Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Một số giải pháp phát huy năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của học sinh trong môn lịch sử tại trường trung học phổ thông lý thường kiệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.71 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN BÁI
TRƯỜNG THPT LÝ THƯỜNG KIỆT

BÁO CÁO SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG MÔN LỊCH SỬ
TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LÝ THƯỜNG KIỆT

Tác giả/đồng tác giả : Nguyễn Ngọc Lan
Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Lý Thường Kiệt

0


Yên Bái, tháng 1 năm 2022
MỤC LỤC
Nội dung

Trang

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT........................................................................2
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN............................................................. 3
1. Tên sáng kiến ...................................................................................................... 3
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến..................................................................................3
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến................................................................................... 3
4. Thời gian áp dụng sáng kiến.................................................................................3
5. Tác giả:................................................................................................................ 3
II. MÔ TẢ SÁNG KIẾN:.........................................................................................3


1. Tình trạng giải pháp đã biết ................................................................................. 3
1.1. Cơ sở lý luận về năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.....................................4
1.2. Thực trạng của dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo Lịch sử
tại trường THPT Lý Thường Kiệt............................................................................ 5
2. Nội dung (các) giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:.....................................6
2.1. Mục đích của (các) giải pháp............................................................................. 7
2.2. Nội dung (các) giải pháp....................................................................................7
2.3. Những điểm khác biệt, tính mới của sáng kiến:................................................18
3. Khả năng áp dụng của giải pháp ........................................................................ 18
4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp....18
5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có).....................21
6. Các thơng tin cần được bảo mật..........................................................................21
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến...................................................... 21
8. Tài liệu gửi kèm ................................................................................................. 22
III. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền............................................ 22

1


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
GV
HS
GDPT
THPT

Chữ cái viết tắt/Ký hiệu

Cụm từ đầy đủ

giáo viên

học sinh
giáo dục phổ thông
trung học phổ thông

2


I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số giải pháp phát huy năng lực giải quyết vấn đề
và sáng tạo của học sinh trong môn Lịch sử tại trường trung học phổ thông Lý
Thường Kiệt
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (Lịch sử)
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Trường THPT Lý Thường Kiệt, và các
trường THPT trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến: từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 12 năm
2021.
5. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Lan
Năm sinh: 1988
Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ cơng tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THPT Lý Thường Kiệt
Địa chỉ liên hệ: Trường THPT Lý Thường Kiệt, số 303 đường Trần Hưng
Đạo, phường Hồng Hà, TP Yên Bái, tỉnh n Bái
Điện thoại: 0987.882.816
II. MƠ TẢ SÁNG KIẾN:
1. Tình trạng giải pháp đã biết (Nêu hiện trạng trước khi áp dụng giải
pháp mới; phân tích ưu nhược điểm của giải pháp cũ để cho thấy sự cần thiết
của việc đề xuất giải pháp mới nhằm khắc phục nhược điểm của giải pháp cũ):
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và phát triển

sự nghiệp giáo dục, tất cả vì một mục tiêu cao cả là vì con người, cho con người,
đặc biệt là “một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có”.
Tổng Bí thư Đỗ Mười đề cao vai trị của giáo dục và giáo dục Lịch sử “Trong
quá trình hội nhập và phát triển, bảo vệ và giữ vững độc lập chủ quyền đất nước
không chỉ thể hiện qua việc xây dựng nền kinh tế, quốc phòng hùng mạnh mà
còn thể hiện qua việc nắm rõ lịch sử nước nhà của thế hệ trẻ. Đó là nền tảng để
chúng ta bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước. Đất nước có phồn vinh, thịnh
vượng và có bảo vệ được độc lập, toàn vẹn chủ quyền (lãnh thổ, lãnh hải, không
phận) hay không, một phần lớn là nhờ vào công học tập của các em”. Thực hiện
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Tổng Bí thư Đỗ Mười, đường
lối lãnh đạo giáo dục của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua chú trọng giáo
dục phát triển toàn diện con người với những phẩm chất và năng lực đáp ứng
3


thời đại, trong đó, có giáo dục Lịch sử. Dạy học theo định hướng phát triển năng
lực không chỉ lấy nội dung kiến thức và kỹ năng làm mục tiêu hướng tới mà cịn
chú trọng hình thành và phát triển năng lực cần có. Trong dạy học theo định
hướng phát triển năng lực, giáo viên là người tổ chức, hỗ trợ HS tự lực và tích
cực lĩnh hội tri thức, thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận, tranh luận, chú
trọng sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp, hợp tác…
Thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp người học lĩnh hội tri thức, kỹ năng và
phương pháp nhận thức, phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Xuất phát từ thực tiễn dạy và học môn Lịch sử tại trường THPT Lý
Thường Kiệt, tôi tập trung nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp phát huy phát
huy năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của học sinh trong môn Lịch sử
nhằm đáp ứng u cầu địi hỏi của cơng cuộc đổi mới giáo dục, đặc biệt là
chương trình phổ thông mới khi năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của học
sinh là một trong những năng lực quan trọng hướng tới hình thành cho học sinh,
từ đó, góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn Lịch sử tại nhà trường.

Xuất phát từ thực tế đó, tơi xin chia sẻ với các đồng nghiệp “Một số giải
pháp phát huy năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của học sinh trong môn
Lịch sử tại trường trung học phổ thông Lý Thường Kiệt”.
1.1. Cơ sở lý luận về năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo là một trong các năng lực cơ bản,
cần thiết cho con người trong xã hội ngày càng phát triển. Năng lực giải quyết
vấn đề và sáng tạo được hình thành và phát triển ở nhiều mơn học khác nhau,
trong đó có mơn Lịch sử. Theo Chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể năm
2018, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo đối với HS cấp THPT được mô tả
như sau:
- “Nhận ra ý tưởng mới: biết xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới và
phức tạp từ các nguồn thơng tin khác nhau; biết phân tích các nguồn thông tin
độc lập để thấy được khuynh hướng và độ tin cậy của ý tưởng mới.
- Phát hiện và làm rõ vấn đề: phân tích được tình huống trong học tập,
trong cuộc sống; phát hiện và nêu được tình huống có vấn đề trong học tập,
trong cuộc sống.
- Hình thành và triển khai ý tưởng mới: nêu được nhiều ý tưởng mới trong
học tập và cuộc sống; suy nghĩ không theo lối mòn; tạo ra yếu tố mới dựa trên
những ý tưởng khác nhau; hình thành và kết nối các ý tưởng; nghiên cứu để thay
đổi giải pháp trước sự thay đổi của bối cảnh; đánh giá rủi ro và có dự phịng.
- Đề xuất, lựa chọn giải pháp: thu thập và làm rõ các thơng tin có liên
quan đến vấn đề; đề xuất và phân tích được một số giải pháp giải quyết vấn đề;
lựa chọn được giải pháp phù hợp nhất.
- Thiết kế và tổ chức hoạt động: lập được kế hoạch hoạt động; tập hợp và
điều phối được nguồn lực cần thiết cho hoạt động; biết điều chỉnh kế hoạch và
4


việc thực hiện kế hoạch phù hợp với hoàn cảnh để đạt hiệu quả cao; đánh giá
được hiệu quả của giải pháp và hoạt động.

- Tư duy độc lập: không chấp nhận thông tin một chiều; không thành kiến
khi xem xét, đánh giá vấn đề; biết quan tâm tới các lập luận và minh chứng
thuyết phục; sẵn sàng xem xét, đánh giá lại vấn đề”.
Trong dạy học Lịch sử, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo được hình
thành và phát triển thông qua các hoạt động phát hiện vấn đề, nêu giả thuyết, ý
kiến cá nhân về sự kiện, nhân vật lịch sử; tìm logic trong cách thức giải quyết
vấn đề; vận dụng bài học kinh nghiệm lịch sử trong thực tế cuộc sống…
1.2. Thực trạng của dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo Lịch sử tại trường THPT Lý Thường Kiệt
Việc học tập mơn Lịch sử là q trình nhận thức biến những kiến thức
khoa học Lịch sử tích luỹ từ nhiều thế hệ của nhân loại, được lựa chọn thành
kiến thức của chính mình. Trong q trình học tập, giải quyết vấn đề và sáng tạo
là nội dung quan trọng thể hiện sự chiếm lĩnh kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ
được giao của học sinh để nắm vững kiến thức Lịch sử một cách chính xác. Vấn
đề phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của học sinh đã được giáo
viên môn Lịch sử tại trường THPT Lý Thường Kiệt quan tâm chú trọng, trong
quá trình thực hiện hướng dẫn học sinh học tập tại nhà trường có những ưu điểm
và hạn chế như sau:
a. Ưu điểm
Mặc dù cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều hạn chế nhưng giáo viên
môn Lịch sử trường THPT Lý Thường Kiệt đã khơng ngừng phấn đấu để hồn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ và đặc biệt là chú trọng nhất về nâng cao chất
lượng dạy và học trong nhà trường. Giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng
chuyên môn; tổ chuyên môn hoạt động hiệu quả, thường xuyên trao đổi kinh
nghiệm trong quá trình thực hiện hoạt động dạy học tích cực nên nắm vững cách
thực hiện đổi mới phương pháp dạy, dạy học theo chương trình sách giáo khoa
mới, dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học; đổi mới cách đánh giá
học sinh, coi trọng sự tiến bộ của học sinh. Đội ngũ giáo viên đều đạt chuẩn đảm
bảo khả năng thực hiện hoạt động dạy học tích cực. Hầu hết các giáo viên và học
sinh đã có nhận thức đúng về vấn đề phát triển năng lực phát hiện và giải quyết

vấn đề, thấy được tầm quan trọng của việc phát triển năng lực phát hiện và giải
quyết vấn đề trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông.
Ban giám hiệu luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao, góp phần nâng cao hiệu
quả chất lượng dạy học môn Lịch sử tại nhà trường.
b. Một số hạn chế và nguyên nhân hạn chế:
Việc dạy học phát triển năng lực nói chung và phát triển năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo nói riêng của học sinh trong mơn Lịch sử cịn một số
tồn tại như sau: Đại bộ phận học sinh chỉ học thuộc kiến thức nhưng không
5


tường minh vì vậy khơng biết kết nối các kiến thức đã có để học kiến thức mới.
Học chỉ để đối phó với thi cử và kiểm tra, cho nên ý thức giải quyết vấn đề và
sáng tạo chưa trở thành động lực trong học tập, chưa chủ động học để làm phong
phú thêm kiến thức Lịch sử cho bản thân. Học sinh rất ít khi trình bày ý kiến của
mình vì cho rằng kiến thức của mình cịn yếu kém, hoặc khơng tự tin để trình
bày. Do quan niệm mơn chính mơn phụ nên việc học tập mơn Lịch sử hầu như
không được chú trọng, các em chủ yếu học bài ở vở ghi và sách giáo khoa.
Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Trước hết, phải thừa nhận rằng, nội dung học môn Lịch sử hiện nay khó
và mức độ hấp dẫn khơng cao. Ðã là Lịch sử, nhất thiết phải gắn với sự kiện,
nhân vật và hiểu Lịch sử nhất định phải nắm vững những sự kiện, nhân vật cơ
bản, quan trọng trong suốt quá trình hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta.
Thứ hai, chương trình do Bộ Giáo dục và Ðào tạo quy định là yêu cầu học
sinh phải nắm được hầu như tất cả các nội dung về Lịch sử Việt Nam và Lịch sử
thế giới. Tuy có đổi mới trong q trình dạy học và kiểm tra, đánh giá, thi THPT
Quốc gia trong những năm gần đây nhưng những nội dung học vẫn tương đối
nặng, nhiều nội dung vẫn cần phải ghi nhớ.
Thứ ba, do yêu cầu của chương trình, nội dung trong sách giáo khoa q

nặng, ơm đồm, thiếu tính chọn lọc, thậm chí một số nội dung thiếu tính liên kết
và lơgic. Nội dung trong sách giáo khoa như một “đĩa nén”, đầy ắp thông tin mà
học sinh không thể nhớ hết được, dẫn đến tình trạng “học trước quên sau”.
Thứ tư, nhiều giáo viên vẫn nặng quan điểm cho rằng Lịch sử là một môn
phụ, cho nên giáo viên dạy môn Lịch sử chưa tập trung cải tiến nội dung,
phương pháp giảng dạy. Tình trạng “dạy chay”, bắt học thuộc lịng một cách
máy móc vẫn là tình trạng phổ biến.
Thứ năm, một bộ phận xã hội hiện nay chưa coi trọng môn Lịch sử và
ngành Lịch sử. Q trình cơng nghiệp hóa của đất nước đã hướng mọi người lựa
chọn các ngành phục vụ cho sản xuất công nghiệp với nhiều cơ hội nghề nghiệp.
Điều đó tạo ra một sự chuyển biến đối với học sinh phổ thông. Học sinh cố học
tốt những mơn Khoa học tự nhiên (Tốn, Vật lý, Hố học, Sinh học) để có thể
thi đỗ vào các ngành nghề dễ tìm việc làm. Để tập trung học tốt các môn tự
nhiên, nhiều bạn đã chọn biện pháp xem nhẹ các môn Khoa học xã hội, đặc biệt
là môn Lịch sử. Vì vậy, các bạn thường lơ là trong việc học và kết quả là chất
lượng học tập Lịch sử khơng cao. Ngồi ra, các ngành nghề có mơn Lịch sử
khơng nhiều lựa chọn và khi ra trường thì sinh viên sẽ ít cơ hội nghề nghiệp hơn.
Những vấn đề trên đã tác động rất lớn đến tâm lý các em học sinh, các bạn trẻ ít
chú ý và hướng đến việc ôn luyện và trau dồi kiến thức lịch sử, khiến cho môn
Lịch sử không được coi trọng.
2. Nội dung (các) giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
6


2.1. Mục đích của (các) giải pháp: (nêu vấn đề cần giải quyết)
Nhằm nghiên cứu thực trạng trong dạy học môn Lịch sử ở Trường THPT
Lý Thường Kiệt. Đề xuất một số giải pháp thực hiện có hiệu quả phát huy năng
lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của học sinh trong môn Lịch sử tại trường
trung học phổ thơng Lý Thường Kiệt, góp phần nâng cao hứng thú học tập mơn
Lịch sử nói riêng và nâng cao chất lượng dạy học nói chung. Phát triển hệ thống

các năng lực chung và năng lực riêng biệt, đặc biệt là năng lực phát hiện và giải
quyết vấn đề cho học sinh trong dạy học bộ môn Lịch sử, đề xuất các biện pháp
phù hợp để năng lực người học phát triển ở mức cao nhất.
2.2. Nội dung (các) giải pháp
* Xuất phát từ thực tiễn công tác dạy học Lịch sử, để nâng cao hiệu
quả phát huy năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo nói riêng và nâng cao
chất lượng dạy học môn Lịch sử tại các trường trung học phổ thông, áp
dụng các giải pháp sau:
2.2.1. Vận dụng hiệu quả phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
Dạy học giải quyết vấn đề là cách thức tổ chức dạy học, trong đó học sinh
được đặt trong một tình huống có vấn đề mà bản thân học sinh chưa biết cách
thức, phương tiện (tri thức, kĩ năng…) cần phải nỗ lực tư duy để giải quyết vấn
đề.
Để sử dụng phương pháp này cần: tạo ra tình huống có vấn đề phù hợp,
hiệu quả (cả cho cá nhân, nhóm); thời gian đủ để nhận biết, lập kế hoạch và thực
hiện, kết luận nhất là với vấn đề dành cho nhóm; đảm bảo một số phương tiện
thực hiện giải quyết vấn đề nhất là với các vấn đề cần khảo sát, thí nghiệm...
Các giai đoạn của dạy học giải quyết vấn đề: Giai đoạn 1: Nhận biết vấn
đề (Học sinh tiếp cận tình huống có vấn đề được gợi ý hoặc giáo viên kích thích
học sinh tự tạo ra tình huống có vấn đề). Giai đoạn 2: Lập kế hoạch giải quyết
vấn đề (Học sinh đề xuất giả thuyết giải quyết vấn đề, đưa ra các phương án và
lập kế hoạch giải quyết vấn đề). Giai đoạn 3: Thực hiện kế hoạch (Đánh giá việc
thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề). Giai đoạn 4: Kiểm tra, đánh giá và kết
luận (Học sinh rút ra kết luận về cách giải quyết vấn đề, từ đó lĩnh hội được tri
thức, kĩ năng hoặc vận dụng được kiến thức, kĩ năng để giải quyết vấn đề trong
thực tiễn).
Như vậy, có thể thấy phương pháp dạy học giải quyết vấn đề có các thành
tố trình bày giải quyết vấn đề, tình huống có vấn đề và bài tập có vấn đề.
2.2.1.1. Trình bày giải quyết vấn đề:
Trình bày giải quyết vấn đề là giáo viên đặt ra cho học sinh câu hỏi cần

phải giải quyết mới mẻ trong những nội dung mà học sinh chưa hề biết đến. Sau
đó giúp học sinh tìm ra được bản chất sâu bên trong của các sự kiện, hiện tượng
và nhân vật lịch sử và dựa vào kiến thức mà thầy cơ giáo trình bày cộng với
7


những gì mà học sinh có được như kiến thức, kĩ năng, kỹ xảo để đưa ra kết luận
cuối cùng.
2.2.1.2. Tăng cường dạy học tình huống có vấn đề trong thực tiễn
giảng dạy môn Lịch sử
Phương pháp dạy học bằng tình huống gồm có ba thành phần có liên quan
mật thiết với nhau. Thứ nhất: Nội dung của tình huống cần nêu bật các vấn đề
được đặt ra mang tính thực tiễn cao, có tính logic của vấn đề cần được mang ra
phân tích, đánh giá cụ thể. Thứ hai: Phân tích tình huống, từ các vấn đề nêu ra
trong tình huống học sinh xây dựng các câu hỏi cụ thể về các vấn đề cần giải
quyết, cần quan tâm, cách thức giải quyết vấn đề trong tình huống. Thứ ba: Thảo
luận tình huống, nêu ra các giải pháp để giải quyết các vấn đề gắn với nội dung
môn học.
Giai đoạn thứ nhất khá quan trọng và đòi hỏi giáo viên cần chuẩn bị hết
sức kỹ lưỡng, trong đó nổi bật nhất là nêu được vấn đề hay, mang tính thời sự
cao để hấp dẫn học sinh. Vấn đề nêu ra cần có liên hệ sâu với nội dung bài giảng
mơn học.
Giai đoạn thứ hai, học sinh bắt đầu nhóm họp theo các nhóm nhỏ - nhằm
phân tích chủ đề, đưa ra các câu hỏi và giả thiết đầu tiên, phân chia nhiệm vụ
cho các thành viên nhóm.
Giai đoạn 3, các thành viên làm việc độc lập theo nhiệm vụ đã được phân
chia. Kết thúc giai đoạn 3, từng cá nhân sẽ giới thiệu thành quả làm việc trong
nhóm.Cuối cùng mỗi cá nhân tự viết một bản báo cáo. Kèm theo các giai đoạn
này thường có các buổi hội thảo trong một nhóm lớn, hoặc các hoạt động thực tế.
Việc thảo luận trong nhóm là bắt buộc đối với tất cả các cá nhân, nó khơng

những giúp học sinh phát triển được khả năng giao tiếp và các kỹ năng xã hội
mà cịn phát triển được q trình nhận thức (đọc hiểu, phân tích, đánh giá,…)
Các bước cụ thể cần tiến hành:
Bước 1: Giáo viên cần xác định mục tiêu của buổi học, xác định nội dung
kiến thức cần truyền đạt về mặt lý thuyết sẽ được cung cấp cho học sinh thơng
qua việc áp dụng những tình huống gì là phù hợp, điều đó có ý nghĩa học sinh sẽ
tiếp thu được điều gì sau buổi lên lớp. Điều quan trọng là tại buổi học đầu tiên
của môn học, giáo viên cần nói rõ cho học sinh biết sẽ sử dụng và yêu cầu học
sinh nghiên cứu những tình huống nào, thuộc chương nào hoặc chủ đề nào của
môn học để học sinh có thể chuẩn bị trước.
Bước 2: Lựa chọn tình huống: Tùy vào từng bài học, kiến thức mà giáo
viên mong muốn các học sinh nhận được mà đưa ra các tình huống phù hợp với
mục tiêu của mình. Tình huống giáo viên đưa vào bài học có thể do giáo viên tự
xây dựng hoặc có thể sử dụng tình huống từ nguồn tài liệu khác, điều quan trọng
là tình huống đó phải bám sát vào nội dung và mang tính thực tiễn cao, phù hợp
với người học.
8


Bước 3: Gợi ý các hướng giải quyết. Giáo viên cần cung cấp các kiến thức
về mặt lý thuyết có liên quan đến tình huống đưa ra, giáo viên cần thiết phải giải
thích thật chi tiết tình huống để học sinh hiểu rõ các vấn đề cần giải quyết. Xác
định nhiệm vụ và vai trò của học sinh tham gia vào tình huống đó.
Bước 4: Xây dựng các câu hỏi thảo luận. Khi đưa ra tình huống nhất thiết
phải có các câu hỏi kèm theo để gợi ý cho học sinh thảo luận. Câu hỏi đưa ra
cho học sinh phải được chuẩn bị cẩn thận nhưng tránh đi vào kết luận chính. Nó
chỉ giúp học sinh đi vào nội dung chính về tình huống đề cập đến, hướng dẫn
học sinh tham gia vào tình huống và ngay cả khi học sinh khơng có một sự
chuẩn bị nào cũng có thể tham gia thảo luận được.
Bước 5: Phân cơng các nhóm để giải quyết tình huống khoảng 6 – 8 học

sinh/nhóm. Các nhóm được phân cơng dựa trên sự khách quan để lập danh sách
và công khai trước lớp.
Bước 6: Báo cáo tình huống, việc thảo luận hoặc báo cáo nhóm. Giáo viên
có thể bổ sung thêm các câu hỏi cho nhóm trình bày, học sinh thảo luận các câu
hỏi có liên quan. Mỗi học sinh sẽ đóng góp ý kiến của mình về tình huống đưa
ra. Các học sinh trong các nhóm cịn lại có thể trao đổi, thảo luận để phân tích
làm rõ thêm những vấn đề đã đượcnêu ra trong tình huống, giải quyết các câu
hỏi khác mà giáo viên đặt ra thêm trong tình huống.
Bước 7: Giáo viên tổng kết, nhận xét và đánh giá các nhóm, rút ra kết
luận các giải pháp có liên quan đến nội dung lý thuyết môn học. Sau khi ghi
nhận các ý kiến của các nhóm, từng thành viên trong nhóm, giáo viên sẽ dựa vào
đó đánh giá vấn đề đang thảo luận. Có thể có những vấn đề khơng mang lại kết
quả như mong muốn, có những vấn đề có kết quả đúng sai rõ ràng, nhưng giáo
viên sẽ là người chịu trách nhiệm đưa ra kết luận cuối cùng về tình huống đó để
giúp học sinh có thể hiểu rõ hơn cách thức giải quyết của mình.
2.2.1.3. Xây dựng bài tập trong dạy học giải quyết vấn đề
Bài tập Lịch sử là bài tập gồm có dữ kiện và yêu cầu (dưới dạng câu hỏi),
đặt HS trước nhiệm vụ nhận thức vấn đề và tìm cách giải quyết vấn đề mà ngay
tại thời điểm đó HS chưa biết lời giải. Để đạt mục đích này, HS phải dựa trên cơ
sở những dữ kiện đã cho và dựa vào những tri thức, kỹ năng sẵn có để hồn
thành nhiệm vụ được giao. Việc giải quyết bài tập giúp HS lĩnh hội kiến thức
mới, phát triển năng lực nhận thức, năng lực tư duy và năng lực giải quyết vấn
đề và sáng tạo. Bài tập và câu hỏi có quan hệ với nhau, bài tập có thể nêu dưới
dạng câu hỏi, nhưng không phải tất cả các câu hỏi đều là bài tập Lịch sử. Xét về
chức năng dạy học, bài tập và câu hỏi đều là phương tiện tổ chức hoạt động
nhận thức, dùng để kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của HS. Tuy nhiên, xét
về cấu trúc, giữa bài tập và câu hỏi có sự khác nhau, nếu như câu hỏi chỉ có yêu
cầu đặt ra để HS trả lời, còn bài tập bao gồm dữ kiện cho trước và yêu cầu để
giải quyết bài tập, HS phải căn cứ vào dữ kiện cho trước và kiến thức đã học để
9



tìm ra câu trả lời. Ngày nay, trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát triển năng lực cho HS, theo hướng lĩnh hội sáng tạo hơn là lĩnh hội
tái tạo, các câu hỏi cũng phải đảm bảo yêu cầu như: câu hỏi phải rõ ràng, câu hỏi
khơng chỉ dừng lại ở “đúng – sai, có – không”, mà các câu hỏi phải đặt ra vấn đề
cho HS, kích thích hứng thú học tập cho HS, câu hỏi phải đảm bảo tính vừa sức
và phù hợp với trình độ HS. Vì vậy, có thể thấy, câu hỏi có thể là bài tập nhưng
khơng phải tất cả các câu hỏi đều là bài tập, câu hỏi chỉ trở thành bài tập khi
chứa đựng “vấn đề”, đặt HS mâu thuẫn giữa cái biết – nhu cầu cần biết, buộc HS
phải động não để giải quyết vấn đề.
Mở đầu bài học (hay mở đầu một chủ đề, chuyên đề học tập) là khâu đầu
tiên của quá trình dạy học, là bước quan trọng giúp HS tập trung chú ý vào nội
dung bài học, tạo hứng thú học tập cho HS. Trong dạy học Lịch sử, việc tạo
hứng thú học tập cho HS bằng cách sử dụng tình huống có vấn đề là một trong
những biện pháp kích thích tư duy, thúc đẩy sự tìm tịi, khám phá của HS. Tình
huống có vấn đề trong lịch sử là sự trở ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện
khi người đó chưa biết cách giải thích hiện tượng, nhân vật, sự kiện ngay tại thời
điểm đó, địi hỏi người học phải tìm tịi, khám phá. Sử dụng bài tập tạo ra tình
huống có vấn đề, đặt HS trước một khó khăn, một mâu thuẫn giữa biết và chưa
biết, buộc HS phải tích cực hoạt động, tích cực tư duy để tìm ra câu trả lời. Việc
tạo tình huống vào đầu giờ học phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ
bài học, phù hợp với trình độ nhận thức của HS; đồng thời cũng phải nêu ra
được những nhiệm vụ cụ thể để HS thực hiện.
Sử dụng bài tập Lịch sử khi tổ chức hoạt động khám phá: Bài tập khơng
chỉ được sử dụng vào đầu giờ học mà cịn được sử dụng vào giữa giờ học nhằm
giúp HS lĩnh hội tri thức và kỹ năng. Trong quá trình thực hiện bài tập, người
học sẽ huy động tri thức và khả năng cá nhân, trao đổi, phân tích các dữ liệu,
thông tin cho trước, thảo luận với bạn bè để tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt
nhất. Thơng qua việc giải quyết vấn đề, giúp người học lĩnh hội tri thức, kỹ năng

và phương pháp nhận thức, phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Sử dụng bài tập lịch sử khi khi tổ chức hoạt động luyện tập, củng cố: Để
củng cố bài học trên lớp, giáo viên cũng có thể sử dụng bài tập bằng cách giao
cho HS bài tập về nhà, bài tập khắc sâu kiến thức. Thông qua các bài tập, giáo
viên củng cố kiến thức đã học cho HS, kiểm tra tình hình lĩnh hội kiến thức,
đồng thời giáo viên có thể hiểu rõ việc học tập của HS, có cơ sở thực tế để đánh
giá kết quả học tập của HS, phát hiện những thiếu sót trong kiến thức, kỹ năng,
để kịp thời sửa chữa, bổ sung.
2.2.2. Áp dụng linh hoạt dạy học dự án
Thuật ngữ dự án được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự
thảo hay một kế hoạch. Khái niệm dự án đã đi từ lĩnh vực kinh tế, xã hội vào
lĩnh vực giáo dục, đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục
10


mà còn được sử dụng như một phương pháp hay hình thức dạy học. Dạy học
theo dự án là một phương pháp mà ở đó giáo viên lấy hoạt động của học sinh
làm trung tâm, giáo viên sẽ là người hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức, đặc
biệt là phát triển các kĩ năng cần thiết để phát triển năng lực người học để học
sinh giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy học theo dự án còn được coi như một
bài tập mang tính phức hợp, sau đó học sinh dựa vào nội dung của môn học sử
dụng những kiến thức mình có được để giải quyết vấn đề. Cũng giống như các
phương pháp khác ngoài những ưu điểm cịn có những hạn chế: Người học cần
đầu tư rất nhiều thời gian để tìm hiểu nghiên cứu, nếu như đầu tư quá nhiều vào
một vấn đề nào đó sẽ khơng thể tìm hiểu được nhiều vấn đề khác. Cho nên trong
q trình dạy học người giáo viên khơng thể coi dạy học theo dự án là phương
pháp chính mà chỉ coi như một phương pháp hỗ trợ cho các phương pháp khác,
đồng thời, áp dụng linh hoạt dạy học dự án. Hơn nữa dạy học theo dự án đòi hỏi
có cơ sở vật chất, tài chính phù hợp mà những điều đó khơng phải tất cả các
trường đều đáp ứng được.

Tiến trình dạy học theo dự án được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị cho dự án. Giáo viên giúp học sinh soạn kế hoạch để
tiến hành thực hiện dự án, đưa ra những công việc cần làm gì, rồi phân cơng
cơng việc cho các thành viên trong nhóm, chú ý đến thời gian dự kiến hồn
thành, tài chính, phương tiện, cách thức tiến hành để hồn thành cơng việc.
Bước 2: Triển khai dự án: tiến hành tìm kiếm thơng tin, xử lý và lựa chọn
thơng tin, tổng hợp thơng tin chính xác. Học sinh tiến hành tìm kiếm thơng tin,
tài liệu liên quan đến dự án qua các kênh thông tin như báo, đài, mạng, phát
phiếu điều tra,… để tìm các câu trả lời cho câu hỏi trong dự án. Dựa trên những
thông tin vừa tìm kiếm được học sinh phải xử lý số liệu, phải biết lựa chọn
những thông tin đúng, sai. Lưu ý khi sử dụng số liệu các thành viên trong nhóm
phải tương tác, bàn luận, trao đổi với nhau để đưa ra dữ liệu cuối cùng. Nếu khó
khăn thì nhờ sự trợ giúp của giáo viên để hồn thành.
Bước 3: Trình bày và đánh giá kết quả dự án. Trình bày dự án: sau khi
làm xong ba bước trên cuối cùng học sinh trình bày kết quả. Có nhiều cách thức
để trình bày kết quả của dự án như: thuyết trình trực tiếp, sử dụng powerpoit,
triển lãm tranh ảnh,… Sản phẩm có thể được trình bày ở bất cứ chỗ nào nhưng
phải phù hợp với nội dung bài học và điều kiện của học sinh. Đánh giá kết quả
là bước cuối cùng: tiến hành đánh giá kết quả về dự án của mình có thể là các
thành viên trong một nhóm tự đánh giá hoặc nhóm này đánh giá nhóm kia và
ngược lại. Giáo viên sẽ đưa ra kết luận đánh giá cuối cùng với những tiêu chí đạt
được mục tiêu của bài học chưa? Ưu điểm và hạn chế ? Có thiếu xót gì khơng…
để học sinh rút ra những bài học kinh nghiệm từ việc thực hiện dự án.
Bước 4: Rút kinh nghiệm cho việc thực hiện dự án và chuẩn bị ý tưởng
cho dự án tiếp theo.
11


Như vậy trong quá trình dạy học theo dự án học sinh hồn tồn có thể lựa
chọn chủ đề của dự án, nhưng yêu cầu dự án đó phải có triển vọng, mang tính

cấp thiết cho nên học sinh phải thực sự nghiêm túc khi làm việc. Khi bắt tay vào
thực hiện dự án, các thành viên trong nhóm đều phải có trách nhiệm và phải có
chính kiến để thể hiện các sáng kiến của mình trong việc lựa chọn dự án.
2.2.3. Sử dụng phương pháp tranh luận Lịch sử hiệu quả
Sử dụng phương pháp tranh luận trong dạy học Lịch sử giúp học sinh tích
cực, chủ động trong quá trình học tập của mình. Khi học sinh tiến hành tranh
luận sẽ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, độc lập, từ đó phát triển năng lực
giải quyết vấn đề. Phương pháp tranh luận khi giáo viên đặt ra một vấn đề chứa
đựng những mâu thuẫn, sau đó giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, trao đổi,
tranh luận về vấn đề đó. Bằng những kiến thức mình có được, học sinh đưa ra
những lập luận, quan điểm, dẫn chứng để bảo vệ ý kiến của mình đưa ra là đúng
và bác bỏ quan điểm của người khác, để giải quyết vấn đề mâu thuẫn đó. Khi sử
dụng phương pháp tranh luận sẽ giúp người học giải quyết vấn đề thông qua
việc chỉ ra mâu thuẫn giữa các quan điểm khác nhau trong một vấn đề nào đó.
Tiến hành tranh luận học sinh cùng nhau thảo luận, bàn bạc đưa ra một quan
điểm, ý kiến, câu trả lời đồng nhất để cùng nhau giải quyết vấn đề đặt ra. Ngoài
ra sử dụng phương pháp tranh luận trong dạy học Lịch sử giúp các em phát huy
tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo khi đứng trước một tình huống, sự kiện
lịch sử, nhân vật lịch sử cần được giải quyết.
Để phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo nếu sử dụng phương
pháp tranh luận mang lại nhiều ưu điểm lớn: Thứ nhất, sử dụng phương pháp
tranh luận vào dạy học bộ môn Lịch sử, khi tiến hành tranh luận một vấn đề nào
đó để bảo vệ quan điểm của mình học sinh phải có kiến thức sâu rộng, hiểu rõ
bản chất của vấn đề. Việc đó sẽ tạo điều kiện cho học sinh có thể hệ thống hóa
kiến thức, tìm hiểu những kiến thức khác liên quan đến vấn đề, hơn nữa kiến
thức Lịch sử có thể sử dụng để giải thích cho những gì đang xảy ra ở hiện tại.
Thơng qua q trình đó học sinh phần nào được rèn luyện năng lực phát hiện và
giải quyết vấn đề. Thứ hai, tổ chức hoạt động nhóm để tiến hành tranh luận, học
sinh có sự tương tác khi làm việc với nhau, tăng khả năng giao tiếp. Trong quá
trình tranh luận, học sinh được trình bày nơi đơng người làm cho các em tự tin,

khả năng hùng biện, trau dồi được vốn từ của mình.
Khi tiến hành sử dụng phương pháp tranh luận trong dạy học bộ môn Lịch
sử cần phải tuân thủ các bước sau:
Bước 1, xác định đúng vấn đề tranh luận. Đây là một bước quan trọng vì
nếu xác định được vấn đề tranh luận của bài học giúp học sinh tránh xa rời mục
tiêu bài học, nắm được những vấn đề cần phải giải quyết trong bài học. Giáo
viên đưa ra yêu cầu mục tiêu cần đạt được trên ba phương diện kiến thức, năng
lực, phẩm chất của bài học để tranh luận đạt hiệu quả.
12


Bước 2, lập ra kế hoạch tổ chức tranh luận. Khi tiến hành lập ra kế hoạch
phải chính xác, chi tiết, rõ ràng, để tiết học diễn ra theo đúng như dự kiến. Giáo
viên đưa ra các câu hỏi mang tính chất gợi mở để học sinh tranh luận, yêu cầu
của câu hỏi phải có sự mâu thuẫn về nhận thức để học sinh tranh luận.
Bước 3, tổ chức tranh luận. Giáo viên đưa ra vấn đề tranh luận, lưu ý câu
hỏi phải chứa đựng mâu thuẫn về nhận thức để lôi cuốn, thu hút học sinh tham
gia vào vấn đề tranh luận, từ đó người học mới có thể giải quyết vấn đề được đặt
ra. Giáo viên sẽ chủ trì để tổ chức học sinh đưa ra quan điểm, cách nhìn nhận
vấn đề của mình và giữa các học sinh có thể đưa ý kiến phản biện với nhau.
Cách thức tiến hành có thể có những hình thức như sau: Thứ nhất, tranh luận
theo nhóm. Ví dụ, giáo viên có thể tổ chức tranh luận cho các em về một nhân
vật lịch sử như trong chương trình lịch sử lớp 10, nhân vật Hồ Quý Ly trong dạy
học bài 19. Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X-XV, nhân
vật Mạc Đăng Dung trong dạy học bài 21. Những biến đổi của nhà nước phong
kiến trong các thế kỷ XVI-XVIII; trong chương trình Lịch sử 11, nhân vật
A.Hitle trong dạy học chủ đề “Đức và Nhật Bản giữa hai cuộc chiến tranh thế
giới (1918-1939)” và bài 17. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)… Thứ
hai, tranh luận giữa cá nhân học sinh với nhau. Thứ ba, tranh luận giữa giáo viên
với học sinh. Mỗi hình thức tranh luận đều có ưu thế vượt trội riêng địi hỏi để

sử dụng có hiệu quả, u cầu giáo viên phải nắm vững lí luận và kĩ thuật tổ chức
của từng hình thức. Hơn nữa, giáo viên phải là người hiểu sâu sắc nhất đối tượng
học sinh và nội dung kiến thức để lựa chọn hình thức tranh luận sao cho phù hợp
nhất.
Bước 4: giáo viên chốt lại những vấn đề cơ bản, trọng tâm. Sau khi tranh
luận kết thúc, giáo viên tổng hợp quan điểm của các nhóm, cá nhân rồi khái qt
tồn bộ vấn đề chốt lại những vấn đề cơ bản, trọng tâm để gợi mở tư duy cho
học sinh. Bên cạnh đó sẽ rút ra được những nhận xét và đánh giá câu trả lời.
Cuối cùng giáo viên chốt vấn đề tranh luận. Bên cạnh đó giáo viên sẽ khen
thưởng, động viên các nhóm, cá nhân làm tốt và các nhóm làm chưa tốt.
2.2.4. Hướng dẫn học sinh tự ôn tập, kiểm tra
Trong quá trình học tập nói chung và học tập bộ mơn Lịch sử nói riêng
việc tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một trong những khâu
quan trọng trong quá trình lĩnh hội tri thức. Việc tự kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh trong học tập bộ môn Lịch sử là khi tự mình đi tìm hiểu,
lập ra kế hoạch để giải quyết, sau đó tiến hành q trình thu thập và xử lý thơng
tin để hồn thiện vấn đề cần được giải quyết. Bước cuối cùng tiến hành kiểm tra
đánh giá kết quả mình đã lĩnh hội được.
a. Hướng dẫn học sinh tự ơn tập:
Có nhiều biện pháp hướng dẫn học sinh tự ơn tập trong đó ơn tập lơgic là
biện pháp khả thi và đạt hiệu quả cao nhất, giúp học sinh có hứng thú với mơn
13


học, giảm yếu tố ghi nhớ một cách máy móc. Trong đó, các biện pháp hướng
dẫn học sinh tự ơn tập một cách lơgic gồm có:
- Lập bảng niên biểu: Niên biểu hệ thống hóa các sự kiện theo thời gian,
đồng thời nêu lên mối quan hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều
nước trong một thời kỳ. Niên biểu giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức, ghi nhớ
kiến thức một cách tuần tự, lôgic. Đồng thời học sinh có thể so sánh được các sự

kiện để rút ra bản chất sự khác biệt giữa chúng. Ôn tập bằng cách lập bảng niên
biểu giúp học sinh nắm vững kiến thức sâu sắc, toàn diện, hệ thống.
- Vẽ sơ đồ: Xây dựng sơ đồ, mơ hình hóa nội dung học tập chính là việc
kết nối các sự kiện lịch sử với nhau theo lôgic phát triển bên trong của kiến thức
Lịch sử. Sơ đồ nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng mơ hình, hình học đơn
giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa
các sự kiện lịch sử…
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tự ôn tập kiến thức theo phương
pháp Graph (hay sơ đồ), tức là hệ thống hóa các kiến thức cần ơn tập thành một
hệ thống lơgic. Sơ đồ có tác dụng to lớn trong việc tái hiện, tổng kết và khái quát
hóa kiến thức.
- Lập đề cương trống, ghi tóm tắt: Lập đề cương trống chi tiết, trình bày
dưới dạng phân nhánh hay lập dưới dạng dàn bài đều chung một mục đích là sắp
xếp những nội dung cơ bản nhất theo một trình tự kiến thức phù hợp, lơgic, dễ
nhớ và dễ hiểu, khi cần có thể tóm tắt hoặc trình bày lại.
Đề cương trống, lập dàn ý có thể giúp học sinh thống kê lại những kiến
thức đã được học trên lớp một cách hệ thống để thuận lợi cho q trình ơn tập.
Đề cương phải đề cập đến các nội dung cơ bản nhất của bài học.
- Thiết kế thẻ nhớ nhân vật Lịch sử: Trong q trình ơn tập kiến thức Lịch
sử, bên cạnh việc cần phải ghi nhớ những mốc thời gian, sự kiện Lịch sử, học
sinh còn cần phải ghi nhớ những nhân vật Lịch sử tiêu biểu của từng bài. Do vậy,
hướng dẫn học sinh cách ghi nhớ các nhân vật Lịch sử cũng là một nội dung
quan trọng trong quá trình hướng dẫn học sinh tự ơn tập ngồi giờ lên lớp.
Thẻ nhớ là một loại công cụ học tập được thiết kế và in rời dưới dạng văn
bản nhằm hỗ trợ học sinh trong việc ghi nhớ các nhân vật, sự kiện, khái niệm
một cách lôgic. Sau mỗi bài, mỗi chương, giáo viên hướng dẫn học sinh lựa
chọn các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, các khái niệm cơ bản để lập thẻ nhớ,
phục vụ cho quá trình ôn tập của học sinh.
Với việc hướng dẫn học sinh ghi nhớ lôgic các sự kiện lịch sử bằng cách
lập bảng niên biểu, vẽ sơ đồ mơ hình hóa kiến thức, lập đề cương và thiết kế thẻ

nhớ nhân vật lịch sử, giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức kiểm tra khác
nhau để đánh giá mức độ hiệu quả của các biện pháp này. Sau khi đã hướng dẫn
học sinh ơn tập, giáo viên có thể kiểm tra bằng cách yêu cầu học sinh hoàn thành
nội dung của những bảng niên biểu trống, hoặc đưa hình thức lập bảng niên biểu,
14


vẽ sơ đồ vào trong các bài kiểm tra 15 phút, 45 phút… Bên cạnh đó, giáo viên
cũng có thể yêu cầu học sinh thiết lập các bảng niên biểu, sơ đồ, thẻ nhớ phù
hợp với nội dung mỗi bài học và tập hợp lại thành tài liệu học tập để sử dụng
trong giờ học ôn tập, tổng kết. Qua đó giáo viên có thể đánh giá hiệu quả q
trình ôn tập và sự tiến bộ của học sinh.
b. Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra
Để nâng cao khả năng việc tự kiểm tra, đánh giá cho học sinh trong việc
học tập bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông, giáo viên có nhiều cách để hướng
dẫn học sinh tiến hành kiểm tra, đánh giá đó là học sinh tự mình kiểm tra, đánh
giá ở trên lớp hay có thể được tiến hành ở nhà.
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh có vai trị to lớn
nhằm phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề cho học sinh trong dạy
học bộ môn Lịch sử vì: Thứ nhất, nếu sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của học sinh diễn ra thường xuyên, liên tục làm cho các em củng
cố được bài học, từ đó sẽ hệ thống hóa được các kiến thức có được, sử dụng kiến
thức cũ để tiếp thu kiến thức mới. Sau đó học sinh chọn lọc những kiến thức đã
học được để giải quyết vấn đề Lịch sử cần làm rõ. Thứ hai, là giáo viên không
tạo áp lực, đặt nặng vấn đề tự kiểm tra, đánh giá để học sinh thực hiện việc tự
kiểm tra, đánh giá với tinh thần thoải mái, nhiệt tình, tích cực làm cho các em
đánh giá được mức độ lĩnh hội kiến thức và khả năng học tập của mình, khi gặp
một tình huống, một sự việc mà cần học sinh phải tự mình đưa ra quyết định mọi
việc. Đứng trước một tình huống, sự việc như vậy địi hỏi các em phải năng
động, tư duy, sáng tạo để giải quyết vấn đề, thơng qua đó học sinh phát triển

được năng lực giải quyết vấn đề.
Có nhiều hình thức hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá như sử dụng
các ứng dụng, phần mềm như Hot Potatoes, Azota, K12oline, Online Math…
Giáo viên giới thiệu và định hướng học sinh sử dụng các ứng dụng, phần mềm
phù hợp với học sinh để sử dụng các công cụ này hiệu quả.
2.2.5. Ứng dụng cơng nghệ thơng tin
Ngày nay có một phương tiện dạy học hiện đại có tác dụng lớn trong việc
tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học đó là sử dụng giáo án trình chiếu được
thiết kế trên các phần mềm như powerpoint, Violet, LectureMaker… Đối với
môn Lịch sử giáo viên khéo léo sử dụng công nghệ thông tin sẽ giúp học thể
hiện năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đồng thời, giáo viên có thể hướng
dẫn, giao học sinh nhiệm vụ tìm hiểu về một nội dung trong bài học sắp tới. Học
sinh chia nhóm để tìm hiểu, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm kiếm thơng tin, xử
lý thơng tin, và duyệt, chỉnh sửa nội dung bài của học sinh. Bản thân tôi đã lập
địa chỉ gmail: để học sinh gửi bài thuyết trình, giáo
viên duyệt, hỗ trợ học sinh chỉnh sửa với các nội dung thuyết trình dưới 2 dạng
phổ biến nhất là powerpoint, video...
15


2.2.6. Tổ chức các hoạt động câu lạc bộ Lịch sử trường THPT Lý
Thường Kiệt phong phú hấp dẫn
Để hướng dẫn học sinh học tập giải quyết vấn đề và sáng tạo mơn Lịch sử
có hiệu quả hơn nữa, được sự đồng ý của Ban giám hiệu trường THPT Lý
Thường Kiệt, tôi đã thành lập Câu lạc bộ Lịch sử trường THPT Lý Thường Kiệt
từ năm học 2020-2021 và được tiếp tục duy trì hoạt động trong năm học 20212022. Câu lạc bộ có sự tham gia của các giáo viên Lịch sử, cố vấn là đại diện
Ban giám hiệu nhà trường và một số học sinh u thích, có kết quả học tập môn
Lịch sử tốt để tạo sự lan tỏa, tạo ra phong trào học tập môn Lịch sử trong trường
phổ thông với các hoạt động cụ thể theo từng tháng trong năm học như sau:
STT


1

2

3

4

5

6

Thời gian

Nội dung

Hình thức tổ
chức

Người thực
hiện

Tháng 910/2021

Tìm hiểu về văn hóa Thăm quan tại Giáo viên Lịch
truyền thống, lịch sử Yên Bảo tàng tỉnh sử và học sinh
Bái
Yên Bái
theo lớp giảng

dạy; Kết hợp
cùng GVCN

Tháng
11/2021

Thi thiết kế video về các Thi thiết kê Giáo viên Lịch
di tích lịch sử tại Yên Bái video
sử và học sinh
theo lớp giảng
dạy; Kết hợp
cùng GVCN

Tháng
12/2021

Tìm hiểu về lực lượng vũ Thăm quan tại Giáo viên Lịch
trang Yên Bái
Sân bay Nam sử và học sinh
Cường
theo lớp giảng
dạy; Kết hợp
cùng GVCN

Tháng
1/2022

Thi tìm hiểu về đất nước, Thi tìm hiểu Giáo viên Lịch
địa phương
toàn trường

sử và học sinh
theo lớp giảng
dạy; Kết hợp
cùng GVCN

Tháng
3/2022

Tìm hiểu về văn hóa Thăm quan tại Giáo viên Lịch
truyền thống, lịch sử Yên Bảo tàng tỉnh sử và học sinh
Bái
Yên Bái
theo lớp giảng
dạy; Kết hợp
cùng GVCN

Tháng

Tìm hiểu về văn hóa Thăm quan tại Giáo viên Lịch
16


7

4/2022

truyền thống, lịch sử Yên Bảo tàng tỉnh sử và học sinh
Bái
Yên Bái
theo lớp giảng

dạy; Kết hợp
cùng GVCN

Tháng
5/2022

Tổng kết hoạt động câu
lạc bộ

Để thực hiện hoạt động của câu lạc bộ có hiệu quả tiến hành tạo tài khoản
Google và tài khoản Facebook: và trang Fanpage:
CLB Lịch sử trường THPT Lý Thường Kiệt-Yên Bái.
Với các hoạt động của câu lạc bộ, học sinh nhà trường đã thể hiện rõ năng
lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Cụ thể như Cuộc thi thiết kế video clip chủ đề
“Di tích Lịch sử tỉnh Yên Bái” diễn ra trong thời gian từ ngày 10/01-21/01/2022
đã thu hút, nhận được tham gia của đông đảo học sinh trong nhà trường với 27
sản phẩm. Sau vịng sơ khảo, có 12 tác phẩm vào vịng bình chọn và chấm điểm
từ Ban giám khảo. Trong đó, với hình thức bình chọn qua trang Fanpage cuộc
thi là Câu lạc bộ Lịch sử trường THPT Lý Thường Kiệt đã có 2242 lượt bình
chọn cho các tác phẩm dự thi. Tác phẩm Khu di tích lịch sử Nguyễn Thái Học
của nhóm tác giả lớp 12A8 đã có số điểm bình chọn cao nhất là 806 điểm.
Nhìn chung, các tác phẩm có nội dung phong phú với nhiều đề tài khơng
chỉ giới hạn ở thành phố n Bái mà cịn có cả các huyện, thị trong tỉnh cho
thấy sự quan tâm của các em học sinh với lịch sử địa phương. Đồng thời, nhiều
nhóm tác giả đã có cách làm hay, sáng tạo như tham quan trực tiếp di tích,
phỏng vấn nhân vật lịch sử, qua đó, tiếp tục hình thành các kỹ năng nghiên cứu
khoa học chất lượng cao cho các em học sinh.
2.2.7. Phối hợp giáo dục nhà trường và gia đình
Giáo dục phát huy hiệu quả khi có sự kết hợp hài hịa của 3 yếu tố “Gia
đình - Nhà trường - xã hội”, trong đó yếu tố gia đình là quan trọng nhất. Vì vậy

muốn học sinh học tập tốt trước hết giáo viên cần lưu ý phối hợp tốt giữa giáo
dục nhà trường và gia đình để việc học tập của học sinh có kết quả, cần kết hợp
chặt chẽ giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm, kịp thời thông báo việc
học tập của học sinh cho phụ huynh nắm để phụ huynh theo dõi, uốn nắn, phụ
huynh chuẩn bị đầy đủ sách vở, tài liệu học tập, tạo thời gian cho học sinh học
tập. Có sự kết hợp hài hịa, hiệu quả giữa các nhân tố thì giáo dục mới phát huy
được hiệu quả cao nhất.
- Các bước thực hiện:
Bước 1: Giáo viên cần xác định mục tiêu của buổi học, xác định nội dung
kiến thức cần truyền đạt về mặt lý thuyết sẽ được cung cấp cho học sinh thông
qua việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị với hình thức, nội dung, phương pháp phù
17


hợp, điều đó có ý nghĩa học sinh sẽ chủ động tiếp thu được điều gì sau buổi lên
lớp. Điều quan trọng là tại buổi học đầu tiên của môn học, giáo viên cần định
hướng học sinh tìm tài liệu tham khảo, hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề ở
nhà như thế nào để học sinh có thể chuẩn bị trước.
Bước 2: Định hướng xây dựng các nội dung làm việc của học sinh.
Bước 3: Gợi ý các hướng giải quyết.
Bước 4: Lựa chọn biện pháp giải quyết vấn đề
Bước 5: Học sinh báo cáo kết quả.
Bước 6: Giáo viên tổng kết, nhận xét và đánh giá kết quả của học sinh.
2.3. Những điểm khác biệt, tính mới của sáng kiến:
“Một số giải pháp phát huy năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của học
sinh trong môn Lịch sử tại trường trung học phổ thông Lý Thường Kiệt” đã đề
xuất các giải pháp hướng dẫn học sinh phát huy năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo trong học tập môn Lịch sử tại trường THPT Lý Thường Kiệt nói riêng
và trường THPT nói chung. Trong đó, đã đề xuất và chú trọng vào các giải pháp
như: Vận dụng hiệu quả phương pháp dạy học giải quyết vấn đề với việc đề xuất

các giải pháp mang tính chất linh hoạt, phù hợp với thực tế như trình bày giải
quyết vấn đề; tăng cường dạy học tình huống có vấn đề trong thực tiễn giảng
dạy mơn Lịch sử; xây dựng bài tập trong dạy học giải quyết vấn đề. Đồng thời,
thực hiện các phương pháp dạy học phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị như:
Áp dụng linh hoạt dạy học dự án; sử dụng phương pháp tranh luận Lịch sử hiệu
quả; hướng dẫn học sinh tự ôn tập, kiểm tra; ứng dụng công nghệ thông tin; tổ
chức các hoạt động câu lạc bộ Lịch sử trường THPT Lý Thường Kiệt phong phú
hấp dẫn; phối hợp giáo dục nhà trường và gia đình… Qua đó, phát huy hiệu quả
thực sự của việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là dạy học Lịch sử, góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giáo dục
của mỗi nhà trường.
3. Khả năng áp dụng của giải pháp (Nêu rõ ràng cụ thể khả năng áp
dụng vào thực tế của giải pháp mới, có thể áp dụng cho những đối tượng, cơ
quan, tổ chức nào và nhân rộng trên địa bàn huyện, tỉnh…, trong điều kiện cụ
thể nào, giải quyết những vấn đề, nhiệm vụ cụ thể nào)
Qua thực tế triển khai tôi thấy kết quả rất khả thi, mang lại kết quả tốt.
Sáng kiến cần được tiếp tục triển khai trong trường THPT Lý Thường Kiệt nói
riêng và các trường THPT trên địa bàn tỉnh Yên Bái nói chung. Tuy nhiên, việc
vận dụng linh hoạt sáng kiến gắn liền với thực tế địa phương sẽ cho kết quả tốt
đẹp hơn.
4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
18


giải pháp(Nêu hiệu quả, lợi ích cụ thểđã hoặc dự kiến thu được theo ý kiến của
(tập thể) tác giả và các tổ chức, cá nhân đã áp dụng sáng kiến - nếu có kèm theo
các số liệu minh chứng cụ thể)
Qua sử dụng “Một số giải pháp phát huy năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo của học sinh trong môn Lịch sử tại trường trung học phổ thông Lý
Thường Kiệt”, tôi nhận thấy tiết học đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều so với

cách dạy truyền thống là đọc chép hoặc một tiết dạy chỉ sử dụng bằng bài
giảng điện tử cho học sinh nhìn chép. Tất cả học sinh đều phải động não, sáng
tạo và chỉ trong một tiết học các em có thể trình bày nội dung của bài học.
Học sinh hoặc nhóm học sinh tự khám phá và vẽ được sơ đồ theo ý tưởng
hồn chỉnh. Bước đầu hình thành cho các em tư duy lô-gic khi học môn Lịch
sử. Khi giáo viên yêu cầu trả lời một vấn đề nào đó, các em sẽ được định
hướng bởi các câu hỏi tương ứng với các nội dung được hỏi. Điều quan trọng
nhất là qua việc sử dụng “Một số giải pháp phát huy năng lực giải quyết vấn
đề và sáng tạo của học sinh trong môn Lịch sử tại trường trung học phổ thông
Lý Thường Kiệt” trong dạy học Lịch sử, đã từng bước giúp các em có cái
nhìn “thiện cảm” với mơn Lịch sử, u thích và tích cực học mơn Lịch sử hơn.
Điều này được thể hiện cụ thể trong Bảng số liệu thống kê mức độ hứng thú
của học sinh với môn Lịch sử (kết quả khảo sát được tiến hành vào đầu năm
học 2021-2022) như sau:
Bảng 1. Mức độ hứng thú với mơn Lịch sử
Nội dung

Khơng
thích

SL

SL

TL

Bình
thường
SL


Thích

Hấp dẫn

TL

SL

TL

SL

TL

Trước khi
áp
dụng 251
sáng kiến

65

25,9% 92

36,7%

52

20,7%

42


16,7%

Sau khi áp
dụng sáng 250
kiến

23

9,2%

18,0%

87

34,8%

95

38,0%

45

Qua bảng số liệu có thể thấy rõ, trước khi áp dụng sáng kiến có 62,5%
học sinh thấy bình thường và khơng thích mơn học; chỉ có 16,7% học sinh
thấy mơn học hấp dẫn. Sau khi áp dụng sáng kiến, mức độ hứng thú của học
sinh tăng lên đáng kể, có 72,8% học sinh thấy thích và hấp dẫn môn học, tăng
35,3% so với trước khi áp dụng sáng kiến. Kết quả của việc tiến hành điều tra
nhanh đó gần hết số học sinh đưa ra ý kiến của mình thích giờ học giáo viên sử
dụng phương pháp dạy theo hướng phát triển năng lực người học, bởi các em

19



×