị học, xã hội học, ngữ văn học, tâm lí học, đặc biệt là lịch sử văn
học… Với chủ nghĩa Khai sáng, lí luận nghệ thuật phát triển nghiêng về phía
triết học, mĩ học. Cùng với chủ nghĩa khai sáng, chủ nghĩa lãng mạn, chủ

nghĩa hiện thực đã thúc đẩy lí luận văn học thay đổi theo hướng hiện đại.
Cuối thế kỷ XIX, A.N. Veselovski vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ “Thi
pháp học” nhưng lại đổi mới nó theo tinh thần “Thi pháp học lịch sử”. Ông
nghiên cứu xâu chuỗi các thi pháp sáng tác theo dòng thời gian lịch sử, tức là
theo phương pháp so sánh lịch đại. Đầu thế kỷ XX, một số nhà ngôn ngữ học
Nga vẫn sử dụng thuật ngữ này trên tinh thần của hình thức luận. Năm 1919,
Shklovski cho cơng bố cơng trình nghiên cứu mang tên Thi pháp học.
Jakobson đã mang hình thức luận và thuật ngữ “thi pháp học” sang phổ biến
9


khắp Âu - Mỹ. Rồi từ đó, thi pháp học sống lại trong thế kỷ XX với một hình
hài mới. Breitinger với cơng trình Thi pháp phê phán và M.H. Abrams với
Gương và Đèn đã thể hiện tinh thần của thời đại mới khi cho rằng, thế kỉ
XVIII và XIX là thời kì chống lại các tín điều của thi pháp học cổ điển. Sang
đầu thế kỉ XX, trong lĩnh vực thi pháp học, có sự vận động chuyển từ thi pháp
học lịch sử sang thi pháp học cấu trúc. Với khái niệm “cấu trúc”, nghiên cứu
văn học lại trở về với tổ chức bên trong, phương diện nội tại của văn học và
thi pháp học lại tái hiện. Khái niệm thi pháp học không chỉ được hiểu là một
khoa học cịn được hiểu là một khuynh hướng phê bình. Trong cơng trình Thi
pháp học, Tzvetan Todorov đã cố gắng xác lập một định nghĩa về thi pháp
học theo tinh thần của chủ nghĩa cấu trúc. Các lý thuyết cấu trúc trong văn
học tiêu biểu có thể kể đến thi học của R.Jakobson, cấu trúc văn bản nghệ
thuật của Iu.Lotman, cấu trúc – kí hiệu của trường phái Paris và thi pháp học
cấu trúc của Jonathan Culler. Sau này, sự vận động của thi pháp học tiếp tục
với hậu cấu trúc và giải cấu trúc, thi pháp học ở phương Tây tiếp tục phát
triển với tinh thần mở và thi pháp học lại hồi sinh với một sức sống mới.
Ở phương Đông, khái niệm “thi pháp học” (nếu hiểu thi thi pháp học là
nghiên cứu văn học như một nghệ thuật) bắt nguồn sớm nhất trong tác phẩm
Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp. Đây là tác phẩm được coi là cơng trình khởi

đầu cho thi pháp học. Lí luận văn học Trung Hoa đều dựa trên nền tảng lí luận
Lưu Hiệp trong cơng trình Văn tâm điêu long (thế kỉ 6), trải qua lịch sử lí luận
Trung Hoa cứ tiến dần từng bước qua nhà Đường, nhà Tống, nhà Thanh mà
hồn chỉnh cho đến khi gặp gỡ lí luận Phương Tây (chủ yếu là maxism) ở đầu
thế kỉ XX. Có thể nói Văn tâm điêu long là tác phẩm lý luận văn học đầy đủ
đầu tiên của lý luận văn học Trung Quốc. Tác phẩm dường như đề cập đến tất
cả các vấn đề thuộc về văn học: từ nguyên lý văn học đến thể loại văn học, từ
lý luận sáng tác đến lý luận phê bình văn học. Các thiên tuy được viết ngắn
gọn nhưng các vấn đề nêu ra đều được Lưu Hiệp cố gắng giải quyết thấu đáo
10


và triệt để. “Đối với chúng ta hiện nay, tác phẩm cấp cho ta một cái nhìn có
cơ sở lý luận trước hết về văn học cổ của cha ông, điều mà hiện nay, do
thưởng thức thẩm mỹ của chúng ta thay đổi, chúng ta khơng thể hiểu nó như
cha ông chúng ta đã hiểu. Đặc biệt, nó cho phép chúng ta hiểu được một số
khái niệm văn học, đối với chúng ta còn mơ hồ hay hiểu theo cách hiểu
phương Tây như tứ, thần, tâm, tính, khí, lực, phong thái, cốt cách…” [3,
tr.119]. Sau này, các sách thi thoại đã có nhiều tìm tịi sâu sắc về nghệ thuật
dùng từ, bố cục, hình tượng, cách luật, nhịp điệu... về thơ của các tác giả như
Chu Bật, Nghiêm Vũ, Khương Quỳ, Nguỵ Khánh Chi... cũng có những thành
tựu nhất định. Các nhà phê bình tiểu thuyết của Trung Quốc như: Kim Thánh
Thán, Mao Tôn Cương, Lý Trác Ngô... cũng đi sâu vào phân tích nghệ thuật
kể chuyện, xây dựng nhân vật của tiểu thuyết, mở ra truyền thống thi pháp
học của tiểu thuyết Trung Quốc. Các nền văn học khác như Nhật Bản, Ấn Độ,
Hàn Quốc, Ba Tư... cũng có truyền thống thi pháp học độc đáo.
Cho đến hiện nay dù vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ nào về thi pháp
học nào được mọi người nhất trí thừa nhận, song như nhận định của Trần Đình
Sử, thi pháp học có nghĩa hẹp, nghĩa rộng và nghĩa mở rộng. Thi pháp và thi
pháp học hiểu theo nghĩa hẹp gần với khái niệm thi học, tức là chỉ sự nghiên

cứu về hình thức thơ, như: cấu trúc, vần, nhịp, các phép tu từ… của thơ ca
(quan điểm này khá tương đồng với quan điểm của Lý Toàn Thắng về thi học,
khi ông đã kế thừa những thành tựu nghiên cứu ở Nga để đưa ra các thành tố
của thi học. 1) Thi âm: nghiên cứu cách thức tổ hợp các âm (thanh), các âm
tiết, dòng thơ; 2) Thi tiết: nghiên cứu cấu trúc tiết điệu của thơ; 3) Thi điệu:
nghiên cứu cấu trúc, nhịp điệu thơ (dòng thơ, câu thơ, bài thơ); 4) Thi đoạn:
nghiên cứu sự tổ hợp các câu thơ thành khổ thơ, đoạn thơ) [141, tr.13]. Theo
nghĩa rộng thi pháp học chỉ sự nghiên cứu toàn bộ các phương diện hình thức
của văn học và các vấn đề thuộc hình thức văn học, nghệ thuật nói chung.

11


Nghĩa mở rộng của thi pháp học chỉ khoa học về hình thức của bất cứ loại nghệ
thuật nào, ví dụ: thi pháp điện ảnh, thi pháp hội họa…
1.1.2. Khái niệm thi pháp thơ
Trong luận án này, chúng tôi thiên về sử dụng nội hàm khái niệm thi
pháp học ở cách hiểu thứ nhất, đó là thi pháp học theo nghĩa hẹp. Như vậy,
khái niệm thi pháp thơ gần với khái niệm thi học và thi pháp học (theo nghĩa
hẹp), tức là chỉ sự nghiên cứu về hình thức thơ, như: cấu trúc, vần, nhịp, các
phép tu từ… của thơ ca chỉ sự nghiên cứu toàn bộ các phương diện hình thức
của văn học.
1.2. Nghiên cứu về thi pháp thơ ở nước ngồi
Nghệ thuật thơ ca của Aristote là cơng trình đầu tiên về thi pháp thơ. Được
viết với chủ đích đưa ra những khn vàng thước ngọc cho nhà văn nhà thơ
dựa vào để sáng tác một bi tráng kịch, một anh hùng ca, tương tự như cuốn
Rhétorique (Thuật hùng biện) Aristote đề nghị những luật vàng để viết một
bài diễn thuyết; Thi học cịn đóng một vai trị khác: điều tra nguồn cội nghệ
thuật và trình bày những nền móng cơ bản để khảo sát cấu trúc thơ văn. Điểm
đầu tiên, Aristote xác định: nghệ thuật bắt nguồn từ sự bắt chước. Từ tuổi thơ

ấu, con người đã biết và thích bắt chước. Khả năng bắt chước phân biệt con
người với mn lồi và nhờ đó mà ngơn ngữ nảy sinh. Theo Aristote, anh
hùng ca, bi ca, hài ca, tụng ca, và nghệ thuật trình diễn của những nhạc công
đều là bắt chước. Nếu như ở phương Tây, người ta hiểu “thơ” bao hàm cả
“văn” thì ở phương Đông, người ta hiểu “văn” bao hàm cả “thơ”. Thời cổ đại,
khái niệm Văn học hay Thi học được hiểu là học vấn, tri thức văn hóa. “Văn
học” là học văn hóa, chức “hiệu trưởng” được gọi là chức “văn học”. Người
có văn học là người un bác tinh thơng chữ nghĩa như bác sĩ (hiểu theo nghĩa
rộng của từ này). Phải đến sau thời Ngụy Tấn (thế kỷ III), từ “văn học” mới
được dùng để chỉ văn chương nghệ thuật hay là cái đẹp nói chung.

12


Mặc dù quan niệm rằng, “văn” bao hàm “thơ” nhưng vì khái niệm văn
quá rộng nên khi bàn đến văn chương với tư cách là một nghệ thuật, các nhà
nghiên cứu Trung Quốc không dùng từ “Văn học” mà dùng từ “Thi học”,
“Thi pháp”. Nếu hiểu theo lối duy danh tiếng Hán thì “Thi pháp” là phương
pháp I phép tắc làm thơ. Cách hiểu này cũng không quá sai lạc với tinh thần
của Aristote vì ơng cũng bàn về nghệ thuật thơ ca. Vì vậy, dù ở phương Đơng
hay phương Tây, Thi pháp học của Aristote vẫn tiếp tục phát huy. Các sách
thi thoại ở Trung Quốc đã có nhiều tìm tịi sâu sắc về nghệ thuật dùng từ, bố
cục, hình tượng, cách luật, nhịp điệu... về thơ.
Tùy Viên thi thoại được xem là một trong những cơng trình lý luận - phê
bình xuất sắc, tiêu biểu cho tư tưởng lý luận văn học của Viên Mai nói riêng,
của Trung Quốc nói chung. Ơng đề cao thuyết linh tính, nhấn mạnh tính tình
cần chân thực, bút pháp cần linh hoạt, về tư tưởng thì khơng bị trói buộc bởi
tư tưởng chính thống và quan niệm đạo đức phong kiến, về hình thức nghệ
thuật cũng khơng bị hạn chế về cách luật cố hữu mà cổ vũ tự do sáng tạo,
khuyến khích bộc lộ cá tính, tạo lập được phong cách riêng. Tác phẩm này đã

trực tiếp đề cập đến nhiều vấn đề của lý luận và thi pháp văn học. Tuy nhiên,
so với Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp thì cơng trình này ít được nghiên cứu
và giới thiệu ở Việt Nam hơn.
Các cơng trình nghiên cứu về thi pháp thơ sau này phải kể đến Những vấn
đề thi học của Roman Jakobson. Đóng góp lớn lao nhất của Roman Jakobson
trong lý luận về thi pháp là đã thuyết minh tương quan giữa ngữ âm và ngữ
nghĩa, giữa từ và nghĩa, phản biện lý thuyết lừng danh của F. de Saussure
trong Giáo trình ngơn ngữ học đại cương, kinh điển của khoa ngữ học hiện
đại: tương quan giữa ngữ âm (cái biểu hiện) và nghĩa (cái được biểu hiện) là
võ đoán [119]. Nhưng giới nghiên cứu thế giới hiện nay dường như đồng
thuận với quan niệm Roman Jakobson khi ông cho rằng, cách đặt đối tượng
vào ngôn từ, vào khối từ ngữ: tơi gọi đó là thời điểm duy nhất và thiết yếu của
13


thơ, đụng không những vào lối kết hợp chữ nghĩa mà cịn đụng vào cái vỏ của
ngơn từ. Sự liên hợp tự động giữa ngữ âm và ngữ nghĩa. Vì nếu Saussure nói
đúng: khơng có tương quan giữa âm và nghĩa, thì... thì sẽ khơng có thơ! Hoặc
giả ngơn ngữ thơ sẽ nghèo nàn lắm, lý luận về thi ca sẽ khốn cùng. Thơ sẽ là
lối minh họa vần vè, một trò tiêu khiển phù phiếm. Sự nghiên cứu âm vị dẫn
đến sự phân biệt ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ hàng ngày: Jakobson xác định và
chứng minh rằng, mỗi chữ trong thơ đều đã bị biến tính, biến dạng, tức là bị
"bóp méo" đi, so với ngơn ngữ hàng ngày. Làm thơ là tạo ra một cấu trúc
ngôn ngữ đặc dị, trái khốy, khác thường. Và chính ở sự khác thường, biến
dạng đó, nó mới gây "bất ngờ". Khái niệm "bất ngờ" của Jakobson, cũng
giống như khái niệm "lạ hoá" của Chklovski, đều đi từ thi học Aristote.
Nhưng sự khảo sát thơ đi từ âm vị, là một bước tiến mới trong thi học, nó bắt
buộc nhà nhà phê bình phải trở thành bác sĩ giải phẫu chữ, khơng chỉ dừng lại
ở ý thơ, tứ thơ, mà còn phải "phanh phui" cơ thể của một từ ra từng yếu tố âm
nhỏ nhất để xem bên trong nó có gì khơng?

Roman Jakobson tìm ra những cấu trúc cơ bản của thơ trên cơ cở của
trục kết hợp và trục lựa chọn. Cùng với đó là nguyên lý phổ quát trong thơ
cũng như trong nghệ thuật nói chung là nguyên lý song song. Đây là những
luận điểm quan trọng khi nghiên cứu cấu trúc và ngôn ngữ của thơ ca.
Victor Borisovich Shklovski trong tiểu luận Nghệ thuật như là thủ pháp
cho rằng, nghệ thuật - đó là tư duy bằng hình tượng. Có thể nghe thấy câu đó
từ một học sinh trung học, nhưng nó cũng là điểm xuất phát đối với một học
giả ngữ văn bắt đầu tạo ra một lý thuyết nào đó trong lĩnh vực lý luận văn
học. Ý tưởng ấy từng nảy nở trong ý thức nhiều người; cần phải coi Potebnia
là một trong những người tạo ra nó. Ơng cho rằng, khơng có hình tượng thì
khơng có nghệ thuật, đặc biệt là khơng có thơ. Thơ cũng như văn xuôi, trước
hết và chủ yếu là một phương thức tư duy và nhận thức nhất định.

14


B.M. Eikhenbaum trong tiểu luận Nhạc điệu câu thơ trữ tình Nga đề cao
nhạc điệu trong thơ ca: “Khi nghiên cứu câu thơ như vốn dĩ, người ta thường
nghĩ tới tổ chức nhịp điệu và thanh điệu của nó. Nhưng cả nhịp điệu lẫn thanh
điệu, tự bản thân chúng không quyết định đặc điểm của phong cách và khơng
có khả năng xác lập các nguyên tắc kết cấu. Nhịp điệu và sự “phối” thanh chỉ
xác định câu thơ nói chung, xác định bản chất của nó, và do đó khơng tạo ra
cơ sở để nghiên cứu sự khác biệt mang tính đặc thù của phong cách này với
phong cách kia” [119]. Các chữ “nhạc tính”, “nhạc điệu” thường được hiểu là
âm vang, âm hưởng, là sự ngân nga nói chung, mà khơng tính tới việc, liệu có
phải nó được tạo ra bởi sự phối nhạc phong phú, bởi tiết tấu đa dạng, hoặc vì
một cái gì đó hay khơng. Kì thật, một hệ thống ngữ điệu phát triển hồn tồn
có thể tạo ra nhạc điệu thực sự cho câu thơ mà không cần phải kết hợp với
hiệu quả phối nhạc và nhịp điệu. Ngoài ra, sự đa dạng của phối nhạc lại
thường hiện hữu nhiều hơn ở tác phẩm trữ tình loại khác, ở loại trữ tình mà

người ta nhận ra rất rõ cách thức cấu âm [119].
Các nhà nghiên cứu thuộc trường phái hình thức Nga đã có nhiều cơng
trình quan trọng trong việc nghiên cứu thơ và thi pháp thơ. Đây cũng là những
gợi mở quan trọng để các nhà nghiên cứu trong nước cho ra đời những cơng
trình về thi pháp thơ.
1.3. Nghiên cứu về thơ lục bát và thi pháp thơ lục bát
1.3.1. Nghiên cứu thơ lục bát
Tiếp nhận các lý thuyết về thi pháp nói chung và thi pháp thơ nói riêng,
các cơng trình ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực
này. Phan Ngọc chịu ảnh hưởng sâu sắc của thi pháp học cấu trúc chủ nghĩa
và ông đã bắt đầu nghiên cứu thi pháp cấu trúc từ những năm 60, nhưng do
khơng khí xã hội Việt Nam những năm ấy không thuận lợi cho nên mãi đến
giữa những năm 80 đầu những năm 90 ông mới cho công bố các cơng trình
nghiên cứu về Truyện Kiều (1985) và về thơ Đường (1990), thơ song thất lục
15


bát, cách đọc văn học theo ngôn ngữ học. Công trình về Truyện Kiều của
Phan Ngọc là một tìm tịi về phong cách học trong khi bộ mơn này “cịn thiếu
một lí luận nhất qn để có thể khẳng định nó như một khoa học thật sự”.
Ơng phải tiến hành xây dựng lại các khái niệm của môn phong cách học,
khám phá nét nội dung và hình thức khơng lặp lại phù hợp với nội dung ấy
bằng cách xét tần suất lặp đi lặp lại của một hiện tượng sau đó kiểm chứng
trên trục lịch sử và thời đại. Ơng không nghiên cứu phong cách một cách cô
lập, mà sử dụng thao tác đối lập để tìm nét khu biệt về nội dung và hình thức
độc đáo chỉ một mình Nguyễn Du làm được, không phải là nét mà nhiều
người cùng thời với nhà văn cũng làm được. Như thế phong cách học của
Phan Ngọc khơng cịn là phong cách học hình thức, mà đã gắn chặt với nội
dung, điều kiện lịch sử và khu biệt với phong cách thời đại. Ơng cho rằng:
“Ta phải đi tìm những cống hiến nghệ thuật của riêng nhà thơ Nguyễn Du mà

trước đó khơng ai làm được, và sau đó cũng khơng có ai làm được. Chỉ những
yếu tố ấy mới làm thành phong cách của ông” [105, tr.9]. Phan Ngọc nhấn
mạnh phong cách của riêng Nguyễn Du mà không lẫn với ai được. Trong
chương VII (Câu thơ Truyện Kiều) của cơng trình này ông nhấn mạnh về
phong cách thơ Nguyễn Du: “Muốn xét câu thơ Nguyễn Du như một hiện
tượng của phong cách học Việt Nam, cần phải xem nó như một tổng thể, gồm
nhiều yếu tố kết hợp với nhau một cách hữu cơ. Sau đó, theo dõi q trình
hình thành của từng yếu tố một để tìm cái mới của câu thơ Nguyễn Du. Rồi
lại phải đối lập câu thơ lục bát của Nguyễn Du với câu thơ lục bát đương thời,
để rút ra những nét làm thành giá trị nghệ thuật của câu thơ này” [105, tr.251252]. Phan Ngọc lấy sự lựa chọn làm nguyên tắc khu biệt cơ bản để nghiên
cứu, ông thực sự đã đem lại nhiều điều mới mẻ trong cấu trúc nghệ thuật
của Truyện Kiều và thơ Đường. Như thế thành công của Phan Ngọc gắn liền
với tìm tịi phương pháp của chính ơng.

16


Năm 1985, Nguyễn Phan Cảnh cũng cho xuất bản cuốn Ngơn ngữ thơ,
một cơng trình vừa có tính lí thuyết vừa có tính phổ cập, đề cập nhiều vấn đề
của thơ được bạn đọc chú ý. Đây là cơng trình đầu tiên ở Việt Nam viết về
đặc trưng thi pháp của ngôn ngữ thơ theo quan điểm của chủ nghĩa cấu trúc
của một nhà ngữ học. Tiếp thu những luận điểm trong tư tưởng của R.
Jacobson về chức năng của ngôn ngữ thi ca, Nguyễn Phan Cảnh đã đề cập vấn
đề này một cách trực diện hơn trong chuyên luận. Trong phần viết về thể lục
bát, ơng đã có được những nhận định khái quát rất quan trọng. Ngoài việc đề
cập đến cách thức phát sinh thể loại lục bát, Nguyễn Phan Cảnh cũng đã có
được những lập luận thuyết phục cho vấn đề khả năng tồn tại của thể thơ
truyền thống cách luật này. Bên cạnh đó tác giả đã chú trọng đi vào một số
bình diện của ngơn ngữ thơ như tính đa trị của tín hiệu ngơn ngữ (nhờ phương
thức tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa), nhạc thơ, mức độ và cách thức hoạt

động của trường nét dư trong vận động tạo thể... Có thể nói đây là một cơng
trình nghiên cứu rất có ý nghĩa, đặt nền móng cho lí thuyết nghiên cứu ngơn
ngữ một thể loại văn học đặc thù (trong cái nhìn phân biệt giữa ngôn ngữ thơ
với ngôn ngữ văn xuôi).
Một công trình nghiên cứu chuyên sâu về thể loại đầu tiên phải kể đến là
Lục bát và song thất lục bát (1998) của Phan Diễm Phương. Trong chuyên
luận này tác giả đã tập trung giải quyết tương đối triệt để những vấn đề chung
về thể loại thơ như quá trình ra đời và phát triển của hai thể thơ lục bát và
song thất lục bát từ điểm nhìn cấu trúc âm luật thể loại. Đây là một bước tiến
đáng ghi nhận trong việc phân định hình thức chính thống của thể thơ truyền
thống cách luật. Cơng trình này cũng cùng xu hướng với chuyên luận Thơ và
các vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại của Hà Minh Đức (1974). Tuy nhiên,
tác giả Phan Diễm Phương đã đưa ra và giải quyết vấn đề này một cách tập
trung và toàn diện hơn.

17


Trong chuyên luận: “Mấy vần đề về thi pháp Thơ mới như là cuộc cách
mạng trong thơ Việt Nam”, Trần Đình Sử cũng đã có những nhận định:
“Phong trào Thơ mới là một cuộc cách mạng trong thi ca Việt Nam, cuộc
cách mạng đã chuyển thơ Việt Nam từ loại hình trung đại sang loại hình hiện
đại, đưa nó thốt khỏi giới hạn khu vực Đông Á để hội nhập vào thế giới. Cho
dù ngay sau phong trào đó và cả ngày nay đã và đang có những phong trào thi
ca khác muốn tìm cách vượt qua thơ mới, thích ứng với xu thế chung của thời
đại, thì ý nghĩa của thi pháp thơ mới đối với Việt Nam vẫn hết sức to lớn
[126, tr.439]. Thơ trữ tình Việt Nam kể từ thơ mới, dù phát triển thế nào…
đều là sự phát triển sâu hơn, nhiều vẻ hơn những khả năng nghệ thuật mới của
thi ca đã mở đầu và định hình từ phong trào thơ mới. Thi pháp thơ mới phải là
một mĩ học mới và nhãn quan mới về thơ và ngôn ngữ của thơ, đồng thời

cũng là những tiêu chuẩn giá trị mới về thơ. Từ thời Thi nhân Việt Nam của
Hoài Thanh và Hoài Chân, thơ mới đã được hiểu như một cuộc cách mạng
trong thi ca, nhưng ý niệm cách mạng về thi pháp thì vẫn chưa thật rõ rệt.
Người mình thích đối lập mới/ cũ, nhìn thơ mới qua xung đột “mới/ cũ” mà ít
quan tâm thực chất của mới/cũ ấy. Mọi người đều biết phong trào thơ mới là
sản phẩm của cuộc xung đột hiện đại và truyền thống, phương Đông và
phương Tây, cá nhân và đoàn thể. Phong trào kiểu này đã xảy ra ở Trung
Quốc, Việt Nam và các nước Đông Á khác, những nơi có tiếp xúc Đơng Tây
đầu thế kỉ trước. Ở Việt Nam, nó nảy sinh khi nền Tây học đã đi vào ổn định,
đô thị mở ra, tầng lớp trí thức mới ra đời. Họ vừa là lớp người hiểu văn hố
Việt vừa có tri thức mới về văn hố phương Tây, vừa có khả năng cảm nhận
thế giới và đời sống một cách mới mẻ, vừa cảm thấy sự chật chội gị bó của
hình thức thơ truyền thống. Người viết tiểu thuyết hẳn cũng có nhu cầu biểu
đạt cái mới, nhưng họ khơng bị hình thức cũ trói buộc, bởi văn xi cũ viết
bằng chữ Hán, văn xi tiếng Việt mới hình thành, họ sáng tạo thể loại mới
mà hầu như khơng có đối thủ. Nhưng thi ca lại khác. Làm sao có thể sáng tác
18


thi ca mà khơng đụng đến các hình thức, luật lệ thi ca, văn thể đã định hình và
có khn mẫu. Cuộc cách mạng thi ca nhằm mục đích làm cho người ta quên
hình thức cũ, phá bỏ quan niệm, thói quen sùng bái mẫu mực cũ đã ngự trị
trong ý thức người sáng tác và người thưởng thức hàng nghìn năm. Thế
nhưng cuộc đụng độ xảy ra được hiểu với danh nghĩa thơ mới với thơ cũ, giá
trị thơ mới với giá trị thơ cũ. Người ta cơng kích cái dở của thơ cũ cũng như
cái dở của thơ mới, mà khơng đi tìm lí luận của chúng, do đó cuộc cãi vã
khơng có mấy giá trị. Quả là thuật ngữ thơ mới thơ cũ lúc ấy có phần chưa
chính xác, và Hồi Thanh cho đó là cách “nói liều”. Thực chất của phong trào
là đem thơ mới, với tư cách là một thi pháp mới chống lại thi pháp cũ, tức thơ
luật, chứ không phải đem thơ này chống lại thơ kia một cách vơ lí. Đây là hai

vấn đề hồn tồn khác nhau.
Sau hàng loạt cơng trình phê bình, giới thiệu của Đặng Thai Mai, Hồi
Thanh, Xn Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Hồng Trung Thơng,
sau các chuyên luận và bài nghiên cứu của Lê Đình Kị, Nguyễn Đăng Mạnh,
Hà Minh Đức… dành cho sáng tác thơ của Tố Hữu, khơng ít người có cảm
giác, thật khó có thể nói thêm điều gì mới mẻ về lá cờ đầu của nền thi ca hiện
thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cảm giác ấy hồn tồn có cơ sở. Trần Đình
Sử đã chứng minh đầy thuyết phục: thơ Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình
chính trị Việt Nam. Chúng ta đều biết, thơ trữ tình chính trị có đặc điểm
chung là tính đơn nghĩa. Một khi cái nghĩa ấy đã được người đi trước khám
phá, phát hiện, thì người đi sau khó có thể nói được gì hơn. Chắc chắn Trần
Đình Sử đã lường trước được khó khăn ấy khi chọn thơ Tố Hữu làm đối
tượng nghiên cứu. Cho nên, để có thể đưa ra những kết luận mới mẻ, ông đã
phải mở ra một hướng đi mới.
Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử là một cơng trình có ý nghĩa đối
với nghiên cứu thi pháp thơ ở Việt Nam. Trần Đình Sử phân tích, đánh giá kĩ
lưỡng ở nhiều cấp độ khác nhau trên cả hai mặt nội dung và hình thức. Nhưng
19


nghiên cứu tác phẩm của nhà thơ từ góc độ tiếp cận của thi pháp học thì cho
đến nay vẫn cịn là mảnh đất trống. Từ góc độ mới mẻ này, Trần Đình Sử đã
đặt ra và giải quyết hàng loạt vấn đề mà trước nay nghiên cứu văn học ít quan
tâm. Đó là những vấn đề như quan niệm nghệ thuật về con người, không gian
và thời gian nghệ thuật, chất thơ và phương thức thể hiện. Thể tài trong sáng
tác của nhà thơ cũng được nhìn nhận theo một tinh thần mới. Việc khẳng định
giá trị thẩm mĩ của thơ Tố Hữu như đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị Việt
Nam là kết luận có ý nghĩa mạnh bạo đối với tư duy lí luận. Rõ ràng, từ góc
độ thi pháp học, Trần Đình Sử đã mở rộng phạm vi nhận thức của nghiên cứu
văn học trước sáng tác nghệ thuật, qua đó ơng mang đến cho khoa học văn

học một tiếng nói mới mẻ. Cơng trình này đã đánh dấu một bước thay đổi lớn
trong việc nghiên cứu thơ ca cách mạng nói chung và thơ Tố Hữu nói riêng.
Trước đó, thơ ca cách mạng chủ yếu được nghiên cứu ở những phương diện
như nội dung, tính chiến đấu, giá trị tư tưởng và các hình tượng... Tuy nhiên,
giá trị nghệ thuật của một lối tư duy thơ, giọng điệu thơ... của thể loại thơ tình
chính trị thì chưa được nhắc đến. Có thể nói, đây là một trong những cơng
trình nghiên cứu đã thốt khỏi lối mòn của cách tiếp cận xã hội học theo chủ
nghĩa đề tài, phân tích thơ theo lập trường xã hội, thế giới quan. Trần Đình Sử
đã đưa ra những khái niệm của thi pháp hiện đại trong chuyên luận này như:
quan niệm về cơn người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, các
hình thức biểu hiện để xem xét thế giới nghệ thuật của nhà thơ. Ông cho rằng:
“Câu chữ của tác phẩm văn học là kí hiệu thể hiện cho thế giới nghệ thuật
được sáng tạo bằng tinh thần ấy, và thế giới ấy cũng chỉ được bộc lộ trọn vẹn
hình thức nghệ thuật của nó trong thưởng thức, cảm thụ của người đọc, tức là
trong tồn tại tinh thần đích thực của nó. Như vậy, hình thức nghệ thuật không
phải là cấu tạo vật chất bên ngồi mà cịn là hình thức tinh thần của hình
tượng nghệ thuật, như là cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu, khơng khí tác phẩm,
khơng gian, thời gian, nhịp điệu...” [125, tr.6]. Trước Trần Đình Sử, đã có
20


nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu của Đặng Thai Mai, Hoài
Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Hồng Trung Thơng
Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức… và dường như người ta cho rằng sẽ khó
thể viết về Tố Hữu với những điều mới mẻ nữa. Tuy nhiên, cách tiếp cận từ
góc nhìn thi pháp học của Trần Đình Sử đã đem đến một hướng tiếp cận mới
về thơ Tố Hữu. Ơng đã có những phát hiện thú vị về thơ Tố Hữu: “Tố Hữu đã
phát triển tồn diện loại thơ trữ tình điệu nói, kết hợp tài tình điệu nói với các
thể thơ cổ truyền của dân tộc, như lục bát, song thất lục bát, bảy chữ; biến
chúng thành công cụ nhuần nhuỵ để diễn đạt tư tưởng cách mạng hiện đại.

Ông vận dụng thủ pháp vừa hiện đại, vừa cổ kính, nhất là tương phản, ví von,
hơ ứng, trùng điệp, tạo thành tiếng thơ hồn nhiên, say sưa, bay bổng, nhiệt
huyết và âm vang bậc nhất trong thơ trữ tình cách mạng Việt Nam, không lẫn
với bất cứ nhà thơ cách mạng nào khác” [126, tr.266]. Thành cơng của Trần
Đình Sử là ơng đã biết xuất phát từ một quan niệm mới về bản chất và đặc
trưng của văn học, của sáng tạo nghệ thuật để xác định chính xác đối tượng,
chức năng của thi pháp học. Trong Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử,
tác giả đã tìm hiểu những vấn đề đặc trưng của thi pháp học (một hướng thi
pháp học hiện đại do ngành nghiên cứu văn học Nga gợi ý): kiểu tác giả, thể
tài, quan niệm nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ
thuật, phương thức thể hiện. Có thể gọi đó là thi pháp học nội dung, do nó lấy
loại hình nội dung làm nền tảng để lí giải quy luật vận động của mọi hiện
tượng nghệ thuật trong tiến trình văn học.
Trước Trần Đình Sử, hầu như khơng cịn tập thơ, bài thơ có giá trị nào
của Tố Hữu mà chưa được bàn đến, khơng có hình tượng thơ, hay câu thơ hay
nào của ông mà không được phát hiện. Song do ảnh hưởng của những nguyên
tắc phương pháp luận thuộc lối phê bình kiểu cổ và lối nghiên cứu văn học
truyền thống, nhiều cơng trình, bài viết thường dừng lại ở việc mơ tả các loại
hình tượng, phân tích các loại đề tài, chủ đề, hoặc tập trung phát hiện ý sâu,
21


×