Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài Thu Hoạch Diễn Án Hình Sự 01 (Bào Chữa Bị Cáo Tạ Văn Trường)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.87 KB, 15 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ án hình sự
Mã số hồ sơ số: LS.HS01
Diễn lần: 01
Ngày diễn:
Giáo viên hướng dẫn:

Họ và tên:
Sinh ngày … tháng … năm …
SBD:
Lớp:

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2021

0


Học viên lựa chọn bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường
1.

Tóm tắt nội dung vụ án

Cơ sở tẩm quất Hà Na có địa chỉ tại khu phố Nguyễn Giáo, phường Đồng Nguyên, thị
xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh do Ngô Văn Thành - sinh năm 1984, hộ khẩu thường trú:
Khu phố Nguyễn Giáo, phường Đồng Nguyên, TX Từ Sơn, Bắc Ninh làm chủ và đứng
tên trên giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh.
Ngày 19/6/2018, Tạ Văn Trường – sinh năm 1988, hộ khẩu thường trú: thôn Phú Đa,
xã Công Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đến quán Ha Na gặp Thành xin việc làm.


Công việc của Trường là trơng xe, dọn dẹp phục vụ phịng hát và trông quán lúc
Thành không ở quán với mức lương 4 triệu đồng/tháng. Khi có khách muốn mua dâm,
Trường có nhiệm vụ sắp xếp phòng và nhân viên để phục vụ.
Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 05/7/2018, có ba đối tượng tự khai là: Nguyễn Văn Thọ,
Nguyễn Trần Trung và Nguyễn Văn Tuấn đi xe taxi đến quán Ha Na với mục đích
mua dâm. Thọ đặt vấn đề mua dâm với Trường. Trường đồng ý và thu tiền phòng
150.000 đồng/01 phòng, 03 phòng là 450.000 đồng theo đúng lời dặn của Thành.
Trường bảo Thọ, Trung, Tuấn lên phòng 201, 202, 203 để đợi nhân viên đến bán dâm.
Tiếp đó Trường gọi Phùng Thị Kim Liên, sinh năm 1990, hộ khẩu thường trú: khu 1,
Hương Xạ, Hạ Hòa, Phú Thọ là nhân viên của quán xuống phòng 203 bán dâm và tiếp
tục gọi điện thoại cho người tên là Bắc bảo cho hai nhân viên đến quán tẩm quất Ha
Na để bán dâm. Một lúc sau Lê Thị Thanh Tâm, sinh năm 1995, hộ khẩu thường trú:
Đội 6, Ninh Thắng, Hoa Lư, Ninh Bình đến và lên phịng 202 để bán dâm. Tại phòng,
Thọ và Trung đưa tiền cho Tâm và Liên mỗi người 500.000 đồng để mua dâm. Tuấn
vẫn ở phòng 201 đợi gái bán dâm đến.
Khi Trung với Liên, Thọ với Tâm đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Cơ quan
Cảnh sát điều tra – Cơng an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang thu giữ các vật chứng: 02 bao
cao su đã qua sử dụng; 1.500.000 đồng do Tạ Văn Trường, Lê Thị Thanh Tâm và
Phùng Thị Kim Liên giao nộp; 02 điện thoại di động của Trường và Liên.
Trong quá trình điều tra, giữa Trường và Thành có sự mâu thuẫn lời khai về việc
Thành có biết, chỉ đạo việc chứa mại dâm tại quán Ha Na hay không. Ngày 10/8/2018,

1


Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bắc Ninh đã cho Trường và Thành đối chất
nhưng cả hai vẫn nguyên lời khai như trước.
Đối với đối tượng tên là Bắc, theo Trường Khai, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác
minh xác định chủ thuê bao là Nguyễn Thị Nguyên – sinh năm 1990 ở khu phố 1,
phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Theo lời khai của Nguyên thì

Nguyên bị mất máy và sim từ cuối tháng 6/2018, Nguyên cũng không biết Trường là
ai.
Ngày 17/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bắc Ninh ra văn bản số
54/KLĐT-PC02 Kết luận điều tra vụ án hình sự đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bắc Ninh truy tố đối với Tạ Văn Trường tội danh “Chứa mại dâm” theo Điều 327
khoản 2 Bộ luật Hình sự.
Ngày 18/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh ra Cáo trạng số 118/CTVKS-P1 truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn để xét xử bị can Tạ Văn
Trường về tội “Chứa mại dâm” theo Điều 327 khoản 2 điểm d Bộ luật Hình sự.
Ngày 28/12/2018, Tịa án nhân dân thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh ra Quyết định số
17/2018/QĐXXST - HS Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Tạ Văn
Trường. Thời gian mở phiên tòa: 7 giờ 30 phút ngày 11/01/2019.

2


2. Xây dựng kế hoạch hỏi
Mục đích bảng hỏi: Làm sáng tỏ sự việc, đồng thời chứng minh bị cáo phạm tội thuộc khung hình phạt nhẹ hơn
Người tiếp

Vấn đề cần

nhận câu hỏi

chứng minh

Bị

cáo

Câu hỏi


Mục đích hỏi

Trả lời

Tạ Việc áp dụng Bị cáo cho biết tại thời điểm bị Tại hiện trường chỉ có hai người bán Có 02 người mua dâm là

Văn Trường

tình tiết tăng phát hiện, có mấy người mua dâm là Liên và Tâm. Tình tiết định Thọ và Trung, có 02 người
nặng

“chứa dâm, mấy người bán dâm, cụ khung tặng nặng “chứa mại dâm 04 bán dâm là Lê Thị Thanh

mại dâm 04 thể là những ai?

người trở lên” được hiểu là đối với Tâm và Phùng Thị Kim

người trở lên”

người bán dâm. Việc Cáo trạng của Liên. Tuấn vẫn đang đợi

là khơng có

Viện kiểm sát áp dụng tình tiết tăng người bán dâm thì bị phát

cơ sở

nặng này là sai.


hiện.

Bị cáo đóng Bị cáo có hưởng lợi gì từ việc Chứng minh bị cáo chỉ là người làm Bị cáo khơng được hưởng
vai

trị

thứ mua bán dâm không?

thuê

yếu

lợi từ việc mua bán dâm.
Số tiền thu được bị cáo
phải nộp hết cho Thành

Ai cho bị cáo số điện thoại của Thể hiện bị cáo được Thành cho số điện Thành cho bị cáo số điện
Bắc?

thoại của Bắc để gọi gái mại dâm cho thoại của Bắc, dặn là
khách có nhu cầu

trường hợp có từ 02 người
mua dâm trở lên thì gọi
Thành hoặc gọi Bắc

Thành có thường xun có mặt Thể hiện Thành có quản lý trực tiếp Ngày nào Thành cũng có
ở qn khơng?


qn mát xa

mặt ở qn vào buổi tối.
Thành có một phịng riêng

3


trong quán mát xa.
Những lúc bị cáo thực hiện

Thành là người đứng quầy

cơng việc phục vụ phịng thì ai

và giao dịch với khách

là người đứng quầy?
Bị cáo phạm Trước khi bị bắt quả tang thực Bị cáo phạm tội lần đầu

Chưa từng

tội lần đầu và hiện hành vi chứa mại dâm, bị
thành

khẩn cáo đã từng thực hiện hành vi

khai báo

này trước đó chưa?

Bị cáo có biết hành vi của mình Bị cáo ăn năn hối cải và thành khẩn Bị cáo có biết hành vi của
vi phạm pháp luật khơng? Bị khai báo

mình là vi phạm pháp luật

cáo có hối hận vì đã thực hiện

nhưng do áp lực là trụ cột

hành vi chứa mại dâm hay

kinh tế nên bị cáo đã phạm

không?

sai lầm. Giờ đây bị cáo rất
hối hận và mong q Tịa
cho bị cáo cơ hội sửa sai

Ngồi lần phạm tội này, bị cáo Bị cáo có nhân thân tốt
đã từng bị kết án, bị xử phạt vi
phạm hành chính hoặc bị xử lý
kỷ luật bao giờ chưa?
Người
quyền

có Bị cáo đóng Theo Thành thì mức lương 4 Bị cáo khơng đóng vai trị quản lý mà
lợi, vai

nghĩa vụ liên yếu

quan

(Ngơ

Văn Thành)

trị

thứ triệu đồng có xứng đáng với vai thực chất chỉ thực hiện cơng việc trơng
trị quản lý của bị cáo khơng?

nom qn, phục vụ phịng, đứng quầy
trong trường hợp Thành khơng có ở
qn.
4

Chưa từng


Quán chỉ có một nhân viên mát Thành chắc chắn phải gọi thêm người
xa là Liên. Nếu đơng khách thì phục vụ bên ngoài. Cần khai thác sâu
Thành làm thế nào?

thêm Thành gọi ai, gọi số nào…

Những lúc khơng có mặt tại Thành theo dõi qua camera. Như vậy
quán, làm thế nào Thành biết Thành buộc phải biết có tồn tại việc
có những ai vào quán để thu mua bán dâm.
tiền phịng và tiền hát?
Thọ có phải khách quen của Theo lời khai của Thành và Trường thì

quán Ha Na khơng? Nếu khơng Trường mới đến làm việc từ 19/6/2018.
thì tại sao Thọ lại khai Thọ Nếu Thọ là khách quen của quán thì
thường

xuyên

(BL77)

đến

quán? việc Thọ đến mua dâm đã diễn ra nhiều
lần trước đó và Thành là người giao
dịch.

Người
quyền

có Bị cáo đóng Ngồi cơ sở tẩm quất Ha Na, Nếu khơng kinh doanh gì khác, việc
lợi, vai

trị

thứ chồng bà cịn kinh doanh gì Thành thường xun có mặt tại qn là

nghĩa vụ liên yếu
quan

khác khơng?

có cơ sở.


(Ngơ

Thị Yến)
Người

có Việc áp dụng Vào ngày bị phát hiện, ngoài bà Tại hiện trường chỉ có hai người bán

quyền

lợi, tình tiết tăng ra còn người nào khác bán dâm dâm là Liên và Tâm. Tình tiết định

nghĩa vụ liên nặng

“chứa tại quán?

khung tặng nặng “chứa mại dâm 04

quan (Lê Thị mại dâm 04

người trở lên” được hiểu là đối với

Thanh Tâm)

người trở lên”

người bán dâm. Việc Cáo trạng của

là khơng có


Viện kiểm sát áp dụng tình tiết tăng
5


cơ sở

nặng này là sai.

Bị cáo phạm Trước đây bà đã gặp bị cáo Chắc chắn Tâm sẽ khai là chưa gặp
tội lần đầu

Trường tại quán bao giờ chưa?

Trường trước đó

Người

có Việc áp dụng Vào ngày bị phát hiện, ngồi bà Tại hiện trường chỉ có hai người bán

quyền

lợi, tình tiết tăng ra còn người nào khác bán dâm dâm là Liên và Tâm. Tình tiết định

nghĩa vụ liên nặng

“chứa tại quán?

khung tặng nặng “chứa mại dâm 04

quan (Phùng mại dâm 04


người trở lên” được hiểu là đối với

Thị

Kim người trở lên”

người bán dâm. Việc Cáo trạng của

là khơng có

Viện kiểm sát áp dụng tình tiết tăng

cơ sở

nặng này là sai.

Liên)

Bị cáo đóng Chị có được anh Thành trả Theo Thành khai tại BL54 thì Liên
vai
yếu

trị

thứ lương khi làm việc ở Ha Na không được trả lương mà sẽ nhận được
không? Nguồn thu của chị đến tiền khách trả khi tẩm quất. Tuy nhiên
từ đâu? Từ khi làm việc tại điều này là vô lý và hiếm khi xảy ra do
quán chị kiếm được khoảng Thành đã thu tiền vé tẩm quất tại quầy
bao nhiêu tiền?


lễ tân rồi. Suy luận thu nhập của Liên
đến từ việc thực hiện dịch vụ đặc biệt là
bán dâm cho khách sẽ hợp lý hóa tiền
tẩm quất (tiền phịng) khách đã đóng.

6


1. Soạn theo luận cứ bào chữa cho Tạ Văn Trường
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ĐỒN LUẬT SƯ TỈNH B.N
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ KANE

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

----------***----------

----------***----------

BẢN LUẬN CỨ
Bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường
Kính thưa Hội Đồng Xét Xử (HĐXX),
Tơi là Luật sư       – thuộc Văn phòng Luật sư KANE - Đoàn Luật sư tỉnh B.N.
Theo lời mời của bị cáo Tạ Văn Trường, tơi có mặt với tư cách là người bào chữa cho bị cáo
Trường tại phiên tịa hơm nay. Trước hết, tôi xin được bày tỏ sự cám ơn tới HĐXX đã tạo
điều kiện cho tôi được nghiên cứu hồ sơ vụ việc, tham dự phiên tòa. Qua các tài liệu có trong
hồ sơ vụ án, căn cứ các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe quan điểm của
vị đại diện Viện kiểm sát, tơi xin được trình bày một số ý kiến như sau:

Bị cáo Tạ Văn Trường bị truy tố về Tội chứa mại dâm theo Điều 327 khoản 2 điểm d Bộ luật
Hình sự năm 2015 (Chứa mại dâm 04 người trở lên). Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án thì
tại thời điểm bị phát hiện, tại quán Ha Na chỉ có 02 người đang thực hiện việc bán dâm, đó là
Lê Thị Thanh Tâm, sinh năm 1995, hộ khẩu thường trú: Đội 6, Ninh Thắng, Hoa Lư, Ninh
Bình và Phùng Thị Kim Liên, sinh năm 1990, hộ khẩu thường trú: khu 1, Hương Xạ, Hạ
Hòa, Phú Thọ.
Thứ nhất, hành vi phạm tội của bị cáo không thuộc trường hợp chứa mại dâm 04 người trở
lên theo Điều 327 khoản 2 điểm d Bộ luật Hình sự năm 2015 như Cáo trạng đã truy tố.
Tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 05/07/2018 và Bản kết luận điều tra số
54/KLĐT-PC02 ngày 17/9/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bắc Ninh
cùng tất cả hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tịa hơm nay đều thể hiện số lượng người bán
dâm là 02 người, gồm Phùng Thị Kim Liên và Lê Thị Thanh Tâm. Theo như kết luận tại Cáo
trạng của Viện kiểm sát, khi Trung với Liên, Thọ với Tâm đang thực hiện hành vi mua bán

7


dâm tại phịng 202, 203 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bắc Ninh bắt quả
tang. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát đã căn cứ vào số lượng người mua dâm và bán
dâm là 04 người để truy tố tội danh bị cáo theo khung tăng nặng. Về vấn đề ngày, ngày
09/01/2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức buổi giải đáp trực
tuyến toàn quốc về một số vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và
hành chính. Theo đó, cách hiểu của tình tiết “chứa mại dâm 04 người trở lên” quy định tại
Điều 327 khoản 2 điểm d được hiểu như sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “mại” là “bán”, “mãi” là “mua” và “chứa mại dâm” là “chứa bán
dâm”. Như vậy, tình tiết định khung tặng nặng “chứa mại dâm 04 người trở lên” quy định tại
Điều 327 khoản 2 điểm d của Bộ luật Hình sự được hiểu là đối với người bán dâm. Cách hiểu
này là phù hợp với các tình tiết định khung tăng nặng khác quy định tại Điều 327 của Bộ luật
Hình sự, đồng thời cũng phù hợp với thực tiễn xử lý đối với hành vi chứa mại dâm mà có 01
người bán dâm với 03 người mua dâm trong cùng một khoảng thời gian thì bị xử lý theo quy

định tại khoản 1 của điều luật này nếu khơng có tình tiết định khung tăng nặng.
Trong vụ án này chỉ có 02 người bán dâm là Phùng Thị Kim Liên và Lê Thị Thanh Tâm. Do
đó, hành vi phạm tội của bị cáo không thuộc trường hợp chứa mại dâm 04 người trở lên theo
Điều 327 khoản 2 điểm d Bộ luật Hình sự năm 2015 như Cáo trạng đã truy tố. Tơi đề nghị
HĐXX xem xét chuyển khung hình phạt từ Điều 327 khoản 2 điểm d về Điều 327 khoản 1
Bộ luật Hình sự.
Thứ hai, bị cáo có nhân thân tốt, ngồi lần phạm tội này thì bị cáo là người tôn trọng các quy
tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi
cư trú, không vi phạm những điều mà pháp luật cấm, chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm
hành chính, bị xử lý kỷ luật. Sau khi bị bắt, bị cáo Trường đã sớm nhận ra sai phạm của
mình, vơ cùng ăn năn, hối hận về sai phạm của mình. Trong quá trình điều tra, bị cáo thể hiện
thái độ thành khẩn khai báo, hợp tác với Cơ quan điều tra. Tại Cáo trạng, bị cáo khơng có
tình tiết tăng nặng, đồng thời được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là:
Một là, người phạm tội thành khẩn khai báo
Hai là, người phạm tội ăn năn hối cải.
Mặc dù thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải cùng thuộc Điều 51 khoản 1 điểm s tuy nhiên
8


thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là hai khái niệm có nội dung khác nhau, cụ thể: Thành
khẩn khai báo là khơng khai gian dối một điều gì có liên quan đến hành vi phạm tội; ăn năn
hối cải là trường hợp sau khi phạm tội, người phạm tội cảm thấy bị cắn rứt, giày vò lương
tâm về những việc mình làm, hối hận và muốn sửa chữa sai lầm. Như vậy, Điều 51 khoản 1
điểm s Bộ luật hình sự quy định có hai tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội thành khẩn khai
báo và người phạm tội ăn năn hối cải chứ không phải chỉ là một tình tiết giảm nhẹ (Căn cứ
cơng văn hướng dẫn số 994/VKSTC-V3 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao v/v áp dụng tình
tiết giảm nhẹ trong Bộ luật Hình sự).
Ngồi ra, thơng qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và xét hỏi tại phiên tòa, luật sư cho rằng bị cáo
cịn được hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ nữa là phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng (Điều 51 khoản 1 điểm i Bộ luật Hình sự)

Căn cứ Cơng văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp “một số vấn đề nghiệp
vụ”, bị cáo Trường được hưởng tình tiết giảm nhẹ này vì hai lý do: Thứ nhất, từ trước đến
nay bị cáo chưa phạm tội nào. Thứ hai, mặc dù bị cáo phạm tội nghiêm trọng nhưng bị cáo
chỉ đóng vai trị thứ yếu. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy bởi vì bị cáo thực hiện hành vi
phạm tội do sự dẫn dắt của chủ quán là anh Thành. Anh Thành là người quản lý trực tiếp
đồng thời là người đứng tên của cơ sở tẩm quất Ha Na. Khi bị cáo đến xin việc, anh Thành là
người tiếp nhận và trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo, cho số điện thoại của chị Bắc, chị Liên để
khi khách có nhu cầu mua dâm thì gọi. Theo như lời khai của Thành, Liên và Tâm, bị cáo
khơng được nhận bất kỳ lợi ích nào từ việc chứa mại dâm ngoài 4 triệu đồng mỗi tháng. Ở
đây ta cần đánh giá lại vai trò của Ngô Văn Thành. Trên cương vị là người quản lý trực tiếp
và là chủ sở hữu của quán Ha Na, Thành là người được hưởng lợi từ việc cho phép người sử
dụng địa điểm để thực hiện hành vi mại dâm. Mặt khác, Thành cũng thường xuyên có mặt tại
quán, đồng thời giám sát bằng camera để tổng hợp doanh thu hàng ngày. Ngày 05/7/2018,
Thành có đến quán trong lúc các đối tượng đang thực hiện hành vi mua bán dâm nhưng
Thành lại khai là khơng biết gì. Nếu nói Thành không biết được hành vi mại dâm diễn ra
trong qn của mình là rất vơ lý. Do đó, bị cáo Trường mặc dù đã thừa nhận sai phạm, tuy
nhiên trong vụ án này Trường chỉ đóng vai trị thứ yếu, việc Trường thực hiện hành vi nêu
trên khơng hồn tồn là do ý chí của bản thân, vì lợi ích của bản thân.

9


Từ những nội dung đã phân tích ở trên, kính mong HĐXX xem xét chuyển khung hình phạt
đối với bị cáo Tạ Văn Trường với tội danh chứa mại dâm theo quy định tại Điều 327 khoản 1
Bộ luật Hình sự cùng với các tình tiết giảm nhẹ để được áp dụng mức phạt tù không quá 03
năm. Kết hợp với các điều kiện là bị cáo có nhân thân tốt, được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ
theo quy định tại Điều 51 khoản 1 Bộ luật Hình sự và khơng có tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 khoản 1 Bộ luật Hình sự, ta có cơ sở tin rằng vẫn đạt
được mục đích giáo dục, cải tạo mà không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội và điều này không
trái với yêu cầu chống và phòng ngừa tội phạm. Để đảm bảo sự công bằng, thể hiện sự khoan

hồng của Nhà nước, kính đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo theo Điều 65 Bộ luật
Hình sự.
Trân trọng cảm ơn./.

Luật sư,

10


NHẬN XÉT PHẦN DIỄN ÁN
Nhận xét chung: Các nhân vật có trang phục nghiêm chỉnh, giọng nói mạch lạc rõ ràng, các
bước tham gia phiên tòa: thực hiện đúng, đầy đủ các bước tiến hành phiên tòa theo quy định
pháp luật,
Tên

Nhận xét về nội dung diễn án

vai diễn
Thư ký Tòa

Đảm bảo các thủ tục bắt đầu phiên tòa.

án
Chủ tọa phiên Đảm bảo các thủ tục bắt đầu phiên tòa. Tuy nhiên chủ tọa chưa yêu cầu người
tòa

làm chứng cam kết về lời khai tại tòa.
Về cách đặt câu hỏi:
Hỏi bị cáo: Các câu hỏi mang tính làm rõ tình tiết sự việc
Hỏi người làm chứng: Các câu hỏi mang tính làm rõ tình tiết sự việc, hỏi người

làm chứng trước đây đã từng chở ai đến quán Ha Na chưa

Luật sư bào

Về cách đặt câu hỏi: Câu hỏi khá sát với nội dung vụ án. Các câu hỏi nhấn

chữa

mạnh các nội dung: Về thời gian làm tại quán Ha Na không dài, công việc cụ
thể của bị cáo tại quán chủ yếu là bưng bê phục vụ chứ không hẳn là công việc
quản lý, về quan hệ của bị cáo và chị Liên là hoàn toàn do Thành dẫn dắt, về số
điện thoại của Bắc đã được dán ở quầy lễ tân trước khi bị cáo vào làm, số
lượng người bán dâm tại thời điểm bị phát hiện. Nhìn chung các câu hỏi của
luật sư đối với bị cáo khá tốt.
Câu hỏi với chị Liên: Chưa khai thác sâu được vì các câu trả lời của chị Liên
đều có lợi cho anh Thành. Lẽ ra luật sư không nên hỏi Liên nhiều mà chỉ nên
hỏi Liên về những tình tiết rõ ràng như có mấy người bán dâm để được giảm
khung hình phạt.
Câu hỏi với chị Tâm: Chưa khai thác sâu được. Lẽ ra luật sư cần hỏi là trước
đó Tâm đã gặp Trường hay đến Ha Na bán dâm bao giờ chưa. Hỏi vậy để
chứng minh bị cáo phạm tội lần đầu.
Luật sư không đặt câu hỏi với anh Thành.
Về bản luận cứ của luật sư:

11


- Định tội định khung: Không đồng ý truy tố bị cáo theo Điều 327 khoản 2
điểm d mà phải là Điều 327 khoản 1 vì tình tiết chứa mại dâm 04 người trở
lên là áp dụng đối với người bán dâm theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm

phán.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo Điều
51 khoản 1 điểm s; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn theo Điều
51 khoản 1 điểm h; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng theo Điều 51 khoản 1 điểm i => Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên sẽ
được quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
=> Đề nghị cho bị cáo hưởng án treo do hình phạt dưới 1 năm, nhân thân tốt,
bị cáo là lao động chính trong gia đình.
=> Đồng ý với hướng bào chữa của luật sư. Tuy nhiên luật sư cần làm rõ vai
trò của bị cáo chỉ là thứ yếu. Như vậy sẽ có lợi khi xác định tình tiết giảm nhẹ
phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Căn cứ Công văn số
01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp “một số vấn đề nghiệp vụ”,
bị cáo Trường được hưởng tình tiết giảm nhẹ này vì hai lý do: Thứ nhất, từ
trước đến nay bị cáo chưa phạm tội nào. Thứ hai, mặc dù bị cáo phạm tội
nghiêm trọng nhưng bị cáo chỉ đóng vai trị thứ yếu.
Về phần tranh luận:
- Luật sư chưa phản biện được hiệu lực của Công văn hướng dẫn của Hội đồng
thẩm phán. Thứ nhất, Hội đồng thẩm phán đã giải thích hướng dẫn trực tuyến
vào ngày 09/01/2019, trước thời điểm diễn ra phiên tòa sơ thẩm nên việc áp
dụng hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán là hồn tồn có thể. Thứ hai, vì đây
là hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán đối với các vụ việc đã xảy ra nên
không thể đặt vấn đề chưa có hiệu lực tại thời điểm xảy ra hành vi vi phạm để
không áp dụng được.
Đại diện Viện Về cách đặt câu hỏi: Câu hỏi sát với nội dung. Tuy nhiên câu hỏi tại sao bị cáo
kiểm sát

đang từ làm kỹ thuật x-quang lại chuyển sang quản lý quán Ha Na lại không
liên quan đến chức năng truy tố và buộc tội của Viện kiểm sát. Các câu hỏi ban
đầu của đại diện Viện kiểm sát đối với Ngô Văn Thành cịn mang tính trực


12


diện, hỏi Thành có thừa nhận hành vi phạm tội khơng hay có biết về việc mua
bán dâm hay khơng thì tất nhiên Thành sẽ trả lời là khơng. Có một số câu hỏi
xoáy sâu làm rõ hành vi của Thành là: Thành có thường xun đến qn
khơng? Thành có biết tại quán có diễn ra hành vi mại dâm khơng? Nếu khơng
thì tại sao anh thường xun có mặt tại quán mà lại không nắm được thực trạng
trên? Chị Liên có kỹ thuật massage khơng?...
Luận tội của đại diện Viện kiểm sát: Thiếu các tình tiết giảm nhẹ là thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải
Phần tranh luận: Không đồng ý việc luật sư áp dụng công văn hướng dẫn của
Hội đồng thẩm phán vì lý do cơng văn này chưa có hiệu lực tại thời điểm xảy
ra hành vi phạm tội. Lẽ ra đại diện Viện kiểm sát nên trích dẫn định nghĩa tại
Pháp lệnh phịng chống mại dâm 2003, trong đó mại dâm là mua, bán dâm.
Vậy nói “chứa mại dâm 04 người trở lên” thì tức là nói chứa 04 người mua bán
dâm trở lên. Như vậy sẽ hay hơn
Không đồng ý với Điều 51 khoản 1 điểm h và điểm i: Khơng thể nói hành vi
chứa mại dâm không gây hậu quả nghiêm trọng bởi đây là hành vi xâm phạm
nghiêm trọng đến trật tự xã hội, số lượng người tham gia lớn.
Đại diện Viện kiểm sát trả lời bị cáo đóng vai trị thực hành. Điều này chỉ được
đặt ra khi có đồng phạm. Vậy có nghĩa là trong vụ án này cịn đồng phạm nếu
theo quan điểm của Viện kiểm sát. Tuy nhiên trong phần đặt câu hỏi cũng như
trong phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát hoàn toàn bỏ qua vai trò của của
Thành.
Bị cáo Tạ

Trả lời được câu hỏi, hiểu vụ án tuy nhiên giọng nói hơi nhỏ.

Văn Trường

Hội thẩm 1

Câu hỏi sát với nội dung vụ án.

(Vũ Diệu
Linh)
Hội thẩm 2

Câu hỏi sát với nội dung vụ án, khai thác sâu thêm vấn đề.

(Sái Hoàng
Thái Hà)

13


Người làm

Trả lời khá tốt các nội dung được hỏi, hiểu vụ án.

chứng
(Nguyễn Văn
Huy)
Người có QL, Trả lời khá tốt các nội dung được hỏi, hiểu vụ án.
NV liên quan
(Ngô Văn
Thành)
Người có QL, Trả lời khá tốt các nội dung được hỏi, hiểu vụ án.
NV liên quan
(Phùng Thị

Kim Liên)
Người có QL, Trả lời khá tốt các nội dung được hỏi, hiểu vụ án.
NV liên quan
(Lê Thị
Thanh Tâm)
Người có QL, Trả lời khá tốt các nội dung được hỏi, hiểu vụ án.
NV liên quan
(Ngô Thị
Yến)

14



×