NHỮNG KĨ NĂNG CẦN CĨ TRONG CƠNG TÁC CHỦ NHIỆM
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong trường Trung học cơ sở vai trò của giáo viên chủ nhiệm rất là quan trọng. Họ
là nhịp cầu kết nối giữa Hiệu trưởng (Ban giám hiệu nhà trường), giữa các tổ chức trong
nhà trường với: Tổ chun mơn, đồn, đội giữa các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh
lớp chủ nhiệm. Nói cách khác, giáo viên chủ nhiệm là người đại diện hai phía, một mặt
đại diện cho các lực lượng giáo dục của nhà trường, mặt khác đại diện cho tập thể học
sinh lớp chủ nhiệm. Với tư cách là nhà sư phạm, giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm
truyền đạt tới học sinh của lớp chủ nhiệm tất cả yêu cầu, kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục của
nhà trường tới tập thể và từng học sinh của lớp chủ nhiệm bằng sự thuyết phục, cảm hóa,
bằng sự gương mẫu của người giáo viên chủ nhiệm, để mục tiêu giáo dục được học sinh
chấp nhận, tiếp thu một cách vui vẻ, tự giác, tự nguyện. Với kinh nghiệm và uy tín của
mình, giáo viên chủ nhiệm có khả năng truyền đạt những chủ trương, kế hoạch của nhà
trường thành chương trình hoạt động của tập thể lớp và của mỗi học sinh trong lớp.
Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm lớp còn là người thu thập ý kiến, nguyện vọng
của từng học sinh của lớp nhằm phản ánh với hiệu trưởng, với các tổ chức trong nhà
trường và với các giáo viên bộ mơn. Có người cho rằng: để làm điều đó thì đội ngũ
Ban cán sự của lớp có thể làm được không cần đến giáo viên chủ nhiệm. Theo tôi,
GVCN ở trường vừa là thầy cô, vừa là cha mẹ chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ các em. Tất
nhiên ý kiến đó có phần đúng, song chưa đủ.
Bởi vậy vai trị, vị trí của giáo viên chủ nhiệm rất quan tâm vì phải thường xun
tiếp nhận những thơng tin từ học sinh để đảm bảo tính khách quan, tính trung thực
trong đánh giá học sinh về các mặt. Khi tiếp nhận thông tin, người giáo viên chủ
nhiệm lớp xử lí kịp thời ngay thơng tin với tư cách là nhà sư phạm, điều đó có tác
dụng rất lớn. Có khơng ít thơng tin, suy nghĩ của học sinh chỉ có thể tâm sự, chia sẻ
với giáo viên chủ nhiệm mà không thể chia sẻ với giáo viên bộ mơn đó là một thực tế.
Ví dụ: Những oan ức, sự hiểu lầm hoặc khơng bằng lịng về một vấn đề nào đó.
Ai sẽ là người giúp các em giải tỏa những băn khoăn vướng mắc những nảy sinh trong
thực tiễn hằng ngày. Khơng ai khác chính là giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ
nhiệm không những là người đại diện cho lớp mà cịn có trách nhiệm bảo vệ, chia sẻ,
bênh vực quyền lợi mọi mặt cho học sinh lớp mình chủ nhiệm.
Tuy nhiên trong thực tế, công tác chủ nhiệm lớp cịn gặp khơng ít những khó
khăn, vướng mắc. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhiều gia đình bố mẹ
lo bn bán, đi làm ăn xa, phó mặc con cái cho ông bà nội ngoại, hay một mình ở nhà,
khó quan tâm được việc học hành của con cái, nhiều em có bố mẹ ly hơn, hoặc bố mất,
nhiều em khơng có bố nên việc giáo dục đạo đức học sinh hầu như phó mặc cho nhà
trường. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ làm cho một bộ
phận học sinh sử dụng Internet sai mục đích giáo dục, nhiều em có những chiếc điện
thoại hiện đại có thể ngang nhiên sử dụng trong lớp học. Sự suy đồi đạo đức, lối sống
của tầng lớp thanh thiếu niên đã ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức của học sinh. Ý
thức tự giác học tập, rèn luyện, tiếp thu của một bộ phận học sinh chưa cao, chưa chủ
động còn ỷ lại.
Hơn nữa, tất cả các giáo viên trước khi làm chủ nhiệm không được đào tạo qua
một trường lớp chuyên môn nào. Trong khi đó cơng tác chủ nhiệm thường là kiêm
nhiệm mà trách nhiệm lại lớn lao. Để “ứng phó được với mọi hồn cảnh” ( Có năm
gặp lớp ngoan, có ý thức, có năm gặp lớp khơng ngoan, học sinh cá biệt nhiều) buộc
mỗi giáo viên phải tự trang bị cho mình những kĩ năng cần thiết cho cơng tác chủ
nhiệm lớp.
Chính vì vậy, qua nhiều năm làm cơng tác chủ nhiệm, tôi đã đúc rút được một
số kinh nghiệm để làm tốt công tác của một người giáo viên chủ nhiệm lớp. Trong
khuôn khổ sáng kiến này, tôi mạnh dạn trao đổi cùng quý đồng nghiệp một vài vấn đề
về cơng tác chủ nhiệm lớp đó là: “ Những kĩ năng cần có trong cơng tác chủ nhiệm
lớp ở trường trung học cơ sở”.
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, bản thân tôi luôn cố gắng phấn đấu
đạt mục tiêu là một Giáo viên chủ nhiệm giỏi với việc áp dụng sáng kiến này tôi hi
vọng đạt được mục tiêu đó.
Sáng kiến được áp dụng tại lớp 8A thuộc đơn vị tôi đang công tác.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
Độ tuổi học sinh THCS nhất là học sinh lớp 8 là giai đoạn dậy thì bắt đầu xuất
hiện cảm giác mình đã là người lớn thích khám phá, thích làm chủ, thích thể hiện
mình. Các em cảm thấy mình khơng cịn là trẻ con nữa. Cảm giác về sự trưởng thành
của bản thân là nét đặc trưng trong nhân cách thiếu niên, vì nó biểu hiện lập trường
sống, cách ứng xử, hành động của thiếu niên đối với người lớn và thế giới xung
2
quanh. Cảm giác mình đã là người lớn được thể hiện rất phong phú về hình thức, tác
phong, cử chỉ, lời nói và những khả năng của bản thân.
- Trong học tập các em muốn độc lập chiếm lĩnh tri thức, muốn có lập
trường và quan điểm riêng.
- Trong phạm vi ý thức xã hội, các em muốn được độc lập và không phụ
thuộc vào người lớn ở một mức độ nhất định.
- Các em muốn được người lớn quan tâm đối xử với mình bình đẳng như đối
xử với người lớn, người lớn phải có ứng xử phù hợp, không can thiệp quá sâu, tỉ
mỉ vào một số mặt trong đời sống riêng của các em.
- Ở lứa tuổi này các em bắt đầu chống đối những yêu cầu mà trước đây nó
vẫn thực hiện một cách tự nguyện ví dụ như vấn đề trang phục, giày dép, kiểu tóc
… Các em bảo vệ ý kiến của mình khơng chỉ trong lời nói mà cả trong hành động,
việc làm
Cảm giác về sự trưởng thành và nhu cầu được người lớn thừa nhận là người
lớn đã đưa đến vấn đề quyền hạn của người lớn và các em trong quan hệ với nhau.
Các em mong muốn hạn chế quyền hạn của người lớn, mở rộng quyền hạn của
mình; các em mong muốn người lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và
mở rộng tính độc lập của các em.
Muốn được khẳng định mình đã khơn lớn, muốn được tin tưởng và độc lập
hơn, muốn được quyền bình đẳng nhất định với người lớn có thể thúc đẩy các em
tích cực hoạt động, chấp nhận những yêu cầu đạo đức của người lớn và phương
thức hành vi trong thế giới người lớn, khiến các em xứng đáng với vị trí xã hội
tích cực. Những mặt khác nguyện vọng này cũng có thể khiến các em chống cự,
khơng phục tùng u cầu của người lớn.
Có những nguyên nhân nhất định khiến thiếu niên có cảm giác về sự trưởng
thành của bản thân: Các em thấy được sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể và sức lực
của mình; các em thấy tầm hiểu biết, kỹ năng, năng lực của mình được mở rộng;
thiếu niên tham gia nhiều hơn vào cuộc sống xã hội, cuộc sống của người lớn.
Tính tự lập khiến các em thấy mình giống người lớn ở nhiều điểm…
Từ đó các em bắt đầu có ý thức cường điệu hóa ý nghĩa của những thay đổi
của bản thân, khiến cho các em có nhu cầu tham gia vào đời sống của người lớn,
trong khi đó kinh nghiệm của các em chưa tương xứng với nhu cầu đó. Đây là
mâu thuẫn trong sự phát triển nhân cách thiếu niên.
Tôi nhận thấy nhu cầu và nguyện vọng của thiếu niên là chính đáng, người
lớn phải thay đổi thái độ đối xử đối với các em.
3
Nếu người lớn không chịu thay đổi quan hệ với các em, thì các em sẽ trở
thành người khởi xướng thay đổi mối quan hệ này.
Nếu người lớn không chấp nhận, sẽ gây ra những phản ứng của các em với
người lớn dưới dạng bướng bỉnh, bất bình, khơng vâng lời, tỏ thái độ hậm hực, có
nhiều em cịn bỏ đi….
Nếu người lớn thấy sự phản đối của các em, mà khơng suy xét về phía mình
để thay đổi quan hệ với các em, thì sự xung đột của các em với người lớn còn kéo
dài đến hết thời kỳ của lứa tuổi này.
Tính độc lập và quyền bình đẳng trong quan hệ của các em với GVCN là vấn đề
phức tạp và gay gắt nhất trong giao tiếp của các em với người lớn nói riêng, trong việc
giáo dục các em ở lứa tuổi này nói chung. Khơng nên coi đây là biểu hiện của sự
“khủng hoảng” tuổi dậy thì, mà là sự khủng hoảng trong quan hệ của thiếu niên với
người lớn, chủ yếu do người lớn gây ra. Những khó khăn, mâu thuẫn có thể hạn chế
hoặc không xảy ra, nếu người lớn và các em xây dựng được mối quan hệ bạn bè, quan
hệ có hình thức hợp tác trên cơ sở tôn trọng, thương yêu, tin cậy, bình đẳng và tế nhị
trong cư xử với thiếu niên.
Sự hợp tác này cho phép GVCN đặt các em vào vị trí mới - vị trí của người giúp
việc và người bạn trong những công việc khác nhau, còn bản thân người lớn trở thành
người mẫu mực và người bạn tin cậy của các em.
Vì vậy đối với cha me, thầy cô giáo đặc biệt là GVCN trước hết phải hiểu
biết và nắm bắt về tâm lý lứa tuổi của các em, để có các giải pháp xử lý tình
huống cho thích hợp.
2. Khái qt thực trạng cơng tác giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS.
Chúng ta ai cũng biết, lứa tuổi học sinh THCS ( Trung học cơ sở) đã có sự thay
đổi rất lớn về đặc điểm tâm sinh lý, thể trạng so với khi học tiểu học nhất là học sinh
lớp 8. Những đặc điểm tâm lý, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh THCS cịn
nhiều hạn chế. Chính vì vậy, khơng thể phủ nhận vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở
trường THCS, vì vậy cần có một người thường xun theo dõi, hướng dẫn giúp đỡ, chỉ
bảo cho các em về mọi mặt.
Tuy nhiên trên thực tế, không phải giáo viên nào khi được phân cơng cơng tác
chủ nhiệm cũng có sẵn những kinh nghiệm hoặc kĩ năng cần thiết ở lĩnh vực này. Một
bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình trong quản lí lớp, một phần do cơng việc giảng
dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ nhiệm ít nhiều bị ảnh hưởng. Một
thiếu sót khác là nhiều giáo viên chủ nhiệm tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có
phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá
4
dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khn khổ một cách máy móc. Có
nhiều giáo viên chủ nhiệm chưa khéo léo, tế nhị, chưa tôn trọng học sinh. Và như thế,
về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như bị áp lực. Người dễ dãi thì lại bng
lỏng cơng tác quản lí, thiếu quan tâm sâu sát. Người nghiêm túc quá thì học sinh (HS)
lại khơng ưa. Vì vậy, nhiều khi giữa thầy cơ chủ nhiệm và học sinh khơng phải bao
giờ cũng tìm được tiếng nói chung.
Hơn nữa, cơng tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay chưa có
một khố đào tạo chính thức nào cho GVCN. Chính vì vậy, khơng nhiều GVCN thực
sự có năng lực, làm chủ nhiệm chủ yếu bằng kinh nghiệm của bản thân, dẫn đến nhiều
giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí
của các em đang phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm
tịi, bắt chước, thích giao lưu, đua địi, thích đẹp, thích được chú ý, thích sự khẳng
định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật về mơi
trường xung quanh, kĩ năng sống cịn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học,
hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, ngủ trong giờ học, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức
ngày càng nhiều.
Mặt khác địa bàn xã nơi tôi công tác là một địa bàn rộng gồm 13 xóm. Học sinh
tham gia học tập tại đơn vị gồm 404 học sinh, trong đó có 257 học sinh theo đạo
thiên chúa. Riêng học sinh lớp 8A tôi chủ nhiệm có 17/28 em HS, có nhiều em có
hồn cảnh khó khăn nên có nhiều vấn đề nhạy cảm xảy ra, phần nào đó ảnh hướng tới
cơng tác chủ nhiệm lớp, trước vấn đề đó có nhiều giáo viên họ né tránh, ngại va chạm,
phải giữ ý trong lời nói của mình, khơng trao đổi thối mái cùng phụ huynh và học
sinh như trước đây.
Tập thể lớp lớp 8A năm học 2020 -2021
5
Về bản thân tơi, tính đến nay số năm cơng tác trong ngành giáo dục là 21 năm và
đã có 17 năm tôi được phân công làm công tác chủ nhiệm lớp. Đối với tôi khi được
làm chủ nhiệm được gần gũi với các em, được các em tin tưởng, chia sẻ tôi rất vui và
hạnh phúc, đôi khi nghe các em tâm sự thấy mình trẻ ra. Tuy nhiên có khơng ít khó
khăn, băn khoăn, trăn trở trước những em học sinh có hồn cảnh khó khăn đặc biệt rồi
những em cá biệt, những em có bố mẹ ly hơn, những em mồ cơi, em khơng có
bố ...Với một quan niệm đơn giản, tơi ln đặt mình vào vị trí của học sinh để lắng
nghe và thấu hiểu, cảm thơng và chia sẻ.Chính vì vậy tơi ln tạo được niềm tin ở các
em. Năm học 2020 - 2021 tôi được Ban giám hiệu (BGH) nhà trường phân công làm
công tác chủ nhiệm lớp 8A. Sau khoảng hai tuần tìm hiểu về lớp, tơi nhận thấy có
những thuận lợi và khó khăn như sau:
a.Thuận lợi:
Đối với đơn vị tơi đang công tác, lãnh đạo nhà trường luôn chú trọng, quan tâm
đến việc giáo dục đạo đức học sinh. Đồng thời thường xuyên quan tâm đến công tác
chủ nhiệm cũng như năng lực chủ nhiệm của giáo viên làm công tác chủ nhiệm để có
những phương hướng mới nhằm xây dựng những tập thể lớp chất lượng theo tiêu chí
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Liên Đội trong nhà trường luôn quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp, ln có
tinh thần tự nguyện hợp tác với các giáo viên làm công tác chủ nhiệm để việc giáo dục
đạo đức và kết quả học tập của học sinh đạt kết quả tốt nhất.
Tôi thường xuyên kết nối với gia đình học sinh nên phần lớn đã có sự quan tâm
của phụ huynh đến việc học tập và rèn luyện của con em họ ở trường, do đó sự phối
kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh học sinh có nhiều thuận lợi. Nhiều
em có nhận thức khá, tương đối ngoan, có ý thức trong học tập và rèn luyện, luôn cố
gắng vươn lên học tập tốt...
Về phía học sinh: Các em cùng lứa tuổi (2007) Nhìn chung các em đều ngoan,
có ý thức trong học tập và lao động tốt, nhiều em ở trong một xóm, tơi đã cho các em
lập nhóm học tập ở nhà và giúp đỡ nhau trong học tập, đoàn kết xây dựng tập thể lớp
nên rất thuận lợi cho việc trao đổi, giúp đỡ nhau trong học tập, đoàn kết xây dựng tập
thể lớp.
Nhiều em học khá, lại ngoan, tinh thần xây dựng lớp cao như: Trương Quốc
Khánh , Hoàng Ly Na. Cao Viết Tuấn, Nguyễn Khắc Tuấn Trần Nhật Hùng, Nguyễn
Thị Hồi Phương… đã giúp cơ trong việc quản lí lớp.
6
- Về phía bản thân tơi: Trong khoảng một tuần làm cơng tác chủ nhiệm tơi có thể
nhớ được hết tên của tất cả học sinh lớp mình, nắm bắt thật nhanh về học lực, hạnh
kiểm và hoàn cảnh của các em để có những ứng xử phù hợp, tế nhị và thuận lợi cho
việc phân công, sắp xếp công việc, chỗ ngồi…
b.Khó khăn:
Tập thể lớp 8A sĩ số là 28 học sinh gồm 15 nam, 13 nữ , đầu năm học nhà
trường có chuyển đổi lớp (Từ 8A, B, C của năm học trước), trong đó đa số học sinh là
con em gia đình làm nơng nghiệp, và làm nghề tự do… một số em hồn cảnh gia đình
cịn khó khăn, có em bố mẹ đi làm xa, ở với ơng bà, có em ở một mình hoặc ở với anh
chị, có em là người lớn nhất trong gia đình như em Phạm Thị Mỹ Duyên thiếu sự quan
tâm thường xuyên của bố mẹ; còn một số phụ huynh chưa thật sự để tâm đến việc học
và giáo dục con cái, phó mặc cho nhà trường. Một số em chậm chạp, kĩ năng sống còn
hạn chế, nhiều em dùng điện thoại để chơi game, không dành thời gian cho học tập…
GVCN phối hợp với TPT Đội cho Học sinh Trần Ngọc Khánh trình bày lý do vi
phạm nội quy của lớp
Về học lực và hạnh kiểm: Theo kết quả năm học trước, lớp có đến hơn 2/3 số
em học lực trung bình. Cịn nhiều em chưa có ý thức vươn lên trong học tập, còn ham
chơi, lười trong các hoạt động như : Trần Ngọc Khánh, Phạm Thị Mỹ Duyên,… đặc
biệt là thường xuyên nghỉ học, còn đến lớp thì nằm bẹp, ít trao đổi trị chuyện với các
bạn khác cịn em Khánh hay nói chuyện khơng tập trung trong các giờ học. Một số em
kĩ năng giao tiếp cịn hạn chế hoặc học tốt nhưng trình bày chưa tự tin, hoặc có em đi
học hay ngủ như Phạm Thị Mỹ Duyên
7
GVCN phối hợp với TPT Đội cho học sinh Phạm Thị Mỹ Duyên trình bày lý do
vi phạm nội quy của lớp
Mặt khác tơi cịn tìm hiểu rõ được hồn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lí, tính cách,
thói quen của học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp
Khi được phân công làm chủ nhiệm tôi rất băn khoăn trăn trở làm sao để đưa tập
thể lớp ngày càng tiến bộ nên tôi đã vận dụng hết những hiểu biết cũng như kinh
nghiệm của mình với mong muốn đưa tập thể 8A có những bước tiến mới trong năm
học 2021-2022
3. Những kĩ năng đã thực hành khi làm công tác chủ nhiệm lớp tại trường
THCS nơi tôi đang cơng tác
a.Kĩ năng tìm hiểu đặc điểm tâm lí học sinh trung học cơ sở
Những đặc điểm tâm sinh lý đặc trưng ở lứa tuổi thiếu niên cho thấy, lứa tuổi
này, đúng như nhận định của nhiều nhà nghiên cứu trước đây, là lứa tuổi khó dạy, đặc
biệt với học sinh nam. Nhưng cũng như các khuyến cáo đã đưa ra, trẻ sẽ phát triển
bình thường hay khơng trong tương lai phụ thuộc vào chính sự quan tâm và cách giáo
dục của người lớn với trẻ. Vấn đề chỉ thực sự được giải quyết kết hợp từ nhiều phía:
nhà trường, gia đình và xã hội. Với tư cách là nơi giáo dục (theo nghĩa rộng) chính
thống cho học sinh - nhà trường, mà cụ thể là các thầy cô giáo, cần biết về sự phát
triển của học sinh, vận dụng chúng trong giao tiếp, trong giải quyết các vấn đề liên
quan đến các sản phẩm giáo dục của mình.
Lứa tuổi này vừa là trẻ con, vừa là người lớn trong q trình hình thành và
khẳng định cái “Tơi” có ý nghĩa xã hội, thiếu niên gặp khơng ít những khó khăn, trở
ngại cần phải vượt qua. Ở đây, ngoài sự trưởng thành của chính bản thân mình, thiếu
niên cần có sự hỗ trợ đắc lực và kịp thời, có hiệu quả từ phía người lớn và xã hội mà
trước hết là các giáo viên với tư cách là những nhà giáo dục theo đúng nghĩa của từ
8
này. Chỉ có như vậy, các em mới dần dần vượt qua khó khăn, giải quyết các mâu thuẫn
để trưởng thành và chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Để thực sự phát huy vai trò
chủ thể của người học, GV cần có những thay đổi căn bản trong quan hệ với HS.
M.Balson chuyên nghiên cứu về hành vi của những HS “khó bảo” đã cho rằng: “Sẽ
khơng có gì đạt được hiệu quả nếu GV không thay đổi quan hệ với HS”.
Thực tế cho thấy, dường như mỗi học sinh đều có những vấn đề nào đó mặc dù
bản thân các em không hề nhận thấy cho đến khi những vấn đề đó có ảnh hưởng đến
đời sống các em. Chẳng hạn, nỗi sợ hãi khi bước vào ngôi trường mới, khơng biết cách
quản lí thời gian, sợ thất bại, kỉ luật kém, bỏ giờ/ trốn tiết, học kém, những suy nghĩ về
giới tính, trạng thái trầm cảm, nghiện ngập (rượu, thuốc lá, game)… Tất cả những vấn
đề đó đều phải được quan tâm đúng mức từ phía nhà trường, mà trước hết là những
GVCN
Để hỗ trợ học sinh, trước hết GVCN phải quan tâm đến học sinh, mong muốn
nghiên cứu tìm hiểu tâm lí lứa tuổi học sinh. Không phải bao giờ người GVCN nào
cũng biết rõ về các quy luật phát triển tâm lí của trẻ em và hình dung một cách rõ ràng
về các điều kiện tối ưu để giúp các em phát triển.
GVCN cần tìm hiểu những kết quả nghiên cứu khoa học về mối quan hệ
Thầy - Trò để mở rộng nhận thức về học sinh. Đặc biệt đối với những trẻ “có vấn
đề, những trẻ không dễ dàng phát triển các mối quan hệ tích cực với giáo viên.
Việc hiểu được những yếu tố tạo nên chất lượng của mối quan hệ giữa giáo viên
và trẻ, hiểu về các đặc điểm khí chất của trẻ khi đến trường giúp GV có khả năng
tốt hơn để thúc đẩy, nuôi dưỡng mối quan hệ chất lượng cao với trẻ và có thể tạo
nên thành cơng trong nghề nghiệp.
Nắm được đặc điểm tâm lý của học sinh THCS nên ngay từ đầu khi mới nhận
lớp, tôi đã gặp gỡ các giáo viên chủ nhiệm năm trước và các giáo viên bộ mơn. Qua đó
tơi biết được HS của mình được trong lớp có những em mạnh dạn hơn như Hoàng Ly
Na,Khắc Tuấn ,Viết Tuấn,Trương Quốc Khánh còn các em như Trần Ngọc Khánh,
Mỹ Duyên.., lại chưa chăm chỉ học hay chống đối nên tôi cố gắng tìm ra mặt mạnh để
khen ngợi, khích lệ nhiều hơn là trách phạt hay phê phán. Tơi cịn giao cho một số em
giữ các chức vụ trong lớp như :Lớp trưởng,tổ trưởng, lớp phó lao động.Tơi thường
xun khen ngợi sự tiến bộ của các em nên các em khá tích cực, có trách nhiệm cao
khơng cịn vi phạm như năm học trước nữa. Riêng với em Giang và em Ngân ,em Yến
Nhi,trước đây các em hay nghỉ học khơng lí do, qua hỏi han trò chuyện với các em,
nghe các em tâm sự những lý do của mình như: Em khơng hiểu bài, nhà em có việc,em
ngủ qn hay như đồng phục bị ướt…. như em Ngọc Khánh thường chơi game. Em
9
Đức bố thường xuyên say xỉn, mẹ đi xa ở với ơng bà ngoại, ơng bà đã già ít quản lí
được, sáng cũng xách cặp đi, trưa về. Tơi đã hiểu ra, với những học sinh như thế này
không thể dùng hình thức trách phạt mà phải động viên, quan tâm nhiều hơn trong các
buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ hoặc giờ ra chơi tôi thường gặp riêng để khuyên bảo
HSvà khen ngợi sự tiến bộ để khích lệ tinh thần giúp các em phấn chấn và có động lực
học tập.
Con một số em nhút nhát như em Nhật, , Nga, Thảo… trong các giờ học cũng
như các tiết sinh hoạt lớp, tơi thường tạo điều kiện, khích lệ các em phát biểu hay nói
lên mong muốn của mình. Dần dần, các em đã mạnh dạn hơn, đã trò chuyện cởi mở
với các bạn hơn. Tích cực trong học tập hơn.
Tôi luôn chú trọng và xây dựng Ban cán sự lớp tích cực, năng động, nhiệt tình, giúp
đỡ động viên để các em là những nhà lãnh đạo tài ba cụ thể với những em có học lực khá,
chín chắn như Trương Khánh được cả lớp tín nhiệm làm lớp trưởng. em Na tuy học chưa
giỏi nhưng lại mạnh dạn và có năng lực nên tơi giao cho làm lớp phó phụ trách chung .
Em Khắc Tuấn .em Nhật Hùng ,em Phương tinh thần xây dựng bài tốt, vẽ đep nên tôi
giao cho làm tổ trưởng các tổ và vẽ ma két trong các dịp lễ quan trọng. Qua các buổi sinh
hoạt, qua trị chuyện tơi ln gần gũi để nắm bắt tình hình các bạn trong lớp,vừa nêu
gương, biểu dương tốt và có sự tiến bộ của HS để các bạn học tập, Vào các ngày lễ cô và
trị cùng nhau tham gia nhệt tình ,tích cựccác hoạt động của liên đội đề ra như: Cắm hoa
nghệ thuật, tập văn nghệ,xây dựng bộ hồ sơ Lớp /Tổ/cá nhân ,hoa điểm 10… chào mừng
ngày 20-11và ngày 26- 03
b. Kĩ năng xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp:
Kế hoạch chủ nhiệm là chương trình hành động trong một măm học của lớp chủ
nhiệm, nhằm xác định một cách chính xác : Lớp học của chúng ta muốn đi đến đâu?
và cần phải làm gì?, làm như thế nào để đạt được điều đó?
Sau khi nhận lớp, tìm hiểu học sinh , nắm được kế hoạch của nhà trường, tôi đã
chủ động xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm cho mình như sau:
* Kế hoạch cơng tác năm:
Bước 1: Thống kê đặc điểm tình hình lớp:
a.Thuận lợi
b.Khó khăn
Bước 2 : Đề ra mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp thực hiện để đạt được chỉ tiêu đó
* Kế hoạch công tác tháng cần xác định:
- Các công việc quan trọng trong tháng
- Phần các công việc cụ thể gồm: Nội dung công việc, thời gian thực hiện, người
10
thực hiện.
- Các công việc chưa xác định được lịch cụ thể (nhưng phải làm trong tháng hoặc
làm trong tháng sau)
- Biện pháp thực hiện
- Kết quả
* Kế hoạch công tác tuần cần xác định:
- Các công việc quan trọng trong tuần
- Phần các công việc cụ thể gồm: nội dung công việc, thời gian thực hiện, người
thực hiện, ghi chú (yêu cầu kết quả).
- Các công việc chưa xác định được lịch (nhưng phải làm trong tuần hoặc làm
trong tuần sau).
- Biện pháp thực hiện
- Kết quả
Sau mỗi tháng, mỗi tuần giáo viên chủ nhiệm cần đánh giá sự tiến bộ của học
sinh về học lực, hạnh kiểm, có học sinh nào cần quan tâm, quan tâm mặt nào, cần đưa
ra những biện pháp khắc phục, những em nào còn phải liên hệ với phụ huynh, để kịp
thời uốn nắn…
c, Kĩ năng tổ chức giờ sinh hoạt lớp
* Sinh hoạt lớp cuối tuần: thường tính là 1 tiết/tuần vào cuối tuần
- Đây là dạng hoạt động giáo dục tập thể, là một hình thức tổ chức tự quản cho
HS và là một trong những biện pháp cơ bản góp phần xây dựng tập thể học sinh đồn
kết. Chính thơng qua các giờ sinh hoạt lớp, các em bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và
tự đánh giá nhận xét nhau thẳng thắn, tích cực, GV gắn bó với học sinh để giải quyết
những vấn đề của cuộc sống thực hàng ngày ở trường, ở lớp học. Học sinh được mở
rộng các mối liên hệ, tăng cường sự hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau, khắc phục xu hướng
hẹp hòi, cục bộ, bè phái, chia nhóm trong đời sống tập thể hàng ngày của các em.
- Duy trì và sáng tạo trong công tác xây dựng “ Lớp học thân thiện, học sinh tích
cực” để các em thấy “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”
-Vào tiết simh hoạt cuối tuần, tơi thường để lớp trưởng, lớp phó nhận xét tình
hình các mặt trong tuần, sau đó các em khác ý kiến, những em vi phạm cũng được bày
tỏ ý kiến của bản thân. Các em được dịp ý kiến để cùng nhau xây dựng tập thể lớp.
11
Lớp trưởng Trương Quốc Khánh tổ chức giờ sinh hoạt lớp cuối tuần dưới sự
hướng dẫn của GVCN
- Đây cũng là dịp để học sinh làm quen với nhiều loại hình hoạt động khác nhau,
giúp các em phát triển các kĩ năng cơ bản và cần thiết cho bản thân. Các em phải được
vừa học vừa chơi, thi tài với nhau.... Từ đây, các em sẽ lĩnh hội được rất nhiều, góp phần
phát triển nhân cách tồn diện của học sinh, tức là phát triển mọi mặt cả trí tuệ, tình cảm,
đạo đức, thẩm mĩ, sức khoẻ, thể chất … của học sinh.
Tổ trưởng Nguyễn Quốc Bảo báo cáo tình hình hoạt động của tổ mình trong một
tuần học
12
Lớp phó Hồng Ly Na có ý kiến nhận xét tất cả các mặt trong giờ sinh hoạt lớp
- Sau cùng GVCN nhận xét ưu khuyết điểm của các em trong tuần và phổ biến nội
dung tuần tới.
* Nguyên nhân chính làm cho HS khơng thích giờ sinh hoạt lớp
- HS không được cùng nhau tổ chức, tham gia vào giờ sinh hoạt lớp
- Nội dung giờ sinh hoạt lớp khô cứng, lặp đi lặp lại, không thực sự gắn với nhu cầu
của HS, và nêu được vấn đề của chính của các em phải giải quyết mà là vấn đề của
thầy/cơ.
- Hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp đơn điệu, nhàm chán, không hứng thú với HS
- GV quá nghiêm khắc, không gần gũi, thân thiện, không đặt mình vào vị trí của
HS để hiểu các em. Có khi vào lớp không khen ngợi mà chê bai, chỉ trích và nói nhiều
tới các khoản thu của các em.
Để tránh sự nhàm chán nói trên trong q trình chủ nhiệm lớp 8A, tôi đã tiến
hành một số cách như sau:
- Đa dạng hố về nội dung và hình thức tổ chức tiết sinh hoạt lớp: trước mỗi giờ
sinh hoạt lớp giáo viên chủ nhiệm cần nắm rõ tình hình lớp, dành một khoảng thời gian
nhất định cho lớp trưởng, lớp phó báo cáo tình hình hoạt động trong tuần, cho một số em
hay vi phạm tự đánh giá về bản thân, có tiến bộ gì khơng? Chỉ ra ngun nhân tiến bộ
hoặc khơng. Sau đó cho các tổ trưởng báo cáo kết quả theo dõi. Gv lắng nghe ý kiến của
học sinh rồi nhẹ nhàng chỉ cho các em thấy những ưu điểm, hạn chế của cá nhân, của lớp
trong tuần. Giáo viên triển khai kế hoạch tuần tới, nhấn mạnh nội dung trọng tâm của lớp,
của trường, đội. Tuy nhiên, không nhất thiết tuần nào GVCN cũng tuần tự tiến hành như
thế. Có thể thay đổi nội dung và hình thức sinh hoạt cho phù hợp với lứa tuổi để các em
thấy hứng thú.
13
- Thu hút tối đa sự tham gia của mọi HS dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ, cố vấn của
GV nhằm tăng cường vai trò tự quản của học sinh: Sự tham gia của HS vào các hoạt
động, công việc của lớp, của trường vừa là nhu cầu, vừa là quyền của mỗi học sinh. Sự
cùng tham gia của tất cả HS vào giờ sinh hoạt lớp sẽ tạo ra môi trường chung để HS cùng
trải nghiệm những xúc cảm tích cực, tăng cường giao lưu giữa các em, tạo ra mơi trường
lớp học mang bầu khơng khí tin tưởng, thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ và lắng nghe ý
kiến của nhau. Từ đó tình cảm gắn bó, chia sẻ giữa các em được hình thành và củng cố.
Nói cách khác, học sinh phải là chủ thể của giờ sinh hoạt lớp, phải được tham gia
vào giờ sinh hoạt lớp từ những vai trò và nhiệm vụ khác nhau như người thực thi nhiệm vụ
được giao, người tổ chức, người khám phá và đánh giá hoạt động của họ, tập thể của họ
- Tăng cường những nội dung sinh hoạt có liên quan đến các cơng việc chung của
lớp, phù hợp với nhu cầu và sở thích của học sinh: Mỗi lớp, mỗi tập thể đều có những
cơng việc chung cần giải quyết, ví dụ như xây dựng các qui định riêng của lớp, xác
định chỉ tiêu thi đua, xử lí các tình huống nảy sinh trong tập thể lớp…., vì thế , cần để
cho HS tự thảo luận, trao đổi và quyết định. Mục đích là nhằm nâng cao bầu khơng khí
đồn kết, tinh thần trách nhiệm của mỗi học sinh trong lớp. Một tập thể lớp đồn kết
với từng thành viên có tinh thần trách nhiệm cao sẽ là môi trường giáo dục tốt nhất cho
từng học sinh. Ngoài ra việc thường xuyên thu hút các em vào quá trình bàn bạc chung
sẽ dần dần tạo ra ở các em lòng tin vững chắc rằng các em có vị trí nhất định trong lớp
và từ đó các em sẽ cố gắng nỗ lực cũng như hợp tác với mọi thành viên để hồn thành
cơng việc được giao.
- Đảm bảo giao lưu dưới hình thức đối thoại: Giao lưu giữa HS có ý nghĩa rất
quan trọng đối với q trình giáo dục, thơng qua giao lưu với bạn, mà năng lực hiểu
người khác, hiểu bạn của mỗi HS được xây dựng, do đó năng lực hiểu bản thân mình
được hình thành và năng lực tự ý thức, cơ sở của tự giáo dục được phát triển. Trong quá
trình giao lưu, các em trao đổi với nhau những quan điểm, tư tưởng, hứng thú, tâm
trạng, xúc cảm...và từ đó ,có tác động lẫn nhau. Trên cơ sở của những hiểu biết về nhau,
HS mới dễ dàng cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau, tạo nên bầu khơng khí lớp học
đồn kết, cởi mở và thân thiện..
Trong q trình bàn bạc các cơng việc chung của lớp trong tiết sinh hoạt tập thể
dưới hình thức giao lưu-đối thoại sẽ phát triển được bầu khơng khí thuận lợi cần thiết
cho giáo dục, giúp mọi HS tin tưởng và khơng sợ hãi về mặt tâm lí. Các em sẵn sàng
đưa ra những quan điểm, chính kiến của mình, sẵn sàng nghe và tiếp nhận những ý
kiến của người khác một cách tôn trọng... Giao lưu - đối thoại sẽ phát triển ở mọi HS
lòng tin vào sức lực cá nhân, phát triển thái độ phê bình đối với bản thân, sự tôn trọng
14
đối với các bạn, tính sẵn sàng giải quyết có sáng tạo các vấn đề đặt ra và niềm tin vào
khả năng giải quyết các vấn đề đó.
* Các hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp:
(1) Tổng kết, đánh giá thi đua và xây dựng kế hoạch:
- Đánh giá lại những hoạt động trong tuần:
+ Từng tổ trưởng lần lượt báo cáo tình hình học tập cũng như việc thực hiện nội
quy trường lớp của các thành viên trong tổ
+ Lớp trưởng nhận xét ưu điểm, khuyết điểm về các họat động của lớp trong
tuần vừa qua: nề nếp, học tập, đạo đức...
+ Lớp phó phụ trách văn thể, lao động: nhận xét từng mảng hoạt động do mình
phụ trách
+ GV tuyên dương những em học tập tốt, tham gia tốt các phong trào của lớp mà
nhà trường đề ra; phê bình những em khơng học bài, làm bài tập ở nhà; nhắc nhở và
yêu cầu HS về nhà suy nghĩ xem sẽ có những hình phạt như thế nào đối với những em
thường xuyên vi phạm.
- Lập kế hoạch tuần tiếp theo
(2) Hình thức hỗn hợp: tổng kết thi đua và sinh hoạt theo chủ đề
- Đánh giá tình hình chung của lớp trong tuần: lớp trưởng đánh giá chung sau
khi đã có sự thống nhất của các tổ. GVCN và HS bổ sung nếu thấy cần thiết.
- Thơng báo những cơng việc chính trong tuần tới
Hai nội dung trên nên tiến hành nhanh gọn khoảng 10 phút.
- Sinh hoạt theo chủ đề (thời gian khoảng 35 phút): Nội dung sinh hoạt nên gắn
với các hoạt động chủ điểm tháng, gắn với những ngày kỉ niệm lớn, gắn với các sự
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra ở địa phương, trong nước và trên thế
giới, ... Hình thức sinh họat cũng đa dạng: có thể là thi văn nghệ giữa các tổ, có thể chỉ
là đố vui khoa học; có thể là sự giao lưu với người trong cuộc...
(3) Tổ chức các hội thi (văn nghệ, hiểu biết khoa học, HS có bộ hồ sơ đep, hs có
nhiều điểm 10 trong tuần/dip lễ...)
Hội thi là một hình thức tổ chức họat động giáo dục, trong đó tạo ra sân chơi hấp
dẫn, mang tính thi đua, cạnh tranh giữa HS hoặc các nhóm HS để các em có cơ hội thể
hiện tài năng, vẻ đẹp, cùng nhau chia sẻ, tiếp nhận những kiến thức có liên quan đến
chủ đề đã được lựa chọn.
Đây là hình thức tổ chức họat động tổng hợp nhiều loại hình, địi hỏi thời gian
chuẩn bị cơng phu...
Đối với học sinh lớp 8A các hình thức sinh hoạt lớp được áp dụng thường xuyên.
15
* Khen chê HS: Thực tế hiện nay trong các buổi sinh hoạt lớp, các thầy cơ thường
chê học trị nhiều hơn là khen ngợi ( 60 - 70% là “chê” học sinh, đáng ra phải là ngược
lại). Thầy cô biết khen - chê đúng mực sẽ khiến học trò hứng thú trong học tập, nhất là
học sinh lớp 8, nếu chê nhiều, thái quá các em sẽ chán nản, đơi khi sẽ có những hành
động đáng tiếc xảy ra.
Về nguyên tắc, khen phải nhiều hơn chê để tạo tâm lý tích cực vì ai cũng thích
khen. Khi khen chê HS cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Luôn khích lệ, biểu dương, khen ngợi các em kịp thời.
- Khen ngợi phải cụ thể, gọi tên các phẩm chất
- Khen ngợi phải chân thật, gây được cảm xúc tích cực nơi người khen
- Đối với những hành vi tích cực mới cần khen ngay khi nó vừa xuất hiện nhất là
với những em hay mắc khuyết điểm, những em học yếu, nhút nhát….
- Khi phê bình HS cũng cần lưu ý là phê bình hành vi cụ thể chứ khơng khái qt
hố thành phẩm chất nhân cách
- Khi phê bình khơng được chì chiết, nhắc đi nhắc lại những khuyết điểm đãxảy
ra từ lâu.
d. Tổ chức giáo dục kĩ năng sống (KNS) cho học sinh
* Mục tiêu của giáo dục KNS cho HS là tăng cường năng lực tâm lí-xã hội và
xây dựng lối sống lành mạnh, tích cực cho HS. Do đó nhiệm vụ giáo dục KNS cho HS
của GVCN bao gồm:
- Hình thành, củng cố thái độ, hành vi, cách ứng xử lành mạnh, mang tính xây dựng
- Thay đổi suy nghĩ, niềm tin, thói quen, hành vi tiêu cực, có nguy cơ rủi ro
thành những hành vi tích cực, an tồn.
* Ngồi việc lồng ghép qua mơn học và hình thức, phương pháp tổ chức dạy học
thì GVCN có thể GD kĩ năng sống cho HS thông qua:
- Tổ chức các chủ đề giáo dục KNS chuyên biệt đáp ứng nhu cầu của HS qua
hoạt động ngồi giờ lên lớp.
- Lồng ghép, tích hợp qua các chủ đề, các dạng hoạt động ngoài giờ lên lớp khác.
- Qua tiếp cận 4 mục tiêu của việc học là: “Học để biết, học để làm, học để
chung sống, học để tự khẳng định” đối với các nội dung giáo dục
- Qua xử lý các tình huống trong thực tiễn cuộc sống theo cách coi trọng - tiếp
cận KNS
- Qua tư vấn, chia sẻ trực tiếp đối với cá nhân hoặc nhóm HS.
* Các nguyên tắc giáo dục KNS nhằm thay đổi hành vi tiêu cực, rủi ro cho HS:
- Tạo cơ hội cho HS học qua trải nghiệm
16
- Cung cấp kiến thức vừa đủ, tránh mang tính chung chung
- Tập trung vào những thơng điệp tích cực, rất hạn chế sử dụng những thơng điệp
mang tính đe dọa để động viên sự thay đổi hành vi
- Triển khai theo nhóm nhỏ, cần đủ thời gian để trải nghiệm và củng cố hành vi
- Khuyến khích tư duy phê phán trong các tình huống lựa chọn
- Phối hợp với gia đình, cộng đồng để tạo ra mơi trường GD khuyến khích sự
thay đổi hành vi tiêu cực, rủi ro
- Phịng ngừa sự lặp lại thói quen cũ
đ. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và quản lý cảm xúc của bản thân
Hiểu ra cơn tức giận của mình là bước đầu tiên trong việc đề phòng và kiềm chế
tức giận. Dù trong bất kì tình huống nào thì GV cũng cần bình tĩnh, linh hoạt để tìm
phương án xử lý tối ưu nhất. Điều quan trọng là cần phân biệt cảm xúc và hành vi.
Cảm xúc tức giận là bình thường, tự nhiên với con người kể cả người lớn và trẻ em.
Nhưng tức giận kèm theo hành vi làm tổn thương người khác là không thể chấp nhận
được, xét cả về mặt đạo đức và pháp lý. Khi gặp tình huống khó chấp nhận của HS thì
GV nên áp dụng các biện pháp giải tỏa căng thẳng, mặt khác tăng cường ý chí để
kiểm sốt cảm xúc, khơng cáu giận, bị kích động để đảm bảo mơi trường học tập bình
an cho mọi HS.
* Cách ứng phó và kiểm sốt cảm xúc trong các tình huống căng thẳng trên lớp:
+ Cần suy nghĩ tích cực về tình huống xảy ra hay hành vi chưa chín chắn, hoặc
vơ tình của HS.
+ Phản ứng của GV trong các tình huống khó chấp nhận nên chậm lại. Cần tỏ
thái độ như không để ý đến HS gây ra hành vi đối kháng, mặc dù cũng cần làm cho HS
gây rối biết rằng hành vi đối kháng vẫn đang nằm trong tầm kiểm sốt. Việc khơng để
ý đến hành vi gây rối sẽ đem lại sự hẫng hụt trong hành động của HS gây rối .
+ Có thể chuyển phản ứng thông qua việc thực hiện các hành động thường nhật của
mình, điều này sẽ làm cho HS gây xung đột phải tự đối mặt với bản thân
+ Pha trò, hài hước, kể chuyện trong các tình huống xung đột sẽ làm giảm đi
khơng khí căng thẳng và tiếng cười của HS trong lớp sẽ quyết định sự kết thúc vấn đề.
+ Đơi khi GV cần có phản ứng nghịch lý bằng cách làm cho HS gây ra tình
huống có phần nào cũng đem lại lợi ích cho lớp học. Cũng có thể GV đưa ra lời cám
ơn HS đó với sự hài hước.
e. Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn xung đột trong tập thể lớp
Theo tơi có một số ngun nhân nảy sinh mâu thuẫn giữa HS với nhau:
- Sự khác nhau về suy nghĩ và quan niệm
17
- Sự khác nhau về mong muốn/ nhu cầu về lợi ích các nhân
- Sự hạn chế do cách nhìn nhận sự việc/ vấn đề
- Chỉ xuất phát từ ý muốn/ suy nghĩ chủ quan của mình, mà khơng biết thừa
nhận,tôn trọng suy nghĩ, ý kiến, quan điểm của người khác
- Có một số HS hay thích gay cấn, hiếu chiến, thích người khác phải phục tùng,
hay lệ thuộc vào mình.
- Sự kèn cựa, muốn hơn người của ai đó, khơng thích người khác nổi trội hơn về
học tập, về quần áo…
- Sự định kiến, phân biệt đối xử
- Sự bảo thủ, cố chấp
- Nói hoặc nghĩ khơng đúng về nhau
- Ngồi ra cịn có những ngun nhân khác .
Tơi thấy có một số cách giải quyết HS đã sử dụng như sau:
- Nói chuyện với nhau để hiểu và thơng cảm/ bỏ qua cho nhau
- Cãi nhau, sau đó giận nhau khơng chào hỏi nhau
- Đánh nhau, sau đó khơng thèm nhìn mặt nhau, có khi cịn ni hận chờ
dịp báo thù
- Đánh nhau một cách dã man, cố tình xúc phạm, hủy hoại tinh thần và thể chất
nhau, thậm chí cịn quay video clip đưa lên mạng xã hội.
- Ngồi ra, cịn những cách giải quyết khác...
* Hậu quả của cách giải quyết mâu thuẫn tiêu cực:
- Hủy hoại lẫn nhau về cả thể chất và tinh thần.
- Làm cho HS dần mất đi lòng yêu thương con người thay vào đó là sự lạnh lùng,
độc ác.
- Gây mất đồn kết tạo mơi trường học tập khơng an tồn khơng chỉ ảnh hưởng
đến chất lượng học tập mà cịn làm cho HS khơng dám và khơng muốn đến trường.
* Cách giải quyết mâu thuẫn giữa HS mang tính tích cực
- GVCN cần nhận thức rằng mâu thuẫn nảy sinh là tất yếu, ngay cả trong trường
hợp HS đã từng rất thân nhau. Quan trọng là phải phát hiện kịp thời, nhận dạng mâu
thuẫn để chủ động giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh một cách phù hợp, tích cực.
Đồng thời, GVCN cần hướng dẫn HS cách kiểm soát cơn giận và biết tự giải quyết
tích cực các mâu thuẫn nảy sinh với bạn để tránh bạo lực học đường và xây dựng tập
thể lớp thân thiện.
18
- Khi giải quyết mâu thuẫn giữa HS, GV cần phải kiểm soát được cảm xúc của
bản thân, nếu nhận thấy cảm xúc tức giận thì cần thời gian để tạm lắng cơn tức giận
của mình trước đã để sau này không phải ân hận
* Khi giải quyết mâu thuẫn giáo viên chủ nhiệm cần lưu ý:
- Luôn giữ được sự bình tĩnh trước lỗi lầm của học sinh, để có cách ứng xử phù
hợp, tránh phạt nhầm, phạt oan, khiến các em hoang mang, thiếu niềm tin.
- Tránh buộc tội, quở mắng, trách cứ, xem thường, làm rối trí, cho giải pháp, phê
phán, giảng giải đạo đức, đồng tình...
- Nếu một trong hai HS nói “khơng”, GV hãy u cầu mỗi em suy nghĩ tiếp về
những việc mà HS này muốn cả hai cùng làm để giải quyết vấn đề. Đề nghị các em
suy nghĩ về những giải pháp có thể có cho tới khi cả hai đồng ý rằng họ đã chọn được
một giải pháp phù hợp, thoả mãn cả 2 bên và họ có thể thực hiện giải pháp này.
Trên đây là những kĩ năng cơ bản cần thiết đối với công tác chủ nhiệm lớp.Tuy
nhiên để tiến hành có hiệu quả giáo viên chủ nhiệm khơng thể làm được một mình mà
phải có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình, các tổ chức trong nhà trường và xã hội
* Hoạt động kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và các lực lượng giáo dục khác:
- Phối hợp với gia đình học sinh
Việc giáo dục học sinh trong nhà trường là sự phối kết hợp giữa nhà trường với
đồn thể, địa phương, gia đình…Trong đó, mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường
nhất là đối với GVCN là hết sức cần thiết. Chính vì vây, công tác chủ nhiệm của một
giáo viên thành công hay không một phần nhờ vào sự khéo léo phối hợp tốt giữa
GCVN với gia đình HS là yếu tố quan trọng. Muốn làm tốt công việc này, giáo viên
phải nắm đầy đủ thông tin cần thiết về học sinh về gia đình học sinh đó. Do vậy ngay
từ đầu nhận lớp tôi đã cho học sinh viết tờ khai sơ yếu lí lịch, số điện thoại bố mẹ,
trong buổi họp phụ huynh đầu năm GVCN cho họ số điện thoại của giáo viên,lập
nhóm zalo,sử dụng phần mềm smas để tiện liên lạc.
Với tơi việc đến thăm gia đình học sinh cũng rất cần thiết. Trước khi đến thăm
phụ huynh học sinh, giáo viên cần phải phân loại đối tượng học sinh: Hạnh kiểm tốt,
học tập tốt – hạnh kiểm tốt, học tập trung bình, yếu – hạnh kiểm trung bình, yếu…để
có kế hoạch đi thăm. Tốt nhất là nên đi thăm trước đối với gia đình những em có hạnh
kiểm trung bình, yếu hoặc những trường hợp đặc biệt khác của HS…
Đến với gia đình những em chăm ngoan là nhằm để biết thêm về hồn cảnh gia
đình, phương pháp học tập…của các em. Tiện thể giáo viên báo cho gia đình biết
những ưu điểm về học tập, hạnh kiểm và các hoạt động…Thường là phụ huynh của
19
đối tượng này lo lắng, quan tâm đến con cái nhiều hơn khi biết thêm con mình từ
GVCN.
Đến với học sinh hay nghịch, lơ là việc học tập, hay bỏ giị, nói chuyện, hay ngủ
trong giờ học việc GVCN đến nhà thăm gia đình là hết sức cần thiết. Vì có những học
sinh gia đình lao động nghèo, cha mẹ ít có thời gian quản lý, chỉ bảo chuyện học hành
của con cái, có thể nói là họ giao con mình cho thầy cơ. Đến khi được GVCN báo cho
biết về tình hình học tập, rèn luyện đạo đức họ mới vỡ lẽ. Có gia đình thực sự khổ tâm
vì con, nhưng cũng có gia đình xem như chẳng có chuyện gì, thậm chí chẳng cần thiết
phải nghe thơng tin từ giáo viên. Nhưng giáo viên chủ nhiệm đừng bao giờ nản lịng,
thậm chí phải tác động nhiều lần để cùng nhau bàn bạc về việc giáo dục học sinh đến
khi nào có kết quả. Và điều cần lưu ý là khi giáo viên chủ nhiệm trao đổi cùng phụ
huynh học sinh phải có mặt các con.
Gặp phụ huynh học sinh cá biệt, bản thân tơi nhận thấy, muốn có tác động tốt và
hữu ích thì chúng ta có thể thực hiện như sau:
Có thể lần đầu đến thăm gia đình mà khơng bàn chuyện giáo dục học sinh. Hoặc
nếu muốn bàn chuyện giáo dục các em phải thật bình tĩnh, trao đổi ơn hồ, đừng để
phụ huynh có cảm nhận là mình khơng được tơn trọng.
Theo tơi, việc đến thăm gia đình của các em sẽ giúp cho phụ huynh biết khá tường
tận về con em mình khi ở trường, từ đó, họ chú ý hơn đến việc dạy bảo các em. Bản thân
các em cũng sợ việc làm này của thầy cô nên cố gắng sửa chữa những sai sót của mình .
Đến thăm gia đình, cùng trao đổi việc giáo dục học sinh là việc làm thường xuyên, tuy
mất nhiều thời gian của GVCN. Sau mỗi lần được giáo viên chủ nhiệm đến nhằm bản
thân học sinh có tiến bộ rõ, nếu tiến bộ chậm cũng được rồi
GVCN phải là người huy động được tiềm năng, trí tuệ và khả năng của các bậc
phụ huynh vào việc giáo dục toàn diện học sinh đặc biệt là vấn đề tư tương đạo đức ý
thức học tập cũng như việc phịng chống các tệ nạn xã hội. Muốn có sự phối hợp này
cần nhận thức một cách đầy đủ trách nhiệm của chính phụ huynh học sinh và sự yêu
nghề mến trẻ của GVCN.
- Phối hợp với BGH nhà trường
Mỗi tháng BGH tổ chức họp Hội đồng sư phạm một lần, đề ra kế hoạch chủ
nhiệm cho GVCN của cả trường cũng như các khối lớp. Kế hoạch của BGH chính là
kim chỉ nam cho mỗi GVCN đồng thời trong lần họp định kì BGH cũng được nghe
phản ánh từ GVCN về thuận lợi, khó khăn trong quả trình thực hiện hoặc có ý kiến đề
xuất nào tơi trực tiếp gặp BGH để điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp. Những khó khăn
thắc mắc tơi đều xin ý kiến chỉ đạo hoặc nhận sự giúp đỡ từ phía BGH.
20
- Phối hợp với các giáo viên bộ môn
GVCN phải thường xuyên phối hợp với GV bộ môn với giáo viên bộ môn để
giáo dục HS và nắm bắt được khả năng trình độ của các em mà có phương pháp giảng
dạy thích hợp. Tơi cịn đề nghị giáo viên bộ mơn có kế hoạch phụ đạo thêm những em
yếu kém giúp các em lấy lại kiến thức cơ bản. Tôi xin phép giáo viên bộ môn được dự
giờ thăm lớp mình để biết được thực lực từng mơn của các em như thế nào từ đó đề ra
biện pháp giúp đỡ phù hợp. Còn trong các tiết học đề nghị giáo viên bộ môn thường
xuyên kiểm tra bài vở, gọi các em phát biểu ý kiến. Những câu trả lời đúng giáo viên
bộ môn tuyên dương hoặc cộng điểm để các em có hứng thú trong học tập
- Phối hợp với Đội TNTP Hồ Chí Minh:
GVCN cũng thường xuyên phối hợp với các thầy Tổng phụ trách công tác đội,
để thường xuyên nắm bắt tình hình học sinh lớp mình cũng như phối hợp học sinh cá
biệt của lớp.
Ngồi việc học kiến thức văn hóa, thì việc tham gia các hoạt động đội như ngày
26-3, 22-12 là một điều không thể thiếu. Đây là dịp để các em thể hiện sự năng động,
sáng tạo, rèn kĩ năng sống. Thông qua đó, các em sẽ cịn được rèn luyện thêm nhiều
phẩm chất của người học sinh cần có như là: tình đồn kết, lịng nhân ái, tinh thần cầu
tiến…GVCN phải luôn phối hợp với Đội TNTP, hiểu biết về hoạt động đội của các
em, luôn động viên nhắc nhở các em trong các hoạt động đội
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua những năm đã làm công tác chủ nhiệm và qua thời gian gần một năm chủ
nhiệm lớp 8A trong năm học 2020- 2021, bằng việc áp dụng kinh nghiệm làm chủ
nhiệm của mình, bản thân đã có được những thành cơng đáng khích lệ cả về phía cá
nhân tôi và cả lớp tôi chủ nhiệm. Những biện pháp tôi đã làm cũng đem lại hiệu quả
rất khả quan. Từ đầu năm học đến nay lớp tôi là một lớp bình thường nhưng thường
được xếp thứ 2, 3 trong các đợt thi đua, Đồng thời, bản thân tôi cũng như đồng nghiệp
cũng đã nhìn thấy được thay đởi rất lớn của nhiều cá nhân học sinh nói riêng và tập thể
lớp 8A nói chung. Cụ thể, sau một năm học, tập thể lớp 8A đạt được những thành tích
và những sự thay đổi như sau:
+ Tỉ lệ học sinh đi học chuyên cần đạt 100%.
+ Việc chấp hành nội quy trường lớp khá tốt, đạt 98 %.
+ Điểm học tập các môn học ở lớp, lực học của đa số học sinh có nhiều tiến bộ
và cao hơn so với năm học trước
21
+ Ý thức chấp hành nội quy tương đối tốt, đa số học sinh đã ngoan hơn, biết
nghe lời hơn (qua theo dõi của giáo viên chủ nhiệm và qua lời nhận xét BGH nhà
trường, của nhiều giáo viên bộ mơn).
+ Tham gia nhiệt tình, tích cực hơn và có nhiều thành tích cao hơn đối với các
hoạt động phong trào. Thái độ và ý thức học tập tốt của học được nâng lên rõ rệt, học
sinh cảm nhận được tầm quan trọng của việc học và rèn luyện ở trường, lớp. Đa số học
sinh đã chủ động, tích cực và hăng say hơn khi tham gia các hoạt động phong trào ở
lớp, trường hay ở cấp trên. Tinh thần đoàn kết, biết giúp đỡ nhau trong học tập và
trong sinh hoạt của học sinh được thể hiện trông thấy. Tỉ lệ học sinh vi phạm nội quy
trường lớp đã giảm rất nhiều, số học sinh được coi là cá biệt đã biết tự thay đổi, tự hòa
nhập vào hoạt động chung của lớp. Đa số học sinh có lối sống lành mạnh, ngoan ngỗn
và có tinh thần tự giác, tự lập cao. Khơng cịn để giáo viên phải nhắc nhở nhiều lần.
Khơng có học sinh đánh nhau, hay vơ lễ với giáo viên, khơng có học sinh bị nhắc
nhở trước tồn trường.
Kết quả năm học 2020-2021:
Hạnh kiểm
Tốt
Khá
15
53,6%
Học lực
T. Bình
Giỏi
Khá
T.Bình
Yếu
Kém
11
2
1
6
21
0
0
39,2%
7,2%
3,6%
21,4%
75%
0
0
Kết quả cuối năm học 2020 -2021 tiến bộ rõ rệt so với năm học 2019-2020
Hạnh kiểm
Học lực
Tốt
Khá
T. Bình
Giỏi
Khá
T.Bình
Yếu
Kém
20
7
1
2
9
17
0
0
71,4%
25%
3,6%
7,2%
32,1%
60,7%
0
0
Kết quả các đợt thi đua luôn đứng vào tốp đầu. Luôn đạt thứ 3, 4 trên tổng 15 lớp
trong toàn trường .
22
C. KẾT LUẬN
1. Kết luận
Trong suốt quá trình giảng dạy cũng như trong nhiều năm làm công tác chủ
nhiệm, bản thân tơi đã từng gặp phải những khó khăn rất lớn khi làm chủ nhiệm lớp.
Những khó khăn ấy cũng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan về phía năng lực, nhận
thức của tơi; cũng có những ngun nhân từ phía nhà trường, gia đình học sinh hay các
đối tượng học sinh. Tuy nhiên, đó chỉ là những khó khăn khi những năm đâu mới được
phân công làm công tác chủ nhiệm. Nhưng, sau một thời gian làm chủ nhiệm lớp, bản
thân tơi tự nhận ra rằng chính mình sẽ làm thay đổi cách thức chủ nhiệm của mình, để
có thể làm tốt được cơng tác chủ nhiệm.
Chính vì lí do đó, bản thân tơi đã từngbăn khoăn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra
những giải pháp có thể áp dụng được cho công tác chủ nhiệm đối với bất kì mơi
trường nào, đối tượng học sinh nào. Sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tịi và học hỏi, bản
thân đã tìm ra được một số giải pháp để làm tốt cơng tác chủ nhiệm, đã áp dụng những
kinh nghiệm đó vào cơng tác chủ nhiệm của mình và đã đạt được rất nhiều những
thành công. Những thành công ấy không chỉ cho chính bản thân mình mà cịn cho cả
chính tập thể lớp mình chủ nhiệm.
Điều quan trọng hơn nữa là, trong q trình chủ nhiệm, để làm tốt cơng tác chủ
nhiệm của mình, tơi đã khơng nơn nóng, vội vàng mà luôn điềm tĩnh, vạch định kế
hoạch rõ ràng về thời gian, về nội dung cơng việc và hình thức thực hiện công việc.
Đồng thời luôn tranh thủ được sự giúp đỡ của những nguồn lực khác trong nhà trường,
từ phía gia đình học sinh và từ chính sự tích cực của các đối tượng học sinh.
2. Bài học kinh nghiệm:
Qua việc áp dụng những kĩ năng cần có trong công tác chủ nhiệm nhằm xây
dựng tập thể lớp ngày càng vững mạnh bản thân chúng tôi đã thấy được mỗi giáo viên
cần có lịng nhiệt tình, u nghề, u học trị, chấp nhận gian khó, quyết tâm bằng ý
chí, niềm tin và nghị lực để đạt kết quả cao trong cơng tác chủ nhiệm của mình.
Trong q trình đó khơng nên nóng vội, áp đặt mà cần kiên nhẫn, luôn đặt quyền
lợi học sinh lên trên, giành thời gian và tâm huyết vào HS thì lúc đó cơng tác chủ
nhiệm sẽ khơng cịn nhiều vướng mắc mà sẽ là niềm vui cho mỗi giáo viên khi đến
trường.
3. Những nhận thức chung và khả năng phát triển của sáng kiến
- Phạm vi của sáng kiến có thể áp dụng cho tất cả các lớp ở trường THCS
23
4. Kiến nghị:
Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, ln địi hỏi nhiều yếu tố quan trọng. Nhưng
trong đó, quan trọng nhất là phương pháp và là tâm huyết của GVCN mà điều tơi ln
mong muốn đó là sẽ luôn nhận được giúp đỡ, phối hợp để công tác chủ nhiệm của
mình sẽ ln đạt kết quả cao hơn.
- Với cấp trên: Có thể tổ chức nhiều hoạt động hơn như tổ chức cuộc thi GVCN
giỏi để tất cả các giáo viên học hỏi thêm về kinh nghiệm và các tình huống để kịp thời
xử lí những nảy sinh trong q trình làm cơng tác chủ nhiệm.
- Với ban giám hiệu nhà trường: Tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa để các em
có dịp giao lưu học hỏi, tiếp thu kiến thức, tự tin hơn trong giao tiếp. Tổ chức thi
GVCN giỏi ở trường, tăng thêm số buổi nói chuyện về giới tính ,về sức khỏe sinh sản
lứa tuổi vị thành niên, để cho các em nhìn nhận, đánh giá, tự tin hơn trong học tập
cũng như trong giao tiếp…
Trên đây là những kĩ năng cần có trong cơng tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS
nhằm xây dựng tập thể lớp vững mạnh. Trong công tác chủ chủ nhiệm mà tôi đã sử
dụng và đưa ra đây để quý thầy cô cùng bạn đọc tham khảo. Chắc chắn không tránh
khỏi được những thiếu sót, mong được sự đóng góp ý kiến của cấp trên,và đồng
nghiệp để tôi bổ sung sửa chữa, đúc rút kinh nghiệm thêm trong công tác chủ nhiệm
của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn.
Hương khê ngày 08 tháng 01 năm 2022
24